Mục lục
Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (Điểm mới)
TÓM TẮT
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về thủ tục tiến hành các giai đoạn tố tụng. Những sửa đổi, bổ sung này xuất phát từ chủ trương cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp của Đảng, đặc biệt là yêu cầu phải bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng làm căn cứ để ra phán quyết. Cơ quan lập pháp đã pháp điển hóa một số nội dung của các văn bản hướng dẫn thành những quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự mới, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn; tạo sự đồng bộ, tránh trùng lặp với các ngành luật khác. Bộ luật còn chứa đựng một số quy định tiến bộ được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật của các nước phát triển và những điều ước quốc tế liên quan đến tố tụng hình sự mà Việt Nam là thành viên.
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 có 08 phần, 37 chương, 346 điều. BLTTHS năm 2015 được xây dựng gồm 09 phần, 36 chương, 510 điều (tăng 164 điều). Về bố cục, cơ quan lập pháp đã tách Chương Quyết định việc truy tố khỏi Phần Khởi tố, điều tra vụ án hình sự (VAHS) để xây dựng thành một phần độc lập (Phần thứ ba – Truy tố), qua đó cho thấy truy tố là một giai đoạn tố tụng chứ không phải là một hoạt động trong giai đoạn điều tra; ghép Phần Xét xử sơ thẩm và Phần Xét xử phúc thẩm điều chỉnh trong một phần (Phần thứ tư – Xét xử vụ án hình sự), trong đó có những quy định chung áp dụng cho cả xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm (Chương XX) nhằm tránh sự trùng lặp và những quy định riêng cho từng cấp xét xử (Chương XXI, XXII). Kết cấu của Bộ luật mới thể hiện tính khoa học, tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp, xứng tầm là một trong những đạo luật cơ bản tạo thành khung pháp lý tư pháp hình sự của Việt Nam.
1. Khởi tố vụ án hình sự
BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể, đầy đủ hơn về cơ sở khởi tố VAHS, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bộ luật bổ sung kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước là một trong những cơ sở khởi tố VAHS và đưa ra khái niệm của từng cơ sở khởi tố; quy định rõ cơ quan, tổ chức nào có trách nhiệm tiếp nhận và thủ tục tiếp nhận thông tin về tội phạm tương ứng cho từng chủ thể; bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các nguồn tin về tội phạm. Thời hạn tối đa để giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được tăng lên thành 04 tháng.[1] Những bổ sung này phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đảm bảo việc tiếp nhận, giải quyết các nguồn tin về tội phạm được thực hiện chặt chẽ, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan; tạo cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm hay không.
Bên cạnh quyết định khởi tố VAHS, quyết định không khởi tố VAHS, Bộ luật mới còn cho phép các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả; hoặc đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả (khoản 1 Điều 148). Khi lý do tạm đình chỉ không còn, các cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định phục hồi việc giải quyết các nguồn tin về tội phạm (Điều 149). Đây là những vấn đề hoàn toàn mới nhưng rất cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền trong thực tiễn tạm ngưng quá trình giải quyết các nguồn thông tin về tội phạm, chờ sự kết luận, hợp tác từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; sau đó quyết định khởi tố hoặc không khởi tố VAHS.
BLTTHS năm 2015 còn bổ sung quy định cụ thể Viện kiểm sát cấp nào là cơ quan có trách nhiệm giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cũng như quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm nhằm tăng cường trách nhiệm của cơ quan tư pháp này, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội và đồng thời để phù hợp với Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2014.[2]
Việc bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố đối với một số tội phạm nhất định được bổ sung là một trong những căn cứ không khởi tố VAHS. Điều này giúp khắc phục thiếu sót của BLTTHS năm 2003, nhấn mạnh rằng trong những trường hợp luật định (khoản 1 Điều 155) mặc dù sự việc có dấu hiệu tội phạm nhưng nếu bị hại hoặc người đại diện không yêu cầu thì cơ quan có thẩm quyền không được tự ý ra quyết định khởi tố VAHS. (Xem thêm: Không yêu cầu và rút yêu cầu đối với tội phạm khởi tố theo yêu cầu)
Bên cạnh trường hợp bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, Bộ luật bổ sung quy định khi người bị hại chết thì người đại diện của họ có quyền yêu cầu khởi tố VAHS. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố tự nguyện rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ mà không giới hạn là phải rút trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm. Tất cả những sửa đổi, bổ sung trên cho thấy sự đề cao, tôn trọng ý chí của bị hại và người đại diện trong việc yêu cầu, rút yêu cầu khởi tố VAHS, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của bị hại ngay cả khi họ đã chết.
Xem thêm bài viết về “Khởi tố vụ án”
- Phân biệt “Khởi tố vụ án hình sự” và “Khởi tố bị can” – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
2. Điều tra vụ án hình sự
2.1. Thẩm quyền điều tra
BLTTHS năm 2015 giới hạn, quy định cụ thể hơn về những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra (CQĐT) cấp trung ương. Theo đó, CQĐT Bộ Công an, CQĐT Bộ Quốc phòng chỉ điều tra VAHS về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hủy để điều tra lại; VAHS về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, VAHS về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra (điểm c khoản 5 Điều 163). Quy định này vừa phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền cho cấp cơ sở vừa góp phần khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn[3] có thể xuất phát từ quy định không rõ ràng và quá rộng của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp trung ương.[4] Bộ luật cũng sửa đổi thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), CQĐT Viện kiểm sát quân sự trung ương cho phù hợp với Luật Tổ chức VKSND năm 2014.[5]
2.2. Các hoạt động điều tra, tạm đình chỉ điều tra
BLTTHS năm 2015 có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến các hoạt động điều tra VAHS nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Ví dụ bổ sung quy định về hoạt động nhận biết giọng nói, định giá tài sản và các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (bao gồm ghi âm, ghi hình bí mật, nghe điện thoại bí mật, thu thập bí mật dữ liệu điện tử). Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt xâm phạm đến các quyền cơ bản của công dân nên cơ quan lập pháp phải quy định cụ thể về các trường hợp áp dụng, trường hợp hủy bỏ, thẩm quyền và thời hạn áp dụng, mục đích sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng các biện pháp này. Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thực chất là biện pháp trinh sát đã được dùng để khám phá tội phạm trong nhiều VAHS. Luật hóa những biện pháp này là một điểm tiến bộ, góp phần hạn chế việc lạm dụng chúng trong thực tiễn; đồng thời giúp CQĐT thuận lợi hơn trong việc chứng minh tội phạm vì không phải chuyển hóa những thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp trinh sát như trước đây.[6]
Hoạt động giám định được sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong công tác giám định hiện nay như: giám định chậm trễ, giám định không chính xác, xung đột giữa các kết luận giám định.[7] Bộ luật còn bổ sung các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định (ví dụ: vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, mức độ ô nhiễm môi trường); thời hạn giám định cho từng nhóm vấn đề cần giám định; việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC. Bổ sung này là hợp lý, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác giám định, giúp quá trình tố tụng không bị trì hoãn.
Đối với những hoạt động điều tra khác, BLTTHS năm 2015 cũng có một số sửa đổi, bổ sung. Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bắt buộc phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc lấy lời khai người làm chứng, bị hại và đương sự cũng có thể được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Ngoài khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, các biện pháp điều tra khác như đối chất, nhận dạng, khám xét, thực nghiệm điều tra chỉ được tiến hành khi có mặt Kiểm sát viên. Những sửa đổi, bổ sung trên tạo cách thức kiểm tra, giám sát hoạt động của Điều tra viên, Kiểm sát viên, qua đó hạn chế tình trạng bức cung, dùng nhục hình trong quá trình điều tra, hạn chế việc xét xử oan sai. Để các quy định này được thi hành trên thực tế đòi hỏi Nhà nước phải nhanh chóng trang bị đầy đủ thiết bị ghi âm, ghi hình có âm thanh tại trụ sở CQĐT các cấp và các cơ sở giam giữ; cũng như ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết các vấn đề liên quan như: thẩm quyền, thủ tục tiến hành, cách thức bảo quản, sử dụng băng ghi âm, ghi hình,…
Về tạm đình chỉ điều tra, BLTTHS năm 2015 bổ sung thêm một căn cứ đó là khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà thời hạn điều tra đã hết. Mặc dù quá trình điều tra tạm ngưng nhưng việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả (điểm c khoản 1 Điều 229). Bổ sung này phù hợp với căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (điểm a khoản 1 Điều 148) và cũng là căn cứ để Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ vụ án trong các giai đoạn truy tố, xét xử (điểm c, khoản 1 Điều 247; điểm a khoản 1 Điều 281).
2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
BLTTHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao trách nhiệm, tạo điều kiện để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động điều tra. Theo đó, Viện kiểm sát có quyền “trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố” (khoản 7 Điều 165). Bên cạnh trường hợp chuyển vụ án trên cơ sở đề nghị của CQĐT như hiện nay, Bộ luật bổ sung những trường hợp cụ thể trong đó Viện kiểm sát chủ động ra quyết định chuyển vụ án (khoản 1 Điều 169).
Xem thêm bài viết về “Điều tra”
- Vật chứng là gì? Vai trò của vật chứng trong điều tra hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
3. Truy tố
Cơ quan lập pháp tách chương “Quyết định việc truy tố” trong Phần Khởi tố, điều tra thành một phần riêng – Phần thứ ba: Truy tố. Điều này phù hợp với Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và cho thấy truy tố là một giai đoạn trong quá trình TTHS chứ không phải là một hoạt động thuộc về giai đoạn điều tra. Phần này gồm 02 chương: Chương XVIII – Những quy định chung, Chương XIX – Quyết định việc truy tố bị can. Những sửa đổi, bổ sung quan trọng trong phần truy tố của BLTTHS năm 2015 bao gồm:
– Xây dựng hai điều luật để quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và khi kiểm sát trong giai đoạn truy tố;
– Quy định về thẩm quyền truy tố;
– Quy định cụ thể các trường hợp tách, nhập vụ án;
– Quy định cách thức giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án;
– Quy định cụ thể, rõ ràng các trường hợp, trách nhiệm, thủ tục tạm đình chỉ, đình chỉ và phục hồi vụ án;
Thẩm quyền truy tố là một quy định hoàn toàn mới so với BLTTHS năm 2003. Về nguyên tắc, Viện kiểm sát cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp đó quyết định việc truy tố. Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với vụ án.Trường hợp xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, Viện kiểm sát ra ngay quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền. Vấn đề “ủy quyền truy tố” cũng được quy định cụ thể, với yêu cầu chậm nhất 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Quy định này giúp Viện kiểm sát cấp dưới chủ động nắm bắt vụ án, không lúng túng khi được phân công trực tiếp thực hành quyền công tố.
Do trước đây truy tố là một phần của giai đoạn điều tra nên cách thức Viện kiểm sát giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án đã không được quy định. Đây là một điểm thiếu sót của BLTTHS năm 2003, gây khó khăn cho Viện kiểm sát trong thực tiễn. Với quy định tại Điều 246 BLTTHS năm 2015, Viện kiểm sát sẽ có 03 cách thức xử lý khi nhận được quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án: trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; hoặc trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung; hoặc giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án. Những quy định trên tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, tạo sự thuận lợi và linh hoạt cho Viện kiểm sát khi giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án.
Xem thêm bài viết về “Truy tố”
4. Xét xử vụ án hình sự
4.1. Những quy định chung
BLTTHS năm 2015 bổ sung chương “Những quy định chung về xét xử” chứa đựng các quy định có tính chất chung cho cả xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm nhằm loại bỏ những quy định trùng lặp trong BLTTHS hiện hành. Phần này có những sửa đổi, bổ sung đáng chú ý sau:
– Quy định những trường hợp tạm ngừng phiên tòa (Điều 251);
– Quy định các hoạt động xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ của Tòa án (Điều 252);
– Hội đồng xét xử phúc thẩm có 3 thẩm phán trong mọi trường hợp (khoản 2 Điều 254);
– Quy định cách bố trí phòng xử án thể hiện sự trang nghiêm, an toàn, bảo đảm sự bình đẳng giữa người thực hành quyền công tố và luật sư, người bào chữa khác (Điều 257);
– Mở rộng phạm vi những người tham gia tố tụng, cơ quan được nhận bản án (Điều 260)
– Xây dựng 02 điều luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử và khi kiểm sát xét xử (Điều 266, 267).
Trong số những bổ sung trên, việc quy định các hoạt động xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ của Tòa án ở cả hai cấp xét xử là nổi bật nhất. Những hoạt động này có thể được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử (tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp) hoặc tại phiên tòa (xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến tội phạm, xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được). Quy định này tạo cơ chế để Tòa án chủ động xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ mà không cần trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; qua đó đẩy nhanh tiến trình giải quyết vụ án.
4.2. Xét xử sơ thẩm
Đối với việc xét xử sơ thẩm (XXST), cơ quan lập pháp đã pháp điển hóa các văn bản hướng dẫn hiện hành thành những quy định của BLTTHS năm 2015. Ví dụ quy định TAND cấp tỉnh và Tòa án quân sự (TAQS) cấp quân khu có quyền xét xử những VAHS thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAQS khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người (điểm c khoản 2 Điều 268).[8] Bộ luật cũng bổ sung quy định cho phép TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu được quyền xét xử những VAHS mà bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; bổ sung 02 điều luật (Điều 272, 273) quy định về thẩm quyền XXST của TAQS và cách phân định thẩm quyền xét xử đối với vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND.[9]
Như đã đề cập ở phần trên, nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, tránh kéo dài quá trình tố tụng không cần thiết, BLTTHS năm 2015 đã liệt kê cụ thể những hoạt động Tòa án có thể tự mình thực hiện nhằm xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ (Điều 252); bổ sung quy định Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ mà không cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 284). Bộ luật còn quy định thêm một trường hợp tạm đình chỉ vụ án (điểm c khoản 1 Điều 281) đó là khi phải “chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Tòa án kiến nghị” để thống nhất với quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014.
Để đảm bảo nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, phân định rõ chức năng tố tụng, BLTTHS năm 2015 mở rộng giới hạn XXST theo hướng cho phép Tòa án được quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố sau khi đã trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết (khoản 3 Điều 298). Với quy định này thì Tòa án chỉ còn bị giới hạn ở một vấn đề đó là không được quyền xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát chưa truy tố. Việc mở rộng giới hạn XXST như trên là hợp lý, tuy nhiên nên quy định rõ Tòa án phải trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung về tội danh nặng hơn chứ không chỉ là trả hồ sơ để truy tố lại. Khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì đồng thời bị cáo và người bào chữa cũng có thời gian để chuẩn bị phương án bào chữa theo tội danh mới.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử công bằng, ngoài những sửa đổi, bổ sung trong Phần những quy định chung, BLTTHS năm 2015 còn quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa (Điều 290, 291); cho phép bị cáo có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với bị cáo khác, bị hại, người làm chứng nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay (Điều 309, 310, 311); quy định Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa (khoản 2 Điều 322).
Để bảo đảm quyền của người bị buộc tội được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định,[10] BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về những trường hợp và thời hạn tạm ngừng phiên tòa (không quá 5 ngày). Hết thời hạn này, việc xét xử được tiếp tục mà không cần tiến hành lại từ đầu (Điều 251).[11] Bộ luật quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án thay vì từ ngày phân công thẩm phán chủ tọa phiên tòa như hiện nay (Điều 277); bổ sung, cụ thể hóa một số thời hạn nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải được tiến hành nhanh chóng như: thời hạn Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án là 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án; thời hạn gửi quyết định phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ, quyết định phục hồi vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp là 02 ngày kể từ ngày ra quyết định (Điều 286); thời hạn nghị án tối đa là 07 ngày, kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa (khoản 5 Điều 326);… Bộ luật còn có quy định rất tiến bộ, hiện đại là trong trường hợp cần thiết, Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông. Quy định này góp phần hạn chế trường hợp phải hoãn phiên tòa khi người làm chứng về những vấn đề quan trọng không thể có mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan và sự vắng mặt này ảnh hưởng đến việc xét xử.
4.3. Xét xử phúc thẩm
Chủ thể, thủ tục kháng cáo; kháng cáo quá hạn
BLTTHS năm 2015 quy định rõ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ (khoản 5 Điều 331)[12] ; bổ sung quy định cho phép người kháng cáo được trình bày trực tiếp với Tòa án cấp phúc thẩm (Điều 332) chứ không chỉ với Tòa án đã XXST như hiện nay; quy định về thủ tục tiếp nhận và xử lý kháng cáo (Điều 334). Bộ luật còn bổ sung những quy định cụ thể hơn về việc xử lý kháng cáo quá hạn của Tòa án cấp phúc thẩm (Điều 335)nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, phù hợp với các quy định của luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.
Chuẩn bị xét xử phúc thẩm; thủ tục phiên tòa, phiên họp phúc thẩm; thẩm quyền xét xử phúc thẩm và quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm
BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về các vấn đề:
– Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm (Điều 340);
– Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để nghiên cứu (Điều 341);
– Tòa án có thẩm quyền XXPT (Điều 344);
– Các quyết định của Thẩm phán chủ tọa trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bao gồm: quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn ra các quyết định này (Điều 348);
– Sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa phúc thẩm (Điều 349).
Bộ luật cũng sửa đổi, bổ sung thủ tục phiên tòa phúc thẩm và phiên họp xem xét quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo hướng cụ thể, đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử và thống nhất với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015; bổ sung thẩm quyền và hình thức sửa án của Hội đồng XXPT. Ví dụ: Quyền đình chỉ việc xét xử phúc thẩm; việc không áp dụng hình phạt bổ sung, không áp dụng biện pháp tư pháp, giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo được xem là những hình thức sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo; ngược lại, sửa án theo hướng không có lợi cho bị cáo còn bao gồm việc không cho hưởng án treo. Căn cứ để Hội đồng XXPT ra các quyết định cụ thể cũng được mở rộng. Ví dụ: Hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại khi xét thấy việc miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ hoặc bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp sửa bản án. Những sửa đổi, bổ sung trên nhằm khắc phục hạn chế hiện nay Tòa án cấp phúc thẩm không có đầy đủ thẩm quyền trong việc hủy, sửa bản án sơ thẩm nên phải kiến nghị Tòa án cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm kéo dài quá trình giải quyết vụ án không cần thiết.[13]
Xem thêm bài viết về “Xét xử”
- Những nội dung mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 của Việt Nam nhằm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm – TS. Trần Công Phàn
5. Thi hành bản án, quyết định của Tòa án
Như đã xác định rõ trong phần phạm vi điều chỉnh, BLTTHS năm 2015 chỉ quy định một số thủ tục thi hành án hình sự bao gồm: bản án, quyết định của Tòa án được thi hành ngay và thẩm quyền ra quyết định thi hành án; thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành; thủ tục xét tha tù trước thời hạn có điều kiện; thủ tục xóa án tích. Các nội dung khác được loại bỏ nhằm tránh sự trùng lặp với Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về trình tự, thủ tục xét tha tù trước thời hạn có điều kiện nhằm tạo cơ sở pháp lý để Tòa án có thể áp dụng biện pháp này trong thời gian tới.[14]
Xem thêm bài viết về “Vụ án hình sự”
- Phân tích căn cứ không khởi tố vụ án hình sự – LS. Nguyễn Lan Anh
- Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự – ThS. Dương Thị Diệu Hiền
- Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh
- Quy định về Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về Người chứng kiến trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
6. Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật
6.1. Thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm
Về thủ tục giám đốc thẩm, BLTTHS năm 2015 có một số sửa đổi quan trọng liên quan đến các vấn đề như căn cứ kháng nghị, thẩm quyền giám đốc thẩm và quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm. Các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm được quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn và phù hợp với thực tiễn. Bộ luật quy định việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử phải dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án mới được xem là căn cứ để kháng nghị vì nếu vi phạm thủ tục tố tụng nhưng nội dung bản án vẫn đúng thì việc kháng nghị giám đốc thẩm là không cần thiết.[15] Bộ luật cũng xác định rõ khi phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng quy định của bất kỳ pháp luật nào chứ không chỉ là BLHS (như quy định hiện nay) thì có quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Để phù hợp với nội dung của Luật Tổ chức TAND năm 2014, BLTTHS năm 2013 đã có những sửa đổi về thẩm quyền giám đốc thẩm và thành phần Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 382). Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm cũng được mở rộng hơn so với Bộ luật hiện hành. Theo đó, Hội đồng giám đốc thẩm có thêm quyền: hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật cho đồng bộ với thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm dân sự, hành chính; sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để phù hợp với thực tiễn giám đốc thẩm thời gian qua, có những trường hợp chứng cứ đã rõ ràng, có thể khắc phục ngay mà không nhất thiết hủy án để điều tra lại, làm kéo dài thời hạn tố tụng.[16]
Thủ tục tái thẩm cũng có một số sửa đổi. Bộ luật quy định trách nhiệm của Tòa án phải thông báo và gửi các tài liệu liên quan cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ngay khi nhận được thông báo hoặc tự mình phát hiện tình tiết mới của vụ án. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm cũng được sửa đổi cho phù hợp với quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014. Hội đồng tái thẩm được bổ sung quyền đình chỉ việc xét xử tái thẩm nhưng lại không có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như Hội đồng giám đốc thẩm. Điều này hoàn toàn hợp lý vì tình tiết mới là căn cứ kháng nghị tái thẩm làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định nên phải hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại.
6.2. Thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Đây là phần mới được bổ sung vào BLTTHS năm 2015, bao gồm một số nội dung quan trọng như: cơ quan có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC; các vấn đề liên quan đến phiên họp của Hội đồng thẩm phán TANDTC; quyền hạn của Hội đồng thẩm phán TANDTC khi xem xét lại quyết định của chính mình. Việc bổ sung này nhằm đảm bảo tính đồng bộ với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015; đồng thời xuất phát từ thực tế qua hoạt động giám sát của Quốc hội đã phát hiện có trường hợp quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC vẫn có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, cần phải được xem xét lại.[17]
BLTTHS năm 2003 có vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn hơn 10 năm thi hành cũng cho thấy Bộ luật này còn nhiều hạn chế, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động của các CQTHTT, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. So với BLTTHS năm 2003, những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các VAHS trong BLTTHS năm 2015 đầy đủ, cụ thể và chặt chẽ hơn cả về bố cục lẫn nội dung. Đây là kết quả của quá trình thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, pháp điển hóa một số quy định hợp lý trong các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003 đã được kiểm chứng qua thực tiễn và quá trình nội luật hóa những điều ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực TTHS mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”
- Quy định về biện pháp ngăn chặn áp giải, dẫn giải trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – LS. Nguyễn Lan Anh
- Một số vấn đề pháp lý về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Trần Ngọc Lan Trang & ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Một số điểm mới về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Trịnh Duy Thuyên
- Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng và công khai theo Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. Nguyễn Trần Như Khuê
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, Giảng viên Khoa Luật Hình sự Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
[1] Thời hạn này theo quy định của BLTTHS năm 2003 tối đa không quá 2 tháng.
[2] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), 17/04/2015, tr. 15.
[3] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 2, tr. 16.
[4] Khoản 4 Điều 110 BLTTHS năm 2003 quy định CQĐT cấp trung ương điều tra những VAHS về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp tỉnh, CQĐT quân sự cấp quân khu mà xét thấy cần trực tiếp điều tra.
[5] Những cơ quan này có quyền điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLHS năm 2015 xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
[6] Khoản 2 Điều 226 BLTTHS năm 2015 quy định thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án.
[7] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 2, tr. 16.
[8] Vấn đề này trước đây được giải thích tại Phần II Thông tư liên tịch số 02-BNV-TANDTC-BTP/TTLT ngày 12/01/1989 cùa Bộ Nội vụ, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS năm 1988.
[9] Trường hợp này trước đây được quy định tại Điều 5 Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 2002.
[10] Khoản 2 Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
[11] Trường hợp không thể tiếp tục thì mới phải hoãn phiên tòa.
[12] Điều 231 BLTTHS năm 2003 chỉ quy định người bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược diểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ mà không quy định rõ người được bảo vệ trong trường hợp này tham gia tố tụng với tư cách gì.
[13] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 2, tr. 26.
[14] Tha tù trước thời hạn có điều kiện là một biện pháp mới được ghi nhận trong BLHS năm 2015 (Điều 66).
[15] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 2, tr. 27.
[16] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 2, tr. 28.
[17] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 2, tr. 28.
[18] Like fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Tác giả: Lê Huỳnh Tấn Duy* – Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2016 – 2016, Trang 43-51
Trả lời