Trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (SOEs) trong tranh chấp đầu tư quốc tế (ISDS) là vấn đề còn nhiều tranh luận. Quy định trong các hiệp định đầu tư (IIAs) hay phán quyết của Hội đồng trọng tài khi xem xét một số tranh chấp đầu tư quốc tế cho thấy vấn đề này chưa có diễn giải thống nhất và cụ thể. Để phân định trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động của SOEs trong tranh chấp đầu tư quốc tế, cần phân biệt hoạt động thương mại với các hoạt động nhân danh quyền lực công hoặc có chức năng quản lý nhà nước của các SOEs. Vụ ông Emilio Agustin Mafezini kiện Chính phủ vương quốc Tây Ban Nha theo Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Ắc-hen-ti-na và Tây Ban Nha (BIT) là một ví dụ điển hình về trách nhiệm của Chính phủ đối với hành động của SOEs trong ISDS. Bài viết bình luận án lệ này có thể cung cấp thông tin tham khảo phục vụ đàm phán cải tổ ISDS, cũng như đề xuất giải pháp quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam nhằm hạn chế rủi ro khiếu kiện đầu tư quốc tế.
Đầu tư
Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước theo các Hiệp định đầu tư quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng rộng mở, Việt Nam đang nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, với tư cách là nước tiếp nhận đầu tư, Việt Nam cũng đang phải đối mặt những tranh chấp phát sinh từ phía nhà đầu tư trên cơ sở các hiệp định đầu tư quốc tế (IIAs)2. Theo pháp luật và tập quán đầu tư quốc tế, các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và Nhà nước (ISDS)3cho phép các bên áp dụng linh hoạt những quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục khác nhau để giải quyết tranh chấp theo các IIAs. Các hiệp định thương mại tự do (FTA)4 thế hệ mới đang dần hoàn thiện hơn các cơ chế này.
Quyền khởi kiện nhà nước của nhà đầu tư trong cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế ở Việt Nam
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư là một trong những mục tiêu, yêu cầu quan trọng trong chính sách, pháp luật của Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới. Thực thi quyền khởi kiện Nhà nước (tại quốc gia tiếp nhận đầu tư) của nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, góp phần bảo đảm việc giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh một cách công khai, công bằng phù hợp với thông lệ quốc tế là một trong cam kết quan trọng đối với nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Bài viết này phân tích một số nội dung về vấn đề này trên cơ sở tiếp cận, bình luận quy định về giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế theo pháp Luật Đầu tư của Việt Nam, điển hình là Luật Đầu tư năm 2020, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 và liên hệ với một số điều ước quốc tế về đầu tư thế hệ mới (FTAs, IIAs) mà Việt Nam là thành viên như CPTPP, EVFTA…
Một số điểm mới về Hợp đồng đối tác công tư trong Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020
Quan hệ đối tác công tư (Public – Private Parnership) đang là hình thức được khuyến khích phát triển nhằm thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế, đặc biệt đối với lĩnh vực cung cấp dịch vụ công. Bài viết chỉ ra những nội dung mới về hợp đồng đối tác công tư (Public – Private Parnership contracts/Hợp đồng PPP) được quy định trong Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) năm 2020 về chủ thể, nội dung, thực hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp về hợp đồng PPP. Các quy định về hợp đồng PPP trong Luật PPP cung cấp công cụ pháp lý tạo điều kiện cho hoạt động của dự án PPP hiệu quả, an toàn và ngày càng phát triển, góp phần phát triển dịch vụ công, cơ sở hạ tầng của quốc gia.
Một số vấn đề pháp lý về điều kiện kinh doanh bất động sản đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam theo Luật Đầu tư năm 2020
Một số vấn đề pháp lý về điều kiện kinh doanh bất động sản đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam theo Luật Đầu tư năm 2020 Tác giả: Đỗ Thị Thu Hằng [1] & Trần Văn Duy [2] TÓM TẮT Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội […]
Pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong mối quan hệ với việc thực hiện các cam kết quốc tế trong khuôn khổ ASEAN
Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã cùng các quốc gia ASEAN khác tích cực hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quốc tế chung của ASEAN, trong đó có các điều ước quốc tế về đầu tư trong khuôn khổ nội khối và với các nước ngoài khối. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có những bước tiến lớn trong cải cách pháp luật về đầu tư nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Năm 2020, Việt Nam tiếp tục đánh dấu tiến trình cải cách pháp luật về đầu tư thông qua việc ban hành Luật Đầu tư năm 2020 với các nội dung hướng tới thu hút đầu tư, phát triển bền vững và thực hiện có trách nhiệm các cam kết quốc tế.
Quy định về ngoại lệ an ninh quốc gia trong tiếp nhận và quản lý nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kinh nghiệm của một số quốc gia và khuyến nghị cho Việt Nam
Những năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới bắt đầu ban hành chính sách kiểm soát nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) do những quan ngại liên quan đến an ninh quốc gia. Bài viết xem xét tổng quan tình hình ban hành chính sách này của một số quốc gia trên thế giới, với ví dụ cụ thể các trường hợp của Úc, Trung Quốc và Việt Nam, từ đó đưa ra một số so sánh bình luận, cũng như khuyến nghị cho việc thực thi Luật Đầu tư mới ban hành năm 2020 của Việt Nam liên quan đến quản lý nguồn vốn FDI và bảo vệ an ninh quốc gia.
Những điểm mới về ngành, nghề đầu tư kinh doanh và ưu đãi đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2020
Hoàn thiện các quy định về hình thức, điều kiện, thủ tục ưu đãi đầu tư nhằm thu hút đầu tư có chọn lọc, chất lượng; sửa đổi, bổ sung các quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh theo hướng cắt giảm một số ngành, nghề không cần thiết, bất hợp lý để đảm bảo tốt hơn quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư trong những ngành nghề mà luật không cấm hoặc quy định phải có điều kiện là những mục tiêu mà Luật Đầu tư năm 2020 hướng đến. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả nhận diện, giới thiệu và luận giải một số điểm mới quan trọng về ngành, nghề đầu tư kinh doanh và ưu đãi đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2020.
Một số vấn đề pháp lý về thỏa thuận góp vốn có yếu tố nước ngoài
Thỏa thuận góp vốn có yếu tố nước ngoài (sau đây gọi chung là “Thỏa thuận góp vốn”), trong giới hạn của bài viết này, được hiểu là thỏa thuận giữa các tổ chức/cá nhân về việc đưa tài sản của mình thành vốn điều lệ của công ty, trong đó có ít nhất một bên góp vốn là nhà đầu tư nước ngoài. Đặt trong giới hạn này, thỏa thuận góp vốn còn có một số tên gọi khác như Hợp đồng liên doanh, Thỏa thuận cổ đông, Hợp đồng tiền thành lập công ty,… Thỏa thuận góp vốn được đề cập tại bài viết này không bao gồm thỏa thuận góp vốn giữa các bên Việt Nam và hợp đồng góp vốn đầu tư theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Bài viết dưới đây chia sẻ một số vấn đề pháp lý có liên quan đến thỏa thuận góp vốn.
Những điểm mới của Luật Đầu tư năm 2020 về ưu đãi đầu tư
Luật Đầu tư năm 2020 ban hành đã tiếp tục ghi nhận những điểm tiến bộ của Luật Đầu tư năm 2014 và hoàn thiện một số nội dung mới về ưu đãi đầu tư. Những điểm mới về ưu đãi đầu tư trong Luật Đầu tư năm 2020 tập trung vào nguyên tắc ưu đãi đầu tư, hình thức ưu đãi đầu tư, đối tượng hưởng ưu đãi đầu tư, ngành, nghề ưu đãi đầu tư và chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt. Những điểm mới của Luật Đầu tư năm 2020 về ưu đãi đầu tư phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế bền vững, đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật chuyên ngành có liên quan đến ưu đãi đầu tư, giảm thiểu các ảnh hưởng của thể chế đối với môi trường đầu tư.