• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

17/05/2020 23/05/2021 ThS. Dương Thị Diệu Hiền Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • Đặt vấn đề
  • 1. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản ánsơthẩm chưa có hiệu lực pháp luật
    • 1.1. Thời hạn kháng cáo
    • 1.2. Thời hạn kháng nghị
  • 2. Trình tự thủ tục tại phiên tòa xét xử phúc thẩm
  • 3. Một số kiến nghị
  • CHÚ THÍCH

Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự (VAHS)

Xem thêm bài viết về “Xét xử phúc thẩm”

  • Về đơn kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng dân sự – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Phan Nguyễn Bảo Ngọc

TÓM TẮT

Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự Việt Nam. Trong đó, kháng cáo hoặc kháng nghị chính là cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục phúc thẩm và việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị này được thực hiện tại phiên tòa phúc thẩm. Bài viết chỉ đề cập hai vấn đề trong giai đoạn phúc thẩm, đó là thời hạn kháng cáo, kháng nghị và thủ tục tại phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án hình sự.

Đặt vấn đề

Xét xử là một trong những hoạt động nhận thức khách quan của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật nhằm tìm ra sự thật của vụ án. Với các nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, Tòa án không phải trong mọi trường hợp đều đưa ra các quyết định đúng người, đúng tội. Do đó, pháp luật tố tụng hình sự đã quy định nguyên tắc hai cấp xét xử. Điều này cho thấy xét xử phúc thẩm có vị trí rất quan trọng, bởi thông qua xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ xét xử lại vụ án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, mà Tòa án cấp phúc thẩm còn có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác, đó là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm để có quyết định tương ứng, hướng dẫn tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật. Điều này cho phép tòa án cấp trên sửa chữa, khắc phục những sai lầm hay những vi phạm của tòa án cấp dưới đối với vụ án cụ thể, khắc phục những vi phạm pháp luật trong giai đoạn sơ thẩm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với công dân nước láng giềng ở khu vực biên giới
  • Hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp khắc phục hậu quả “buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu”
  • So sánh một số quy định về hòa giải trong lĩnh vực tư pháp hình sự của Cộng hòa liên bang Đức và Việt Nam
  • Người tham gia tố tụng theo pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam
  • Một số vấn đề Kiểm sát viên lưu ý khi tham gia xét hỏi bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự về Tội Giết người
  • Đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội khi luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Thực tiễn và kiến nghị
  • Bàn về một số vướng mắc trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về quyền kháng cáo
  • Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi
  • Pháp điển hóa tư pháp quốc tế Bỉ và một số gợi ý đối với Việt Nam
  • Một số vấn đề về quyền tiếp cận thông tin môi trường

Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) quy định “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo quy định này thì sau khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án hoặc quyết định mà không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định (hoặc ngoài thời hạn luật định nhưng có lý do chính đáng đối với kháng cáo quá hạn) thì bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành. Nếu có kháng cáo, kháng nghị thì tòa án cấp trên trực tiếp mới xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Tuy nhiên, không phải bất cứ trường hợp nào có kháng cáo, kháng nghị đều phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm, mà chỉ những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp mới là căn cứ phát sinh giai đoạn xét xử phúc thẩm. Trong đó đảm bảo về yêu cầu thời hạn kháng cáo, kháng nghị là một trong những điều kiện làm phát sinh hiệu lực kháng cáo, kháng nghị. Ngoài ra, thủ tục xét xử tại phiên tòa phúc thẩm chính là cốt lõi của giai đoạn xét xử phúc thẩm, nhưng pháp luật tố tụng hình sự hiện nay quy định về 2 vấn đề này vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Trong phạm vi bài viết tác giả muốn phân tích, đưa ra một số nhận định và nêu ý kiến về hướng khắc phục.

1. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản ánsơthẩm chưa có hiệu lực pháp luật

Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm được quy định tại Điều 234 BLTTHS như sau:

“1- Thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án.

2- Nếu đơn kháng cáo gửi qua đường bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại giam nhận được đơn”

Quy định trên của BLTTHS không quy định ngày được xác định để bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Tại Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP, ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về việc hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS (NQ 05) giải thích ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc được niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa[1] . Như vậy, thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định, nhưng cách tính này vẫn chưa đề cập đến trường hợp ngày tuyên án là ngày thứ sáu thì ngày thứ bảy, chủ nhật tiếp theo có được tính là thời hạn kháng cáo, kháng nghị không.

Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc là thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo của ngày nghỉ đó.

Tóm lại, thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định và kết thúc vào ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó. Tuy nhiên trong trường hợp ngay trong ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định mà bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa có đơn kháng cáo ngay, thì Tòa án cấp sơ thẩm vẫn nhận đơn kháng cáo theo thủ tục chung.

1.1. Thời hạn kháng cáo

Thời hạn kháng cáo bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Ngày kháng cáo được xác định là ngày Tòa án nhận được đơn kháng cáo. Tùy theo cách thức thực hiện quyền kháng cáo mà thời điểm kháng cáo được xác định khác nhau theo quy định tại khoản 2 Điều 234 BLTTHS và tại hướng dẫn của tiểu mục 4.2 NQ 05 như sau:

– Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo là ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì

– Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận đơn.

– Trong trường hợp người kháng cáo đến nộp đơn kháng cáo tại Tòa án hoặc trong trường hợp họ đến Tòa án cấp sơ thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo, thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn hoặc ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo Việc kháng cáo phải được thực hiện trong thời hạn luật định, tuy nhiên BLTTHS 2003 chấp nhận việc kháng cáo quá hạn nếu có lý do chính đáng[2] .

Pháp luật TTHS hiện hành chấp nhận việc kháng cáo quá hạn nếu có lý do chính đáng nhưng lại không quy định cụ thể thời điểm chủ thể của quyền kháng cáo phải thực hiện việc kháng cáo sau khi chấm dứt trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác. Việc xét kháng cáo quá hạn được thực hiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm. Trong trường hợp ngay trước khi mở phiên tòa mà Tòa án cấp phúc thẩm mới nhận được kháng cáo, thì trước khi khai mạc phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm phải mở phiên họp xét lý do kháng cáo quá hạn[3] . Như vậy việc chấp nhận kháng cáo quá hạn phụ thuộc hoàn toàn vào nhận xét chủ quan của Hội đồng xét xử.

1.2. Thời hạn kháng nghị

Thời hạn kháng nghị bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xét thấy cần kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì trong thời hạn luật định phải có văn bản kháng nghị và nêu rõ lý do kháng nghị gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án. Từ thực tiễn áp dụng quyền kháng nghị của Viện kiểm sát đã bộc lộ những bất cập trong việc quy định về thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát:

Thứ nhất, BLTTHS hiện hành có quy định về thẩm quyền và thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp nhưng không quy định Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp này. Điều 229 BLTTHS quy định:“Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho người bị xử vắng mặt, cơ quan công an cùng cấp, thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc”. Dựa vào quy định trên, chúng ta thấy rằng chủ thể được quyền kháng nghị là Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp nhưng không được Tòa án cấp sơ thẩm giao bản án, quyết định. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp chỉ nhận được bản án, quyết định sơ thẩm do Viện kiểm sát cấp dưới chuyển lên. Điều này đã gây ra không ít khó khăn trong việc thực hiện quyền kháng nghị, trong khi thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp được tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc ra quyết định sơ thẩm. Ngoài ra, thời gian Tòa án cấp sơ thẩm giao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp… là 10 ngày kể từ ngày tuyên án, quy định thời gian 10 ngày là quá dài, vậy nên trong thực tế đã có nhiều bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm khi được gửi đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp thì đã hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Theo Báo cáo của VKSND Tp. Hồ Chí Minh về tình hình thực hiện chỉ thị 03 của Viện trưởng VKSNDTC về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự[4] có đề cập vấn đề chậm chuyển bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp nên đã ảnh hưởng đến công tác kiểm sát án và kháng nghị kịp thời nhằm khắc phục vi phạm. Phần lớn những kháng nghị của Viện kiểm sát cấp huyện kháng nghị thông qua kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa; kiểm sát viên phải dựa vào bút ký phiên tòa, biên bản phiên tòa để kháng nghị. Do vậy đôi khi kháng nghị đã được gửi nhưng vẫn chưa nhận được bản án cũng là điều kiện để Tòa án điều chỉnh hoặc đính chính bản án, do đó ảnh hưởng đến nội dung và kháng nghị có thể sẽ không được chấp nhận[5] .

Thứ hai, Điều 234 BLTTHS quy định ngày kháng cáo được tính theo những thời điểm khác nhau, tùy theo phương thức thực hiện quyền kháng cáo nhưng chưa quy định ngày kháng nghị phúc thẩm. Vì vậy trong trường hợp kháng nghị được gửi qua đường bưu điện thì ngày kháng nghị có được chấp nhận là ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì không.

Xem thêm bài viết về “Vụ án hình sự”

  • Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh
  • Quy định về Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
  • Quy định về Người chứng kiến trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
  • Quy định về Bị đơn dân sự trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
  • Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội phạm tham nhũng – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy

2. Trình tự thủ tục tại phiên tòa xét xử phúc thẩm

Hiện nay quy định về trình tự xét xử phúc thẩm vụ án hình sự gần như lập lại hoàn toàn so với trình tự xét xử sơ thẩm được quy định ở Điều 247 BLTTHS. Nhưng xét về bản chất thì xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm là hai giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, hai giai đoạn này có nhiệm vụ hoàn toàn khác nhau. Nếu như nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm là Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào kết luận điều tra, các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, cáo trạng của Viện kiểm sát để kết luận bị cáo phạm tội hay không phạm tội, quyết định tội danh và hình phạt, cũng như mức bồi thường thiệt hại nếu có, thì nhiệm vụ của Tòa án cấp phúc thẩm là xem xét tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm.

Căn cứ để Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm là Cáo trạng của Viện kiểm sát. Còn căn cứ để mở phiên tòa phúc thẩm là kháng cáo và kháng nghị hợp pháp của những người có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát.

Về hình thức, xét xử sơ thẩm khác xét xử phúc thẩm ở giới hạn xét xử, thành phần hội đồng xét xử, người được triệu tập đến phiên tòa.

Nội dung xét xử của phiên tòa phúc thẩm chỉ giải quyết những phần của bản án sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị, nếu cần thiết cũng có thể xem xét đến những phần không bị kháng cáo, kháng nghị, điều này cho thấy những vấn đề cần làm sáng tỏ ở phiên tòa phúc thẩm không nhất thiết là giống ở phiên tòa sơ thẩm xét xử theo cáo trạng của Viện kiểm sát.

Về giới hạn xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ được xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử theo quy định tại Điều 196 BLTTHS trong Phần thứ ba về “xét xử sơ thẩm”. Trong khi đó, phạm vi xét xử của cấp phúc thẩm là căn cứ vào nội dung, quyết định của bản án sơ thẩm, căn cứ vào những nội dung bị kháng cáo, kháng nghị (hoặc có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án nếu thầy cần thiết)[6] căn cứ vào những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và những chứng cứ mới được bổ sung để đưa ra những kết luận về tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án sơ thẩm từ đó có quyết định cho phù hợp.

Thực tiễn xét xử cho thấy thủ tục phiên tòa phúc thẩm không hoàn toàn giống với thủ tục phiên tòa sơ thẩm. Chúng giống nhau ở trình tự lần lượt tiến hành các thủ tục: bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Nhưng nội dung ở mỗi giai đoạn thì hoàn toàn khác nhau.

Nếu như ở phiên tòa sơ thẩm, khi bắt đầu phiên tòa chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì ở phiên tòa phúc thẩm chủ tọa phiên tòa đọc lời khai mạc phiên tòa với nội dung được quy định tại mục 4.2 Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP. Đây là điểm khác biệt đầu tiên cần phải có sự điều chỉnh trong điều luật.

Điều 201 BLTTHS quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa sơ thẩm “…sau khi nghe thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa.

Trong trường hợp bị cáo chưa được giao nhận bản cáo trạng theo quy định tại khoản 2 Điều 49 và quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 182 của Bộ luật này và nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa”.

Điều luật này được hiểu là: trường hợp bị cáo chưa được giao nhận bản cáo trạng hoặc chưa nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng hạn nhưng họ vẫn đồng ý tiến hành phiên tòa thì không cần hoãn phiên tòa, nhưng Hội đồng xét xử cần tạo điều kiện cho họ nghiên cứu kỹ các văn bản đó; còn nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải quyết định hoãn phiên tòa[7] . Như vậy quyền của bị cáo ở phiên tòa sơ thẩm được đề nghị hoãn phiên tòa trong trường hợp nêu trên nhằm đảm bảo cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có đủ thời gian theo luật định để củng cố thêm chứng cứ chứng minh bị cáo vô tội (nếu bị cáo thật sự không phạm tội), hoặc những chứng cứ là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Trong khi đó cơ sở phát sinh thủ tục phúc thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Như vậy, trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm, chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi các đối tượng được triệu tập đến phiên tòa là đã nhận được thông báo về kháng cáo, kháng nghị đúng thời hạn luật định hay chưa? Việc thông báo này là rất cần thiết để những chủ thể có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị có thể chuẩn bị tốt cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại phiên tòa[8] . Nếu như họ chưa được giao hoặc đã được giao nhưng không đúng thời hạn luật định thì nên cho họ quyền được đề nghị hoãn phiên tòa nếu có yêu cầu như đối với bị cáo ở phiên tòa sơ thẩm.

Phạm vi xét xử phúc thẩm phụ thuộc vào nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Nếu tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, chủ thể của kháng cáo, kháng nghị bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị được quy định ở Điều 238 BLTTHS, thì nội dung xét xử của phiên tòa phúc thẩm cũng phải thay đổi theo dẫn đến người được triệu tập tham gia vào phiên tòa xét xử phúc thẩm cũng khác nhau. Do đó, Hội đồng xét xử phải đình chỉ phiên tòa để triệu tập bổ sung những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Nếu chủ thể kháng cáo, kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án. Bản án sơ thẩm có hiệu lực kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Đây là điểm rất khác so với phiên tòa sơ thẩm.

Ở phiên tòa xét xử phúc thẩm, trước khi bắt đầu phần xét hỏi thay cho việc đọc cáo trạng, một thành viên của Hội đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm. Mặt dù đã được luật quy định, nhưng đậy là một điểm khác biệt cơ bản giữa hai phiên tòa xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, vì vậy không nên lồng ghép trong một Điều luật.

Chính vì một số lý do trên mà quy định về trình tự phiên tòa sơ thẩm có thể áp dụng cho phiên tòa phúc thẩm theo như quy định tại Điều 247 BLTTHS là không hợp lý, vì chức năng và nhiệm vụ của hai giai đoạn xét xử này là hoàn toàn khác nhau.

3. Một số kiến nghị

Những nhận xét và thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2003 cho thấy công tác xét xử vẫn còn nhiều hạn chế tồn tại. Cần tiếp tục hoàn thiện sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS năm 2003 như sau:

Thứ nhất, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là một chủ thể độc lập được thực hiện quyền kháng nghị các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực và thời gian giao bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là quá dài. Vì vậy, cần bổ sung và sửa Điều 229 BLTTHS về quyền được nhận bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực từ Tòa án cấp sơ thẩm, cụ thể: “Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải bàn giao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, người bào chữa…”.

Thứ hai, về thời hạn kháng nghị của Viện kiểm cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, BLTTHS có quy định nhưng chưa xác định được ngày kháng nghị của Viện kiểm sát, cần bổ sung vào Điều 234 BLTTHS khoản 3 như sau: “Nếu văn bản kháng nghị của Viện kiểm sát gửi trực tiếp cho Tòa án cấp sơ thẩm thì ngày kháng nghị sẽ là ngày Tòa án nhận được văn bản kháng nghị. Nếu văn bản kháng nghị của viện kiểm sát gửi qua đường bưu điện thì ngày kháng nghị là ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì”.

Thứ ba, bổ sung vào khoản 1 Điều 235 BLTTHS về kháng cáo quá hạn “Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng và phải được thực hiện trong thời hạn 3 ngày kể từ khi chấm dứt trường hợp bất khả kháng”

Thứ tư, từ việc phân tích những điểm khác biệt giữa phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm như trên, tác giả đưa ra đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Điều 247 BLTTHS thành điều luật quy định cụ thể trình tự, thủ tục của phiên tòa phúc thẩm.

CHÚ THÍCH

* ThS Luật học, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh

[1] Điểm a, tiểu mục 4.1, mục 4 Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP, ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[2] Điều 235 BLTTHS và Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về việc hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “xét xử phúc phẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự, hướng dẫn về kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng là những trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định, ví dụ: do thiên tai, lũ lụt, do ốm đau, tai nạn phải nằm viện điều trị …

[3] Mục 5, phần I Nghị Quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về việc hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “xét xử phúc phẩm” của BLTTHS.

[4] Chỉ thị 03/2008/CT-VKSTC ngày 19/6/2008 của Viện trưởng VKSNDTC về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự.

[5] Công văn số 25/CV-VKS-P3, ngày 16/6/2012 của Viện kiểm sát nhân dân TP. HCM về việc báo cáo tình hình thực hiện chỉ thị 03 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

[6] Điều 241 BLTTHS

[7] Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, tr. 577.

[8] Phan Thị Thanh Mai (2012), “Hoàn thiện quy định pháp luât về thủ tục phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự”, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Khoa, Đại học Luật Hà Nội, tr. 32.

Tác giả: Dương Thị Diệu Hiền* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2014 (82)/2014 – 2014, Trang 33-37

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ góc nhìn của Kiểm sát viên
Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ góc nhìn của Kiểm sát viên
Đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội khi luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Thực tiễn và kiến nghị
Đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội khi luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự – Thực tiễn và kiến nghị
Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo vệ người làm chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo vệ người làm chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử lưu động vụ án hình sựXét xử lưu động vụ án hình sự
Xét xử lưu động vụ án hình sự

Chuyên mục: Hình sự/ Tố tụng hình sự Từ khóa: Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2014/ Vụ án hình sự/ Xét xử phúc thẩm

Previous Post: « Hoàn thiện quy định về hiệu lực theo không gian của Bộ luật Hình sự 1999
Next Post: Một số vấn đề pháp lý về áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của Luật Thương mại 2005 »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng