Một số vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện
Tác giả: Nguyễn Cảnh Tuyến [1]
TÓM TẮT
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Theo đó, đây là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng, đáp ứng các điều kiện khác theo quy định nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập tới một số vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.
1. Một số quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án2.
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, thực hiện đúng với quy định của các Công ước3 mà Việt Nam đã ký kết. Việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tạo ra khả năng và góp phần loại bỏ những trở ngại, khó khăn cản trở hoạt động tố tụng, bảo đảm cho quá trình tố tụng được tiến hành thuận lợi, thực hiện tốt nhiệm vụ điều tra tội phạm một nhanh chóng, chính xác và xét xử công minh kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, không xử oan người vô tội đồng thời vẫn đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, hạn chế giam giữ, hạn chế “gánh nặng” trên nhiều mặt cho các cơ quan giam giữ. Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định rõ về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú với các nội dung như điều kiện, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn và trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ cam đoan. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi tập trung làm rõ một số nội dung liên quan tới việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Cụ thể là:
Thứ nhất, về thủ tục cam đoan.
Pháp luật quy định, người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
+ Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép;
+ Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
+ Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
+ Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
+ Không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án;
+ Không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Giấy cam đoan không cần phải có sự xác nhận, chứng thực của chính quyền địa phương nơi bị can, bị cáo cư trú, mà chỉ cần bị can, bị cáo ghi cam đoan và ký tên xác nhận4.
Thứ hai, về thủ tục áp dụng.
Theo Khoản 5 Điều 123 BLTTHS năm 2015, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được thực hiện theo thủ tục như sau: Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú và phải giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi họ.
Thứ ba, về thủ tục xin phép rời khỏi nơi cư trú.
Trong thời gian áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nếu bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời rời khỏi nơi cư trú thì phải được sự cho đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó đang cư trú phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Như vậy, để được rời khỏi nơi cư trú trong thời gian bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị can, bị cáo phải có đủ cả hai điều kiện:
+ Có sự đồng ý của chính quyền địa phương và
+ Có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Thứ tư, về thẩm quyền áp dụng.
Theo Khoản 4 Điều 123 những người sau đây có thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cưu trú:
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
+ Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
+ Thẩm phán chủ tọa phiên tòa,
+ Đồn trưởng Đồn biên phòng
Ngoài ra, BLTHS còn quy định về trách nhiệm của cơ quan tổ chức nhận trách nhiệm quản lý, giam sát. Theo đó, trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền.
Có thể thấy rằng thủ tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú của BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế của BLTTHS năm 2003, bảo đảm đầy đủ hơn các quyền của con người, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho bị can, bị cáo sinh hoạt, làm việc, kinh doanh, nhưng đồng thời bảo đảm sự nghiêm minh, chặt chẽ, tránh gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
2. Một số vướng mắc, hạn chế khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
BLTTHS năm 2015 quy định biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại Điều 123. Để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, liên ngành Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Bộ quốc phòng đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA- BQP ngày 19/10/2018 quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS về khởi tố, điều tra và truy tố như: Khởi tố vụ án; thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự; Áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can; Áp dụng biện pháp bảo lĩnh; Áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm… Tuy nhiên, Thông tư số 04/2018 lại không hướng dẫn nhiều nội dung liên quan đến việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, vì thế thực tiễn áp dụng còn nhiều vướng mắc. Cụ thể là:
Thứ nhất, xác định nơi cư trú và phạm vi bị cấm rời khỏi.
Nơi cư trú hiện nay được hiểu theo các văn bản về hộ tịch, quản lý hộ khẩu theo Luật cư trú năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2013. Riêng BLTTHS không quy định khái niệm nơi cư trú trong biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cũng như trong những vấn đề liên quan.
Điều 12 của Luật cư trú năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2013 quy định về nơi cư trú như sau:
“Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sự dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.
Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.
Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại Khoản 1 điều này thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống”
Trường hợp bị can, bị cáo chưa thành niên thì nơi cư trú của họ được xác định theo Điều 13 Luật cư trú năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2013 như sau:
“Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống.
Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định”.
Thực tiễn, khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, phạm vi “nơi cư trú” mà bị can bị cấm rời khỏi chưa thống nhất. Có quan điểm cho rằng đó là phạm vi địa giới hành chính xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo sinh sống hoặc làm việc5. Quan điểm khác thì đó là phạm vi địa giới hành chính huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nơi bị can, bị cáo đang sinh sống hay đang làm việc6 hoặc nơi cư trú bị can, bị cáo cấm đi khỏi là nơi bị can, bị cáo ở, làm viêc mà không phụ thuộc vào nơi thường trú… Do cách hiểu khác nhau nên áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có các quan điểm giải quyết khác nhau trong một số trường hợp cụ thể.
Trường hợp 1: Bị can có hộ khẩu thường trú tại một nơi, nhưng phải làm việc tại nơi khác, thì phạm vi cấm rời khỏi nên được xác định thế nào để không làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của bị can; bị can có thể đi làm, sinh hoạt bình thường?
Ví dụ: Bị can X có hộ khẩu thường trú là phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng làm việc tại Công ty A huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu cấm bị can đi khỏi nơi cư trú (cấm đi khỏi phạm vi phường 4) thì X không thể đi làm tại Công ty A. Nếu muốn đi làm thì ngày nào cũng phải xin phép và báo cáo với Uỷ ban nhân dân phường 4 hoặc xin phép Viện kiểm sát nơi đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can. Như vậy, sẽ gây bất tiện cho việc sinh hoạt của X.
Hoặc như trường hợp của bị can Hoàng Công Lương do chưa có cách hiểu thống nhất nên dẫn đến có 02 lệnh cấm trong cùng một ngày, chỉ khác phạm vi bị cấm rời khỏi nơi cư trú. Theo đó, một lệnh cấm bị can Hoàng Công Lương không được phép đi khỏi nơi cư trú tại xóm 9, xã Sử Ngòi, thành phố Hòa Bình (tỉnh Hòa Bình), từ ngày 04/07 đến ngày 02/08/2018. Còn lệnh kia cấm bị can Hoàng Công Lương không được phép đi khỏi nơi cư trú tại thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình kể từ ngày 04/07 đến ngày 02/08/20187.
Trường hợp 2: Đối với những nơi cùng trên một con đường nhưng là hai quận khác nhau. Như tại Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều con đường đi qua một hoặc nhiều quận: đường Lê Văn Sỹ đi qua hai quận là quận Phú Nhuận và quận Tân Bình, đường Trần Hưng Đạo đi qua quận 1 và quận 5. Nếu chỉ giới hạn trong phạm vi một quận, thì khi bị can, bị cáo có việc (đi mua đồ, đi buôn bán, làm việc…) cùng trên một con đường nhưng khác quận, thì như thế nào và cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý bị can, bị cáo đó?
Ví dụ: Nếu địa chỉ cư trú của X là ở số 123, đường Z phường 14 quận P, thành phố H bị cấm đi khỏi nơi cư trú tại tại quận P nhưng X đi công việc tại số 456 cũng trên đường đường Z nhưng thuộc địa bàn phường 1 quận T, thành phố H. Như vậy, X có vi phạm cam kết về không đi khỏi nơi cư trú khi chưa báo cáo và xin phép chính quyền địa phương, có ảnh hưởng nhiều tới công việc của X hay không?
Trường hợp 3: Nơi cư trú của bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Ví dụ: Bị can M (16 tuổi) có nơi cư trú cùng với cha mẹ tại phường 1, quận T, Tp.H. Trước đó 04 ngày, M về nhà nội thuộc phường 5, quận B sống và phạm tội trộm cắp tài sản. Trong quá trình điều tra, nhận thấy cha mẹ của bị can M có hộ khẩu thường trú tại phường 1, quận T, nên nơi cư trú của M được xác định theo nơi cư trú của cha mẹ nhưng khi có lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, M vẫn tiếp tục ở nhà nội thì chính quyền địa phương Phường 1 không thể quản lý, theo dõi M.
Thứ hai, quy định người có thẩm quyền quản lý, theo dõi người bị cấm đi khỏi nơi cư trú.
Khoản 5 Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định: Chính quyền phường, xã, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú có nhiệm vụ quản lý, theo dõi họ, có quyền đồng ý cho họ tạm thời rời khỏi nơi cư trú vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Trong biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, việc quản lý của chính quyền địa phương đối với bị can, bị cáo giữ vai trò hết sức quan trọng nhằm quản lý, theo dõi, nắm bắt tình hình, hoạt động của bị can, bị cáo trong quá trình bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tại địa phương.
Thực tiễn cho thấy, khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị can, bị cáo không bị giam giữ nên dễ dàng trốn hoặc tự do đi lại vì mục đích sinh hoạt bình thường hoặc mục đích thăm viếng của cá nhân. Chính quyền địa phương ít khi quan tâm, hoặc nếu có quan tâm cũng chỉ là hình thức mà không quản lý được thực chất. Hơn nữa, quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú không đề cập đến trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quản lý người bị áp dụng nếu họ vi phạm cam kết, bỏ trốn rời khỏi địa phương hoặc thậm chí là phạm tội mới. Bên cạnh đó, BLTTHS chỉ quy định chung chung là chính quyền địa phương xã, phường, thị trấn… quản lý người bị cấm, chứ không quy định rõ ràng chủ thể nào sẽ quản lý, quản lý như thế nào, trách nhiệm và hình thức xử phạt người quản lý khi bị can, bị cáo bỏ trốn, hoặc tiếp tục phạm tội. Đây chính là vướng mắc làm hạn chế hiệu quả áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trong thực tiễn.
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Thứ nhất, hướng dẫn cụ thể nơi cư trú và phạm vi bị cấm rời khỏi nơi cư trú.
Về nơi cư trú của bị can, bị cáo: Như chúng tôi đã phân tích, cần quy định nơi cư trú của bị can, bị cáo trong BLTTHS đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Theo đó: Nơi cư trú của bị can, bị cáo được xác định theo Điều 12 Luật cư trú năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
Về phạm vi bị can, bị cáo bị cấm rời khỏi: Phạm vi bị cấm rời khỏi cần được được xác định rõ ràng nhằm tránh gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của đối tượng bị cấm. Phạm vi là đơn vị địa giới hành chính tại xã, phường, thị trấn thì sẽ quá hẹp, gây bất tiện cho điều kiện sinh hoạt hoặc hoạt động thường ngày của bị can, bị cáo. Do vậy, theo chúng tôi cần có hướng dẫn cụ thể theo hướng xác định phạm vi bị can, bị cáo bị cấm rời khỏi theo phạm vi địa giới hành chính huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Trường hợp bị can, bị cáo cư trú trên trục đường liền kề giữa các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh thì thị xã thì quy định địa bàn cấm rời khỏi không chỉ một quận, thị xã mà có thể ra các khu vực lân cận theo tuyến đường. Việc quy định có tính linh hoạt như vậy là nhằm tạo thuận lợi cho quá trình áp dụng, phù hợp với tình hình thực tiễn. Trường hợp bị can, bị cáo sinh sống ở một nơi, nhưng làm việc, kinh doanh tại một nơi khác, cách xa nhau (chẳng hạn: cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng làm việc, kinh doanh tại tỉnh Tiền Giang), có đăng ký thường trú và có nơi làm việc, kinh doanh, nhưng họ chủ yếu sinh hoạt ở nơi làm việc, kinh doanh vì ở đó họ đã sống thời gian dài, có tính ổn định hơn, thì nơi bị cấm là nơi làm việc của bị can, bị cáo.
Ngoài ra, chúng tôi đồng ý với đề xuất rằng trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cơ quan tiến hành tố tụng cần sớm hướng tới biện pháp quản lý, giám sát người bị cấm đi khỏi nơi cư trú bằng các biện pháp điện tử, kiểm tra bất thường như nhiều nước đã và đang thực hiện8.
Thứ hai, quy định rõ ràng hơn cơ quan, người có thẩm quyền quản lý, theo dõi người bị cấm đi khỏi nơi cư trú.
Để quản lý, theo dõi một cách chặt chẽ bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cần quy định rõ hơn cơ quan, người có thẩm quyền quản lý, theo dõi; cách thức quản lý, theo dõi và biện pháp xử lý đối với cơ quan, người có thẩm quyền nếu bị can, bị cáo có vi phạm trốn đi khỏi nơi cư trú.
Điều 123 BLTTHS quy định: Chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú quản lý, tuy nhiên chính quyền địa phương cần hiểu rộng hơn là ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn cùng phối hợp với công an xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú để quản lý, giám sát. Quy đinh như vậy là để xác định ủy ban nhân dân là chủ thể có nghĩa vụ thi hành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhằm quản lý, giám sát; còn công an phường, xã, thị trấn là cơ quan chuyên trách phối hợp thực hiện.
Sau khi nhận được thông báo có lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ cơ quan có thẩm quyền và nhận bàn giao bị can, bị cáo cho địa phương, chính quyền nơi đó cần lập kế hoạch quản lý, theo dõi trong thời gian người đó bị cấm. Kế hoạch gồm có: thông tin cơ bản về bị can, bị cáo (như trình độ văn hóa, lý lịch, nhân thân…), cách thức quản lý (một tuần triệu tập bị cáo bao nhiêu lần? Tại đâu? Khuyến khích bị can, bị cáo tham gia các hoạt động công ích tại địa phương?…), giao cho cá nhân có trách nhiệm quản lý theo dõi (cán bộ tư pháp – hộ tịch phường, công an phường, …); Ngoài ra cần bổ sung về khen thưởng và kỷ luật đối với người được giao nhiệm vụ quản, giám sát bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, cụ thể:
– Nếu người quản lý theo dõi hoàn thành tốt nhiệm vụ; bị can, bị cáo không vi phạm quy định của pháp luật, thì được tuyên dương, khen thưởng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
– Nếu bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc vi phạm pháp luật, phạm tội mới mà người có trách nhiệm quản lý, theo dõi không biết hoặc biết nhưng không báo thì sẽ bị kiểm điểm, kỷ luật./.
CHÚ THÍCH
- Giảng viên Cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp.
- Khoản 1, Điều 123 BLTTHS năm 2015.
- Điều 12, Điều 13 Công ước ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Convenant on Civil and Policical Rights) (gọi tắt là Công ước hoặc ICCPR)
- Mẫu số 32, Thông tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 quy định biểu mẫu, giấy tờ, số sách về điều tra hình sự;
- Nguyễn Ngọc Chí (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 284.
- Dương Tấn Thanh, hiểu thế nào cho đúng về nơi cư trú của bị can, bị cáo, https://kiemsat.vn/hieu-the-nao-cho- dung-ve-noi-cu-tru-cua-bi-can-bi-cao-49798.html
- Cường Ngô, cùng một ngày bác sĩ Hoàng Công Lương nhận 2 lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, https://laodong.vn/phap- luat/cung-mot-ngay-bac-si-hoang-cong-luong-nhan-2-lenh-cam-di-khoi-noi-cu-tru-617347.ldo.
- Dương Tấn Thanh, hiểu thế nào cho đúng về nơi cư trú của bị can, bị cáo, https://kiemsat.vn/hieu-the-nao-cho- dung-ve-noi-cu-tru-cua-bi-can-bi-cao-49798.html.
Trả lời