Điều khoản về hoàn cảnh thay đổi cơ bản dẫn đến khó khăn đặc biệt trong khi thực hiện hợp đồng, hay ngắn gọn hơn là hoàn cảnh thay đổi cơ bản, (tiếng Anh là hardship clause,) là chủ đề nghiên cứu, tranh luận khá nhiều trong lĩnh vực thương mại nói chung, thương mại quốc tế nói riêng, do sự thiếu hụt, chưa hoàn thiện quy định pháp luật và khác biệt trong tư duy pháp lý của các bên tham gia hợp đồng, dẫn đến nhiều tranh chấp khi thực hiện hợp đồng. Từ việc phân tích, bình luận một vụ việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, bài viết góp phần nhận diện một số khía cạnh pháp lý về hoàn cảnh thay đổi cơ bản (hardship) ở khía cạnh pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Thương mại
Bình luận các sai sót trong quá trình kê biên, xử lý tài sản thế chấp để thi hành bản án, quyết định kinh doanh thương mại
Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định tương đối cụ thể về kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, là căn cứ để cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên tổ chức thi hành án đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện việc kê biên, xử lý tài sản thế chấp theo bản án, quyết định cho thấy, vẫn còn tình trạng lúng túng, sai sót của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự trong áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ảnh hưởng tới hiệu quả công tác thi hành án, tính nghiêm minh của pháp luật. Trong bài viết này, tác giả sẽ bình luận các sai sót của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình kê biên, xử lý tài sản thế chấp để thi hành bản án, quyết định kinh doanh thương mại.
Một số vướng mắc khi giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại Tòa án và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này
Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận của các thương nhân trong hoạt động thương mại nhằm đạt được lợi ích mà các bên mong muốn khi thiết lập hợp đồng. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các hợp đồng thương mại đang gia tăng với số lượng rất lớn, kéo theo là các tranh chấp về hợp đồng thương mại ngày càng gia tăng về số lượng, cũng như tính chất và mức độ phức tạp của các vụ việc liên quan. Theo đó, khi xảy ra các tranh chấp hợp đồng nói chung, tranh chấp trong hợp đồng thương mại nói riêng rất cần có một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, chính xác góp phần bảo vệ uy tín và lợi ích của các nhà kinh doanh. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại ở Tòa án nước ta hiện nay cũng còn một số vướng mắc và khó khăn dẫn đến giải quyết chưa đạt hiệu quả cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số vướng mắc khi giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại Tòa án nhân dân, đồng thời đưa ra một sốgiải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trên thực tiễn.
Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh (QTDKD) là một quyền cơ bản trong hệ thống quyền con người. Mục đích bảo đảm quyền tự do kinh doanh nhằm trước hết là làm cho chủ thể kinh doanh được thụ hưởng và thực hiện được đầy đủ các QTDKD. Bài viết nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tự do kinh doanh nhằm làm sáng tỏ những luận cứ khoa học và thực tiễn làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng pháp luật và xây dựng, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam.
Bàn về chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài
Theo nguyên tắc của tố tụng trọng tài thì “phán quyết trọng tài là chung thẩm”, tức là có hiệu lực ngay kể từ ngày ban hành phán quyết. Tuy nhiên, vẫn có một cánh cửa để phá vỡ phán quyết trọng tài, đó là thủ tục hủy phán quyết trọng tài tại Tòa án. Bài viết đề cập đến một trong những bất cập của phán quyết trọng tài theo quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM năm 2010) trong quá trình xét xử các vụ án tại Tòa án, đó là ai có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài. Thực tiễn cho thấy, một số quy định của pháp luật về vấn đề này còn tồn tại những bất cập, hạn chế cần được nghiên cứu hoàn thiện. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả phân tích, chỉ ra một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng quy định của pháp luật về chủ thể có quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Từ đó đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại – Thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật
Trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thay thế phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Với nhiều ưu thế như: việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tính linh hoạt, tiết kiệm thời gian, chi phí, đảm bảo bí mật kinh doanh; phán quyết trọng tài là phán quyết cuối cùng, có tính cưỡng chế thi hành đối với các bên và không những được thi hành trong nước mà còn cả ở 157 nước thành viên theo Công ước New York về Công nhận và Thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài năm 1958 mà Việt Nam là thành viên. Vì những ưu điểm này mà trong những năm gần đây phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được cộng đồng doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập cần nghiên cứu và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật.
Áp dụng tập quán và thói quen giữa các bên theo Công ước viên năm 1980
Trong quan hệ hợp đồng nói chung, hợp đồng thương mại quốc tế nói riêng, các bên bị ràng buộc bởi tập quán mà họ đã thỏa thuận và bởi các thói quen đã được xác lập giữa họ. Nói cách khác, tập quán và thói quen được coi là nguồn luật điều chỉnh các quan hệ đó.Bài viết phân tích hai căn cứ áp dụng tập quán và thói quen giữa các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Khoản 1 và Khoản 2 Điều 9 CISG. Thực tiễn áp dụng các quy định này thông qua việc nghiên cứu thực tiễn xét xử trong đó tòa án, trọng tài đưa ra quan điểm của mình về căn cứ áp dụng tập quán, cũng như cách thức xác định thói quen của các bên để trở nên có giá trị ràng buộc.
Những đổi mới của hoạt động trọng tài quốc tế trong thời gian qua và đề xuất cho Việt Nam
Nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hoạt động trọng tài ngày càng được cải thiện cả về chất và lượng. Các tổ chức trọng tài trên phạm vi toàn cầu đã có nhiều nỗ lực đưa ra những sáng kiến, giải pháp đa dạng nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động trọng tài. Những nỗ lực nêu trên xuất phát từ phía Chính phủ, từ các tổ chức trọng tài trong bối cảnh xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ. Trong 10 năm qua, hoạt động trọng tài Việt Nam khởi sắc với nhiều kết quả đáng ghi nhận. Với mục tiêu thúc đẩy hoạt động trọng tài Việt Nam, một số đề xuất về phương hướng phát triển hoạt động trọng tài Việt Nam trong thời gian tới đã được đưa ra nhằm phát triển hoạt động trọng tài theo hướng uy tín, linh hoạt, thân thiện, minh bạch và chất lượng.
Pháp luật về thương mại điện tử – Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Thương mại điện tử, hay còn gọi là E – commerce (EC), là hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử và Internet. Hoạt động này đã và đang mang lại nhiều lợi ích giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng đang đặt ra những thách thức cho các cơ quan quản lý trong việc xây dựng khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động thương mại điện tử. Hiện nay, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử còn chưa đồng bộ, vẫn còn một số bất cập, hạn chế. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến tình hình phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam, hệ thống pháp luật về thương mại điện tử hiện nay tại Việt Nam và một số bất cập, hạn chế, đề xuất, giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý về thương mại điện tử, cũng như ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại điện tử.
Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong Pháp luật kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam
Điều kiện bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hiệu lực pháp lý của hợp đồng bảo hiểm. Mục đích của bảo hiểm chỉ đạt được nếu bên mua bảo hiểm có lợi ích bảo hiểm, tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm. Điều kiện này trở thành một nguyên tắc trong hoạt động bảo hiểm trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Mặc dù Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 đã có những quy định về vấn đề này nhưng thực tiễn áp dụng trong thời gian qua đã chỉ ra một số điểm còn hạn chế, bất cập. Bài viết tập trung phân tích bản chất quyền lợi có thể được bảo hiểm và làm rõ mối quan hệ giữa chúng với hiệu lực pháp lý của hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Từ đó chỉ ra những hạn chế, bất cập và đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật kinh doanh bảo hiểm, qua đó góp phần hạn chế tình trạng trục lợi bảo hiểm hiện nay.