Mục lục
Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc trong một số trường hợp khác còn áp dụng đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm của họ, ngăn ngừa họ bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có những hành động khác làm cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án.
Xem thêm bài viết về “Biện pháp ngăn chặn”
- Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
- Biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” theo Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Biện pháp ngăn chặn “Tạm giữ” trong Tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Biện pháp ngăn chặn “Bắt người đang bị truy nã” – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
Những biện pháp ngăn chặn là một trong những công cụ hữu hiệu để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đạt hiệu quả, đáp ứng được kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Vì những lý do như trên nên trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự thì biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (Viết tắt: BLTTHS) có những quy định cụ thể về biện pháp ngăn chặn nhằm góp phần tăng cường tính dân chủ, hiệu lực của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân hướng đến xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo Điều 109 BLTTHS 2015, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự gồm có 8 biện pháp bao gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn xuất cảnh.
1. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Giữ trong trường hợp khẩn cấp là trường hợp giữ người khi có căn cứ xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện tội phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Xem thêm bài viết: Quy định của BLTTHS 2015 về “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”
1.1. Các trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 quy định có 3 trường hợp giữ trong trường hợp khẩn cấp, gồm:
1.1.1. Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi, kiểm tra, xác minh các tin tức thu được và có đủ căn cứ xác định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên cần giữ ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội.
Giữ người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai điều kiện:
- Phải có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi ích của Nhà nước và công dân nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe dọa rất nghiệm trọng;
- Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
1.1.2. Khi người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Giữ người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai điều kiện:
- Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm (có thể là người cùng thực hiện tội phạm hoặc người bị hại hoặc người chứng kiến khác) chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm;
- Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Điều này yêu cầu Cơ quan điều tra phải tiến hành Giữ ngay người thực hiện hành vi phạm tội nếu không họ sẽ trốn, gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm.
1.1.3. Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Giữ người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai điều kiện:
- Tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm;
- Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
1.2. Thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 110 BLTTHS 2015 quy định cụ thể những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
1.3. Thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS.
Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của BLTTHS.
Lưu ý:
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 110 BLTTHS phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó.
Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 BLTTHS phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều 110 BLTTHS phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS.
2. Bắt người
Bắt người là biện pháp hữu hiệu giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng kịp thời ngăn chặn tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác khám phá sự thật vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Tuy nhiên, bắt người có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân… Do đó, bắt người luôn phải đảm bảo đúng theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Các trường hợp bắt người được quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS 2015, bao gồm:
2.1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Xem thêm bài viết: Quy định về “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” trong tố tụng hình sự
2.1.1. Đối tượng và điều kiện áp dụng
Đối tượng bị bắt để tạm giam, chỉ có thể là bị can, bị cáo nhưng không phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam, mà chỉ những bị can, bị cáo có một trong ba điều kiện sau đây thì mới có thể bị bắt để tạm giam:
– Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng;
– Bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình 15 sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
- Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này;
– Bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội.
2.1.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Điều 113 BLTTHS 2015 quy định thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam cho những người sau đây:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp (trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành);
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
2.1.3. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Khoản 2 và khoản 3 Điều 113 BLTTHS 2015 quy định:
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bắt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS.
Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.
Lưu ý:
Đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, Ðiều 419 BLTTHS 2015 quy định:
Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết.
Thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại BLTTHS 2015.
Khi không còn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
2.2. Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi có căn cứ xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện tội phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Xem thêm bài viết: “Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” là gì?
2.2.1. Các trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 quy định có 03 trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gồm:
Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Khi người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
2.2.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 110 BLTTHS 2015 quy định cụ thể những người có quyền ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
2.2.3. Thủ tục bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
Thủ tục bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại Khoản 4, Khoản 5 và Khoản 6 Điều 110 BLTTHS 2015, nhìn chung về quy định và áp dụng tương tự như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Tuy nhiên cần lưu ý:
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm quyền theo luật định của những cơ quan này phải thực hiện: lấy lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; nếu thấy có căn cứ thì ra quyết định tạm giữ, lệnh bắt nguời bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chuyển hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn.
Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015.
2.3. Bắt người phạm tội quả tang
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Xem thêm bài viết: Quy định về “Bắt người phạm tội quả tang” trong BLTTHS 2015
Các trường hợp bắt người phạm tội quả tang
Điều 111 BLTTHS 2015 quy định cụ thể ba trường hợp phạm tội quả tang sau đây:
2.3.1. Đang thực hiện tội phạm thì bị bắt
Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội mà bị phát hiện. Đối với những tội phạm mà hành vi phạm tội được thực hiện trong một khoảng thời gian dài, không bị gián đoạn như tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, tội tàng trữ trái phép chất nổ, chất độc, chất cháy, chất phóng xạ… thì trong suốt thời gian đó bị coi là đang thực hiện tội phạm. Vì vậy, thời điểm nào tội phạm bị phát giác cũng là phạm tội quả tang.
2.3.2. Người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong
Đây là trường hợp người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn mà bị phát hiện.
Cần lưu ý để bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này phải có chứng cứ chứng minh là người đó vừa gây tội xong, chưa kịp chạy trốn và sự phát hiện, bắt giữ người phạm tội phải xảy ra tức thời sau khi tội phạm được thực hiện. Thông thường, các vật chứng (còn gọi là tang vật) mà người phạm tội chưa kịp cất giấu, tẩu tán là những bằng chứng khiến người phạm tội không thể chối cãi về hành vi phạm tội của mình vừa thực hiện xong.
Nhưng trong các trường hợp không có vật chứng, sự có mặt của những người làm chứng cũng cho phép được bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này.
2.3.3. Đang bị đuổi bắt
Trong trường hợp phạm tội quả tang này, người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong hoặc đang thực hiện tội phạm mà bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt.
2.4. Bắt người đang bị truy nã
Theo quy định của BLTTHS 2015, khi bị can, bị cáo bỏ trốn thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra ra quyết định truy nã. Trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù trốn khỏi nơi giam thì Giám thị trại giam ra quyết định truy nã.
Xem thêm bài viết: Biện pháp ngăn chặn “Bắt người đang bị truy nã”
2.4.1. Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Điều 111 và Điều 112 BLTTHS 2015 quy định bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã.
2.4.2. Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, công dân không được đánh đập, tra tấn người phạm tội và cũng không tự ý giam giữ họ mà phải giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.
Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan điều tra phải lời khai ngay, trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Điều 114 BLTTHS 2015 quy định thủ tục đối với trường hợp bắt người đang bị truy nã: “Sau khi lấy lời khai người bị bắt theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho Cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt, sau đó phải ra ngay quyết định đình nã.
Trường hợp cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết; nếu đã hết thời hạn tạm giữ mà cơ quan ra quyết định truy nã vẫn chưa đến nhận thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt gia hạn tạm giữ và gửi ngay quyết định gia hạn tạm giữ kèm theo tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn.
2.5. Bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ
Dẫn độ tội phạm là việc một quốc gia trao trả người phạm tội hay người bị nghi ngờ là phạm tội theo đề nghị hay yêu cầu của một quốc gia khác để điều tra, xét xử hay thi hành bản án hình sự, được quy định tại Khoản 1 Điều 503 BLTTHS 2015, qua đó có thể thấy thẩm quyền và trình tự thủ tục bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ được thực hiện như bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
3. Tạm giữ
Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú.
Mục đích của tạm giữ để ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu thập chứng cứ, đánh giá tính chất mức độ hành vi của người bị tạm giữ, để quyết định khởi tố hình sự, tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn phù hợp hoặc trả lại tự do cho người bị tạm giữ.
Xem thêm bài viết: Quy định của BLTTHS 2015 về “Tạm giữ”
3.1. Đối tượng bị tạm giữ
Là những người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú.
3.2. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Theo khoản 2 Điều 117 BLTTHS 2015 quy định :“Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ”.
3.3. Thủ tục tạm giữ
Điều 117 BLTTHS 2015 quy định: Tạm giữ phải có quyết định của người có thẩm quyền; quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, giờ, ngày bắt đầu và giờ ngày hết thời hạn tạm giữ; phải thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ cho người bị tạm giữ biết; trong 22 thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
3.4. Thời hạn tạm giữ
Theo quy định tại Điều 118 BLTTHS 2015 thì thời hạn tạm giữ không được quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 3 ngày (có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền). Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 3 ngày. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
4. Tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn áp dụng với bị can, bị cáo khi có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành. Là biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do cá nhân nên việc áp dụng biện pháp này phải được quy định một cách chặt chẽ, cụ thể trong BLTTHS về căn cứ, thời hạn áp dụng cũng như thẩm quyền quyết định áp dụng.
Xem thêm bài viết: Quy định của BLTTHS 2015 về “Tạm giam”
4.1. Đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Theo quy định của Điều 119 BLTTHS 2015 thì những trường hợp sau đây có thể áp dụng biện pháp tạm giam:
4.1.1. Trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng thì có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam mà không cần điều kiện khác.
4.1.2. Trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng mà mức phạt tù trên 02 năm
Bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm có thể bị áp dụng tạm giam khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
- Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này;
4.1.3. Trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng mà mức phạt tù dưới 02 năm
Bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm có thể bị áp dụng tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
4.1.2. Trường hợp bị can, bị cáo là người có thai, người già, người bị bệnh nặng
Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
- Tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
4.2. Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam
Theo khoản 5 Điều 119 BLTTHS 2015 thì những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015 có quyền ra lệnh tạm giam, Lệnh phải phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
4.3. Thủ tục tạm giam
Theo quy định của BLTTHS 2015 thì việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ, tên, chức vụ của người ra lệnh, có chữ ký và có đóng dấu; lệnh phải ghi họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
4.4. Thời hạn tạm giam:
4.4.1. Thời hạn tạm giam để điều tra
Điều 173 BLTTHS 2015 quy định, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4.4.2. Thời hạn tạm giam để truy tố
Điều 241 BLTTHS 2015 quy định, thời hạn tạm giam không được quá thời hạn truy tố quy định tại khoản 1 Điều 240 BLTTHS 2015; trong trường hợp cần thiết, thời hạn tạm giam chỉ có thể gia hạn nếu VKS gia hạn thời hạn truy tố, cụ thể: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng thời hạn tạm giam tối đa là 20 ngày, có thể gia hạn thêm 10 ngày; đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam tối đa là 30 ngày, có thể gia hạn thêm 15 ngày; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam là 30 ngày, có thể gia hạn thêm 30 ngày.
4.4.3. Gia hạn tạm giam
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, cần phải có thời gian dài hơn để điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam có thời hạn như sau:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;
- Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;
- Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;
- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
4.4.5. Thời hạn tạm giam trong trường hợp phục hồi điều tra
Thời hạn tạm giam trong trường hợp phục hồi điều tra được quy định tại khoản 4 Điều 174 BLTTHS 2015 như sau:
“Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.
Khoản 1 Điều 174 BLTTHS 2015 quy định về thời hạn phục hồi điều tra như sau:
“Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như sau: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 01 tháng; Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 03 tháng”.
4.4.6. Thời hạn tạm giam trong trường hợp điều tra bổ sung
Thời hạn tạm giam trong trường hợp điều tra bổ sung không được quá thời hạn điều tra bổ sung. Nếu hồ sơ vụ án do VKS trả lại, yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam là không quá 2 tháng, trong trường hợp này nếu hồ sơ phải trả lại lần thứ hai để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam cũng không được quá 2 tháng.
Trường hợp hồ sơ do Tòa án trả lại, yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam không quá 1 tháng, nếu bị trả lại và yêu cầu điều tra bổ sung lần thứ hai thì thời hạn tạm giam cũng không quá 1 tháng.
5. Cấm đi khỏi nơi cư trú
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn của luật TTHS, có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS, Tòa án.
Xem thêm bài viết: Quy định về “Cấm đi khỏi nơi cư trú” trong BLTTHS 2015
5.1. Đối tượng bị áp dụng
Đối tượng bị áp dụng biện pháp này bao gồm:
Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng, thái độ khai báo thành khẩn, có cơ sở để cho rằng họ không bỏ trốn, không gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay tiếp tục phạm tội;
Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bệnh nặng, có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng, không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 119 BLTTHS 2015. Đồng thời bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 123 BLTTHS 2015 và phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập.
5.2. Thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú
Thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú là những người được quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS 2015.
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.
Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền.
5.3. Thời hạn ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú
Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này.
Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
6. Bảo lĩnh
Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định để thay thế biện pháp tạm giam, nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các Cơ quan tiến hành tố tụng.
Xem thêm bài viết: Quy định của BLTTHS 2015 về biện pháp “Bảo lĩnh”
6.1. Điều kiện áp dụng
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người.
Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 BLTTHS 2015.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản 3 Điều 121 BLTTHS 2015 thì bị tạm giam.
6.2. Thẩm quyền ra quyết định bảo lĩnh
Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015 và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015 phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
6.3. Thời hạn bảo lĩnh
Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của BLTTHS 2015. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
7. Đặt tiền bảo đảm
Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam.
Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm. Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 122 BLTTHS 2015.
Người thân thích của bị can, bị cáo được CQĐT, VKS, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 122 BLTTHS 2015, nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Xem thêm bài viết: Quy định về “Đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm” trong tố tụng hình sự
7.1. Thẩm quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm
Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015 và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm.
Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015 phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
7.2. Thời hạn đặt tiền
Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại BLTTHS 2015.
Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.
8. Tạm hoãn xuất cảnh
Đây là biện pháp ngăn chặn mới được bổ sung trong BLTTHS năm 2015 nhằm đáp ứng yêu cầu phát hiện và xử lý tội phạm, phù hợp với Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014.
Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh được áp dụng đối với: người bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo.
Xem thêm: Quy định của BLTTHS 2015 về “Tạm hoãn xuất cảnh”
8.1. Căn cứ áp dụng tạm hoãn xuất cảnh:
Khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố có dấu hiệu bỏ trốn, cản trở hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, 30 truy tố, xét xử vụ án hình sự. Đối với bị can, bị cáo thì đương nhiên bị tạm hoãn xuất cảnh.
8.2. Thẩm quyền quyết định tạm hoãn xuất cảnh
Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định tạm hoãn xuất cảnh.
Quyết định tạm hoãn xuất cảnh của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015 phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.
8.3. Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh
Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh không được quá thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của BLTTHS 2015.
Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”
- Bị can là gì? Các quyền và nghĩa vụ của bị can theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về biện pháp ngăn chặn áp giải, dẫn giải trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – LS. Nguyễn Lan Anh
- Một số vấn đề pháp lý về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Trần Ngọc Lan Trang & ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Một số điểm mới về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Trịnh Duy Thuyên
Trả lời