Sửa đổi các quy định của BLTTHS theo Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
- Điểm mới của Hiến pháp 2013 về “quyền con người” và “quyền công dân”
- Hiến pháp 2013 về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
- Quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS – Quyền cơ bản của công dân, quyền của những người tham gia tố tụng
- Mối quan hệ: Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân
- Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự theo BLTTHS 2015
TỪ KHÓA: Quyền con người, Quyền công dân, Biện pháp ngăn chặn,
TÓM TẮT
Bài viết phân tích, làm rõ những quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân và cơ chế bảo vệ các quyền này. Đồng thời, bài viết phân tích, đánh giá những quy định hiện hành về bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
1. Quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân và cơ chế bảo vệ
Hiến pháp năm 2013 đã dành 36 điều ở Chương II trên tổng số 120 điều của Hiến pháp cho việc hiến định trực tiếp các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn hoặc tách thành điều riêng hầu hết các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, bao gồm: quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; quyền không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (Điều 21)… So với Hiến pháp năm 1992,[1] Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ về cấm tra tấn nói riêng và cấm bất kỳ hình thức bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của mọi người nói chung (Điều 20). Quy định này cụ thể, rõ ràng cả về hành vi bị cấm, cả về chủ thể được bảo vệ. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn quyền tiếp cận thông tin (Điều 25).[2] Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin cả về các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.
Đặc biệt, khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định”. Điều 31 Hiến pháp năm 2013 còn quy định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật… 4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. 5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”. Đây là cơ sở hiến định để bảo đảm quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Việc quy định chi tiết những nội dung này trong Hiến pháp cũng đã cho thấy mức độ bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được đề cao hơn. Quy định này còn thể hiện rõ quan điểm Nhà nước có nghĩa vụ phải thực hiện những quy định chi tiết về quyền đã được hiến định nêu trên, đồng thời hoàn thiện cơ chế thực hiện thông qua các thủ tục tố tụng hình sự và cơ chế bồi thường.
Để đạt được mục tiêu, quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi đã được quy định trong Hiến pháp thì phải được tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành. Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”, nhằm thông qua đó hiến định cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân.[3] Theo đó, mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013 phải do luật định; bảo đảm nguyên tắc quyền hạn chế những quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được hiến định phải do luật quy định để tránh sự lạm dụng, vi phạm quyền con người, quyền công dân của các cơ quan công quyền.
Những gì đã được trình bày ở trên cho thấy, cùng với các quy định có hiệu lực trực tiếp (không cần phải có đạo luật cụ thể hóa), Hiến pháp năm 2013 còn có những quy định mang tính nguyên tắc, những tinh thần, tư tưởng chung cần được cụ thể hóa thông qua các văn bản luật. Từ góc độ thi hành Hiến pháp, có thể nhận thấy Hiến pháp năm 2013 không chỉ hiến định những cơ sở quan trọng cho việc xác định chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự; mà còn hiến định cơ sở cho việc xác định người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là chủ thể quyền và xác định chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, quyền công dân của những người này trong tố tụng hình sự. Do Hiến pháp năm 2013 không thể quy định hiệu lực trực tiếp của các quyền này, nên vấn đề bảo đảm các quyền con người, quyền công dân đòi hỏi (và chỉ được thực hiện khi) Quốc hội sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 để cụ thể hóa chúng. Thực tế còn đòi hỏi, sau đó Chính phủ cần ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
2. Quy định hiện hành về bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Để thể chế hóa những quy định của Hiến pháp năm 1992, Điều 4 BLTTHS năm 2003 đã quy định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa” nhằm thiết lập nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân đã được hiến định trong tố tụng hình sự. Theo đó, chủ thể phải tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân đã được hiến định khi tiến hành tố tụng hình sự là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm. Điều luật nêu rõ, khi tiến hành tố tụng hình sự các chủ thể nói trên chỉ áp dụng các biện pháp hạn chế các quyền cơ bản của công dân đã được hiến định khi điều đó là cần thiết. Trong trường hợp sự hạn chế đó không được coi là cần thiết nữa thì nó phải bị hủy bỏ. Đồng thời, các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.
Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS năm 2003, hiện nay những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự gồm có: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.[4] Các quy định trong BLTTHS năm 2003 cho thấy, các biện pháp ngăn chặn thực chất là những biện pháp hạn chế quyền tự do cá nhân và tác động tinh thần của một người có liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự với tư cách là bị can, bị cáo, người bị tình nghi thực hiện tội phạm mà pháp luật đòi hỏi, việc áp dụng các biện pháp này phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nhằm bảo đảm cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đi đúng hướng, loại trừ khả năng hạn chế hoặc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân đã được hiến định, Điều 79 BLTTHS năm 2003 quy định căn cứ pháp lý để áp dụng các biện pháp nêu trên là: để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án. Đồng thời, BLTTHS năm 2003 có quy định về căn cứ riêng, cụ thể để áp dụng các biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81); bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82); tạm giam (Điều 88). Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 không quy định căn cứ riêng, cụ thể để áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam; tạm giữ; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Do chưa thể quy định những căn cứ riêng, cụ thể để áp dụng các biện pháp này nên việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự không những phải theo đúng Hiến pháp và pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng, mà còn phải xem xét vận dụng hết sức thận trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Trong khi thực tế đã chỉ ra rằng, việc áp dụng một trong các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm có thể trực tiếp hạn chế một nhưng cũng có thể nhiều hơn những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định. Nếu vận dụng các biện pháp ngăn chặn một cách cứng nhắc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì có thể dẫn đến những sai lầm, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.[5] Nhận thức được điều này nên các nhà làm luật đã sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng; trình tự, thủ tục áp dụng; thời điểm, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong Chương VI BLTTHS năm 2003.
Khi so sánh với các quy định tại Chương V BLTTHS năm 1988 có thể nhận thấy, tất cả các điều luật của Chương VI BLTTHS năm 2003 không chỉ được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định chặt chẽ hơn về thẩm quyền quyết định áp dụng; trình tự, thủ tục áp dụng; thời điểm, thời hạn áp dụng áp dụng đối với từng biện pháp ngăn chặn, mà còn tăng cường trách nhiệm pháp lý của Viện kiểm sát nhằm xác lập căn cứ pháp lý để kiểm soát chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp này. Trong đó, BLTTHS năm 2003 đã bổ sung nhiều quy định nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân của những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn như: người thi hành lệnh phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt (khoản 2 Điều 80); khi bắt người trong trường hợp khẩn cấp, nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt (khoản 4 Điều 81); trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ (khoản 3 Điều 87)… Những quy định trên đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng không được áp dụng các biện pháp ngăn chặn một cách tùy tiện, lạm dụng mà chỉ được thực hiện khi có căn cứ và theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Do việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có thể trực tiếp hạn chế quyền tự do cá nhân và tác động đến tinh thần của một người, những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định, nên Chương IV BLTTHS quy định khá đầy đủ các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, cụ thể như: quyền được biết lý do mình bị tạm giữ; quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì; quyền được trình bày lời khai; quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu (để chứng minh sự vô tội của mình); quyền được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng… Khi một người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, họ còn có thể bị đụng chạm tới quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do kinh doanh, quyền làm việc, quyền học tập, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa… Tuy nhiên, do xét về mặt kỹ thuật lập pháp, không cần thiết phải quy định cụ thể trong BLTTHS năm 2003 nên Nhà nước đã ban hành một số văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết về những vấn đề này.[6]
Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự hiện đã thiết lập và đang duy trì một cơ chế bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn[7] bằng việc quy định căn cứ áp dụng; thẩm quyền quyết định áp dụng; trình tự, thủ tục áp dụng; thời điểm, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, trên cơ sở các quyền của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn được luật định.Trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003, đây là những căn cứ pháp lý để kiểm soát việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân.
Tuy nhiên, do quy định về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam chủ yếu dựa vào sự phân loại tội phạm trong BLHS nên việc áp dụng biện pháp tạm giam còn biểu hiện lạm dụng, không kịp thời hủy bỏ biện pháp tạm giam khi không còn cần thiết.[8] Một số vụ án gia hạn thời hạn điều tra, gia hạn tạm giam chưa bảo đảm căn cứ luật định đã trực tiếp hạn chế quyền tự do cá nhân, quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định. Trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đã xảy ra tình trạng nhận thức sai lầm rằng, đã là bị can, bị cáo thì dứt khoát phải áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họ hoặc người đã bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thì dứt khoát phải áp dụng biện pháp tạm giữ, phải khởi tố bị can đối với họ,[9] mà không chú ý đến lý do và những trường hợp có thể giới hạn quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định. Đây chính là sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền. Nguyên nhân của tình trạng trên là do BLTTHS còn thiếu các quy định về căn cứ riêng, cụ thể để áp dụng từng biện pháp ngăn chặn. Quy định về phạm vi chủ thể và quyền hạn khi áp dụng biện pháp bắt giữ chưa đầy đủ trong trường hợp bắt người đang bị truy nã, bắt người phạm tội quả tang, bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng chính là nguyên nhân của hiện tượng lạm dụng việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp; áp dụng biện pháp tạm giam khi không cần thiết; tạm giữ, tạm giam quá thời hạn luật định làm tổn hại đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân; vi phạm trong thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Trong khi đó, các biện pháp ngăn chặn có tính chất thay thế tạm giam như: bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo ít được áp dụng, kém phát huy hiệu quả trong thực tiễn tố tụng hình sự.[10]
Báo cáo tổng kết việc thi hành BLTTHS năm 2003 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao[11] nêu rõ: Trên thực tế còn để xảy ra một số trường hợp quá hạn tạm giữ, tạm giam mà không kịp thời có lệnh tạm giam hoặc gia hạn tạm giam; các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam (bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm) còn có những nội dung không phù hợp, thiếu cụ thể nên chưa phát huy tác dụng, chậm trễ trong việc giải quyết các yêu cầu, đề nghị của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa.Việc bảo đảm thực hiện quyền yêu cầu, khiếu nại của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đối với các quyết định, hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa được quan tâm đúng mức. Nguyên nhân của tình trạng trên là do thiếu các cơ chế để bảo đảm quyền bào chữa của người bị tam giữ, bị can, bị cáo.[12] BLTTHS năm 2003 chưa quy định địa vị pháp lý của người bị bắt (gồm cả người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị nghi thực hiện tội phạm) khi tham gia tố tụng hình sự nên việc xác định quyền và nghĩa vụ của những người này gặp nhiều khó khăn.[13]
3. Hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Quán triệt quan điểm cải cách tư pháp thể hiện trong các nghị quyết của Đảng,[14] trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS, tiếp tục kế thừa những quy định đang phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, chúng tôi cho rằng hướng hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn như sau:
– BLTTHS bảo đảm mọi hoạt động tố tụng hình sự liên quan đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải được điều chỉnh chi tiết về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, trình tự, thời hạn tiến hành. Nhất là cần quy định cụ thể căn cứ áp dụng; trình tự, thủ tục áp dụng; thời điểm, thời hạn áp dụng các biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo.
– Sửa đổi quy định áp dụng biện pháp tạm giam theo hướng kết hợp giữa căn cứ phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự hiện hành với căn cứ cho rằng nếu không áp dụng biện pháp tạm giam thì bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, hoặc bỏ trốn, hoặc tiếp tục phạm tội.
– Sửa đổi quy định về các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam (biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo) để có thể bảo đảm một cách tốt nhất các quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được hiến định, đồng thời phát huy tính hiệu quả của các biện pháp này. Chẳng hạn như bị can, bị cáo là người chưa thành niên mà không có hoặc không có đủ tiền thì vẫn có thể áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm nếu người đại diện hợp pháp có khả năng tài chính…
Để có thể bảo đảm một cách tốt nhất các quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được hiến định, đồng thời phát huy tính hiệu quả của biện pháp bảo lĩnh cần sửa đổi theo hướng chấp nhận cá nhân đứng ra nhận bảo lĩnh,[15] không quy định tổ chức đứng ra nhận bảo lĩnh. Tương tự, để phát huy tính hiệu quả của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm cần sửa theo hướng chỉ quy định đặt tiền, không quy định đặt tài sản để nhanh chóng áp dụng biện pháp này, giảm các thủ tục xác minh, định giá tài sản.[16] Cần quy định rõ các trường hợp không được áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo, đó là: bị can, bị cáo phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình, tội phạm chiến tranh; bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Đây là cơ sở đảm bảo cho việc xác định quyền con người, quyền cơ bản của công dân của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn sẽ rõ ràng, rành mạch và công khai hơn.
Theo luật nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, quyền tiếp cận thông tin thường bao gồm ba quyền phái sinh là: quyền được thông tin, quyền được tìm kiếm thông tin, quyền được phổ biến thông tin.[17] Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định về quyền được tìm kiếm thông tin của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS để bảo đảm đầy đủ quyền tiếp cận thông tin, trên cơ sở đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Để có thể hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đồng thời vẫn đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều trong BLTTHS năm 2003. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tách quy định việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82 BLTTHS năm 2003) thành 02 điều luật về bắt người phạm tội quả tang (Điều 98 Dự thảo BLTTHS (bản ngày 11/8/2015)[18]) và điều luật về bắt người đang bị truy nã (Điều 99 Dự thảo BLTTHS (bản ngày 11/8/2015)), vì đối tượng, thủ tục áp dụng, những việc cần làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong hai trường hợp này không giống nhau.
Thực tiễn áp dụng BLTTHS năm 2003 cho thấy, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt nên chưa tham gia tố tụng hình sự với tư cách là bị can, bị cáo. Còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã là người đã có các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát hoặc Tòa án đối với họ (khởi tố bị can, truy tố bị can, đưa vụ án ra xét xử). Người đang bị truy nã là người đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành án phạt tù thì bỏ trốn mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã.
Nhằm đảm bảo tính khoa học về mặt kỹ thuật lập pháp, đồng thời góp phần hạn chế được những thiếu sót khi áp dụng BLTTHS, đề nghị bổ sung cụm từ “Có thể tiến hành khám người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang mà không cần có lệnh khi có căn cứ để khẳng định trong người bị bắt còn cất giấu vũ khí, hung khí, chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội” vào khoản 1 Điều 101 Dự thảo BLTTHS (bản ngày 11.8.2015)[19]để thống nhất với quy định về việc khám xét người, đảm bảo chặt chẽ theo trình tự, thủ tục luật định nhằm bảo đảm quyền con người.
Thứ hai, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 97 Dự thảo BLTTHS (bản ngày 11.8.2015)[20] căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp “Khi người thực hiện tội phạm định tự sát” nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; đồng thời góp phần bảo vệ quyền sống của con người.
Thứ ba, về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam (Điều 106 Dự thảo BLTTHS) đề nghị cần cụ thể hóa căn cứ “có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003 để cụ thể hóa căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng. Theo đó, căn cứ này cần được quy định rõ như điểm đ khoản 2 Điều 106 Dự thảo BLTTHS: “Mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này”. Đồng thời, cần bổ sung vào khoản 2 Điều này tình tiết “khi chứng cứ, tài liệu về vụ án cho thấy bị can, bị cáo có thể bị xử theo khung hình phạt từ tù có thời hạn trở lên”; vì không có căn cứ để tính một ngày tạm giam bằng mấy ngày cải tạo không giam giữ hoặc bằng bao nhiêu tiền. Theo đó, khoản 2 Điều 106 Dự thảo BLTTHS quy định như sau: “Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm khi chứng cứ, tài liệu về vụ án cho thấy bị can, bị cáo có thể bị xử theo khung hình phạt từ tù có thời hạn trở lên và có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau:…”.
Thực tiễn tố tụng hình sự những năm qua cho thấy còn xảy ra nhiều trường hợp trên người từ 70 tuổi trở lên còn phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, giết người, hiếp dâm. Vì vậy, chúng tôi cho rằng phải gắn quy định “không áp dụng tạm giam đối với người từ 70 tuổi trở lên” với điều kiện họ là người già yếu và có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Theo đó, điểm c khoản 4 Điều 106 Dự thảo BLTTHS (bản ngày 11.8.2015) phải ghi là: Người già yếu, có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng.
Về thời hạn tạm giam, chúng tôi đề nghị tiếp tục kế thừa quy định hiện hành về thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cáo về các loại tội phạm và nhất trí với quy định tại Điều 178 Dự thảo BLTTHS (bản ngày 11/8/2015). Vì tạm giam là biện pháp ngăn chặn việc tiếp tục phạm tội, đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Quy hiện hành về thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cáo đều ghi rõ “không quá 02 tháng…”, “không quá 03 tháng…”, “không quá 04 tháng…”. Quy định trên đã thể hiện rõ, nhà làm luật đã cân nhắc kỹ lưỡng giữa yêu cầu đảm bảo quyền con người, quyền công dân và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trên thực tế, có tình trạng chưa quan tâm đến việc rút ngắn thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng là do nhận thức chủ quan của các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, mà không phải do quy định của BLTTHS năm 2003./.
CHÚ THÍCH
[1] Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định về cấm truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân (Điều 71). Quy định như vậy là chưa đủ rõ, trong khi đây là một quy định được nhấn mạnh trong Công ước về các quyền dân sự, chính trị (Điều 7), đồng thời là một quy tắc quốc tế, ràng buộc mọi quốc gia. Quy định về vấn đề này đã được đề cập trong hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Hiến pháp 1946 của nước ta (Điều 68).
[2] Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định công dân “có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013, ở Điều 25, thay chữ “được” bằng cụm từ “tiếp cận”.
[3] Hội đồng lý luận Trung ương, “Những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn về quyền con người qua gần 30 năm đổi mới”, Tạp chi Báo cáo viên, số tháng 6/2015, tr. 62.
[4] Xem Quốc hội, Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2007, tr. 63.
[5] Học viện Cảnh sát nhân dân, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Chương trình đào tạo Cao học và trên đại học), Hà Nội, năm 2002, tr. 124.
[6] XemTrường Đại học Luật Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 1999, tr. 39.
[7] Bởi theo Hiến pháp năm 1992, trong thời gian này người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn chỉ bị hạn chế quyền công dân.
[8] Xem Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 (Báo cáo số 11/BC-VKSTC), ngày 19/01/2015, Hà Nội, tr. 9
[9] Theo Báo cáo số 15/BC-VKSTC ngày 06/02/2011 của Viện trưởng VKSNDTC về công tác của ngành KSND nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII thì năm 2006, số bị bắt không đúng phải trả tự do chiếm tỷ lệ 5,28%. Theo báo cáo số 896/BC- UBTP13 ngày 11/10/2012 của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về Kết quả giám sát việc chấp hành pháp luật tố tụng hình sự trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, từ 01/10/2010 đến 30/4/2012 vẫn còn gần 4% số người bị bắt, tạm giữ không đủ căn cứ khởi tố hình sự. Vì vậy, tỷ lệ người bị bắt, tạm giữ không đủ căn cứ khởi tố hình sự tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao.
[10] Xem Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết thực tiễn 08 năm thi hành BLTTHS năm 2003 và đề xuất sửa đổi, bổ sung (Bản dự thảo), ngày 17/12/2012, Hà Nội, tr. 6.
[11] Xem Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 (Báo cáo số 11/BC-VKSTC), ngày 19/01/2015, Hà Nội, tr. 8-12; 15 – 16.
[12] Theo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tóm tắt Tổng kết thực tiễn 8 năm thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và một số ý kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật, Hà Nội, năm 2012, trang 1 và trang 2.
[13] Trên thực tế hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau về cơ sở pháp lý xác định quyền đề xuất thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật; quyền đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc một hoạt điều tracủa người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp.
[14] Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, văn kiện Đại hội lần thứ IX, X, XI của Đảng liên quan đến việc hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
[15] Việc bổ sung quy định này phải gắn với việc bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân đứng ra bảo lĩnh với tư cách là chủ thể tham gia tố tụng hình sự.
[16] Trên thực tế, quy định đặt tài sản để đảm bảo có thể là vàng, bạc, kim loại quý, đá quý, các chứng chỉ có giá được phép giao dịch… nên các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải dành nhiều thời xác minh, định giá tài sản trước khi quyết định áp dụng biện pháp này.
[17] Nguyễn Thanh Tuấn, Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Cộng sản điện tử,.http://tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/29480/Quyen-con-nguoi-quyen-cong-dan-trong-Hien-phap-nam-2013.aspx, cập nhật ngày 30/9/2014.
[18].Theo: http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=561&LanID=1121&TabIndex=1.
[19] Điều 101 về những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt.
[20] Điều 97 về bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Tác giả: Trần Ngọc Đức – PGS-TS, Phó Tổng biên tập Thường trực Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân, Trường ĐH Cảnh sát nhân dân.
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08(93)/2015 – 2015, Trang 32-38
Like Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời