Hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại
Xem thêm bài viết về “Người tố giác”
- Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
TÓM TẮT
Ở Việt Nam hiện nay hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại là một nhu cầu cấp thiết. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại; làm sáng tỏ những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật vả thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, quyền con người nói chung và quyền của người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong tố tụng hình sự nói riêng đã được thừa nhận một cách rộng rãi và được xem là giá trị chung của toàn nhân loại. Người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong tố tụng hình sự trước hết là một con người, một công dân do đó họ có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong tố tụng hình sự chính là bảo vệ các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của họ đã được ghi nhận trong các Công ước quốc tế.[1] Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con người đã được thế giới thừa nhận thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng. Trong đó, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định: “Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội”. Trong nhà nước pháp quyền, các quyền con người được pháp luật đảm bảo thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Ghi nhận và bảo vệ các quyền con người là biểu hiện của một nhà nước nhân bản, tiến bộ, dân chủ, văn minh. Bảo vệ quyền con người không chỉ là nội dung, bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.[2] Cho đến nay Việt Nam đã tham gia phần lớn các điều ước quốc tế về quyền con người và cam kết thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và thực tiễn. Quyền con người nói chung và quyền của người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại nói riêng được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra một bước đột phá trong tư duy nhà nước pháp quyền về tôn trọng và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013 các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo cũng như bảo vệ các quyền đó trên thực tiễn.[3] Hiến pháp năm 2013 đã tiếp thu những quy định của Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 và các Công ước quốc tế về Quyền dân sự và chính trị, kinh tế, văn hóa năm 1966 để quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp đầy đủ hơn. Đặc biệt việc hiến định quyền con người trong Hiến pháp đã tạo nền tảng pháp lý cao nhất để bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thực thi và bảo vệ có hiệu quả trên thực tế. Để góp phần đảm bảo thực thi và triển khai tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung và bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại nói riêng thì Việt Nam cần rà soát, nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại.
BLTTHS năm 2003 đã có những quy định nhằm bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại, những quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ các chủ thể này trên thực tiễn, thể hiện rõ sức mạnh và trách nhiệm của nhà nước với công dân, góp phần ngăn chặn, đầy lùi ý đồ cản trở, trả thù từ phía người phạm tội, các băng nhóm tội phạm. Tuy nhiên, các quy định của BLTTHS năm 2003 vẫn chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc mà chưa có một chế định cụ thể quy định về căn cứ bảo vệ, đối tượng, thẩm quyền, phạm vi, thủ tục bảo vệ để đảm bảo thực thi có hiệu quả việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại. Trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự vẫn có những trường hợp người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ bị trù dập, bị trả thù, bị đe dọa nhưng chưa được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ kịp thời, dẫn đến quyền và lợi ích của họ bị xâm hại. Từ những cơ sở trên, việc hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại là một nhu cầu cấp thiết hiện nay. Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong tố tụng hình sự xuất phát từ những nguyên tắc, những quy định đã được thừa nhận chung trên bình diện quốc tế như quyền sống, quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân; xuất phát từ cơ sở các nguyên tắc mà Hiến pháp năm 2013 đã quy định như tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của con người, của công dân, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của con người, của công dân, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, xuất phát từ thực trạng quy định của BLTTHS năm 2003 và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại.
Xem thêm bài viết về “Bị hại”
- Quyền buộc tội của người bị hại trong tố tụng hình sự – ThS. Nguyễn Đức Thái
- Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh
- Bị hại là gì? Quy định về bị hại trong tố tụng hình sự? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quyền riêng tư của người bị hại dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự – ThS. Nguyễn Thị Lộc
- Người bảo vệ quyền, lợi ích của bị hại, đương sự trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại
Theo quy định của pháp luật hình sự, việc tố giác tội phạm không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của công dân trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, nếu cá nhân không tố giác tội phạm hoặc che giấu tội phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo các trường hợp mà Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định, cụ thể: Điều 22 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định “người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại điều 313 của Bộ luật này”. Điều 21 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định “người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định”. Đồng thời, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự đối với người tố giác thì tố giác tội phạm cũng là nghĩa vụ của công dân trong đấu tranh, phòng ngừa chống tội phạm (Điều 25 BLTTHS năm 2003); đối với người làm chứng tham gia tố tụng và khai báo là nghĩa vụ của họ. Theo quy định tại Điều 55 BLTTHS năm 2003 thì người làm chứng phải có mặt theo giấy triệu tập, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị dẫn giải, người làm chứng có nghĩa vụ phải khai báo trung thực những thông tin mình biết để giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Người bị hại cũng có nghĩa vụ tham gia tố tụng và khai báo để giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự (Điều 51 BLTTHS năm 2003). Như vậy, người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại họ có trách nhiệm tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, họ có nghĩa vụ tham gia tố tụng để phối hợp, giúp đỡ cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Trong quá trình tham gia tố tụng họ có thể trở thành đối tượng tấn công của bọn phạm tội, họ có nguy cơ cao bị xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp. Vì vậy, BLTTHS năm 2003 cần phải quy định đầy đủ, chặt chẽ việc bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ để họ có thể thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng, góp phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án.
BLTTHS năm 2003 quy định công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đều bị xử lý theo pháp luật. Đồng thời, BLTTHS năm 2003 đã quy định nguyên tắc: “Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật” (Điều 7 BLTTHS năm 2003). Nguyên tắc cơ bản này sẽ chi phối, định hướng toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng chế định bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ. Nội dung của nguyên tắc này không chỉ khẳng định quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà còn xác định rõ trách nhiệm bảo vệ các quyền và lợi ích của người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự khi tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi, ích hợp pháp khác của người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác bị xâm hại hoặc đe dọa xâm hại thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải kịp thời quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ họ, loại trừ nguy cơ đe dọa và xử lý các hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó.
Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa đối với người làm chứng. Khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003 quy định người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng. Đồng thời khoản 5 Điều 211 BLTTHS năm 2003 quy định trong trường hợp cần thiết phải đảm bảo an toàn cho người làm chứng và người thân thích của họ, Hội đồng xét xử phải quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc này cũng được cụ thể hóa đối với người tố giác tội phạm tại Điều 103 khoản 3 BLTTHS năm 2003: “Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác tội phạm”.
Nếu so với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã có một bước tiến đáng kể khi lần đầu tiên quy định nguyên tắc bảo vệ người làm chứng, người bị hại, những người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ và nguyên tắc này cũng đã cụ thể hóa trong một số điều luật của BLTTHS năm 2003 nhằm bảo vệ người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại theo chúng tôi vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định như sau:
– Thứ nhất, tuy tại Điều 7 nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân có quy định người bị hại, người làm chứng và các chủ thể tham gia tố tụng khác bị đe dọa tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ nhưng trong quy định này không đề cập việc bảo vệ người tố giác tội phạm. BLTTHS năm 2003 cũng chưa xây dựng tư cách tố tụng cho người tố giác tội phạm và chưa quy định quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của chủ thể này. Đây là một điểm hạn chế trong quy định của BLTTHS năm 2003, vì người tố giác tội phạm có vai trò quan trọng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Họ là chủ thể cần được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình tố tụng hình sự.
– Thứ hai, Điều 7 BLTTHS năm 2003 đã khẳng định người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác nhưng nội dung của nguyên tắc này chưa được cụ thể hóa đầy đủ và hoàn thiện vào trong quy định về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, người bị hại. Cụ thể:
Đối với người làm chứng, mặc dù khoản 3 Điều 55 có quy định người làm chứng được quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác, tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 của nước ta mới chỉ dừng lại ở việc thừa nhận cho người làm chứng quyền yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng, điều luật này không quy định quyền của người làm chứng được yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ người thân thích của họ. Mặt khác, BLTTHS năm 2003 không quy định những biện pháp cụ thể, trình tự thủ tục áp dụng chúng và những bảo đảm kèm theo nên mới chỉ dừng lại ở dạng nguyên tắc chung, chưa phát huy được vai trò của nó trong thực tiễn xét xử.[4]
Đối với người bị hại, họ cũng cần được bảo vệ trước nguy cơ bị xâm hại từ phía bị can, bị cáo. Giống như người làm chứng, người bị hại cung cấp thông tin về vụ án giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Thế nhưng chỉ có người làm chứng được quyền “yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản cho họ khi bị đe dọa trong quá trình tham gia tố tụng”. Điều 51 BLTTHS năm 2003 không quy định cho họ được quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng hình sự bảo vệ tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản cho họ và người thân thích của họ khi bị đe dọa trong quá trình tham gia tố tụng[5]. Như vậy, quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo vệ người tố giác, người làm chứng và người bị hại mới chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc chung mà chưa được cụ thể hóa đầy đủ vào trong quy định về quyền và nghĩa vụ của họ.
– Thứ ba, BLTTHS năm 2003 thiếu những quy định cụ thể để tạo cơ chế bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Mặc dù nguyên tắc tại Điều 7 và các quy định tại khoản 3 Điều 58, khoản 3 Điều 103 và Điều 211 có quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại, tuy nhiên, luật chưa có quy định cụ thể về căn cứ áp dụng, đối tượng được bảo vệ, thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, các biện pháp bảo vệ, trình tự thủ tục áp dụng… nên các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều lúng túng và chưa có cơ sở pháp lý thống nhất để có thể áp dụng hiệu quả, tạo niềm tin cho những người tham gia tố tụng nói riêng và nhân dân nói chung để họ tích cực tham gia tố giác tội phạm, tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm. Bên cạnh các quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại như đã phân tích ở trên thì trong hệ thống pháp luật Việt Nam các quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại còn được quy định rải rác ở một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác như: Luật Công an nhân dân năm 2014; Luật An ninh quốc gia; Luật Phòng, chống ma túy năm 2000; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004; Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011.
Như vậy, BLTTHS năm 2003 và một số luật chuyên ngành đã có những quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại. Những văn bản pháp luật này đều khẳng định người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và người thân của họ được quyền bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản, đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại. Tuy nhiên, các quy định trong các văn bản luật này chỉ mới dừng lại ở nguyên tắc, mang tính chuyên ngành hoặc thiếu hướng dẫn cụ thể, nhất là về các biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, lực lượng tiến hành bảo vệ, kinh phí để bảo vệ…
Từ những hạn chế trong quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại dẫn đến thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2003 còn hạn chế. Từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến nay, những quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự chưa được thực hiện tốt trên thực tế vì thiếu văn bản hướng dẫn chi tiết. Sau khi thi hành được hơn mười năm, đến năm 2013 các cơ quan có thẩm quyền mới ban hành được văn bản hướng dẫn thi hành, mặc dù trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự đã xuất hiện rất nhiều tình huống cần phải áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ. Nhiều trường hợp người tố giác, người bị hại, nhân chứng bị mua chuộc, khống chế, người tố giác bị đe dọa, trả thù… song việc bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ chưa kịp thời và chưa theo một quy trình thống nhất. Trong thực tế sau khi thực hiện hành vi phạm tội những kẻ gây án thường đe dọa, khống chế thậm chí mua buộc người tố giác, người bị hại bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau. Trong nhiều trường hợp do bị trả thù nên người bị hại và những người khác không dám tố giác tội phạm, dẫn đến tình trạng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại, kỷ cương phép nước không được giữ vững.[6] Người làm chứng cũng là đối tượng có thể bị khống chế, đe dọa, cưỡng bức, mua chuộc hoặc tấn công từ phía người phạm tội và trong thực tiễn họ thường né tránh, không muốn ra làm chứng về những vấn đề họ biết liên quan đến vụ án hình sự.[7] Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là do quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến việc bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự chỉ mang tính nguyên tắc, chưa có cơ chế cụ thể để bảo vệ họ và cũng chưa xác định cụ thể trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ những người này nên việc triển khai thực hiện còn lúng túng, không có sự thống nhất. Người tố giác, người làm chứng, người bị hại còn chưa thực sự tin tưởng vào các cơ quan tiến hành tố tụng, cho nên có tâm lý lo sợ, không dám tố giác tội phạm, hoặc tham gia tố tụng không tích cực gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án hình sự.
Như vậy, mặc dù trong hệ thống pháp luật hiện hành đã có các quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại tuy nhiên các quy định đó lại nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật. Có thể nhận thấy các văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ có thể áp dụng trong từng lĩnh vực cụ thể chứ không thể áp dụng để bảo vệ người bị tố giác, người làm chứng, người bị hại trong tất cả các vụ án hình sự. Chính vì vậy, cần phải có một bộ khung pháp lý hoàn chỉnh để tạo cơ chế vững chắc cho việc bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại. Để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc đó thì các quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại cần phải được quy định đầy đủ, hoàn thiện trong BLTTHS năm 2003. BLTTHS năm 2003 cần có các quy định về đối tượng được bảo vệ, căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục cũng như chi phí cho việc áp dụng các biện pháp bảo vệ tố giác, người làm chứng người bị hại. BLTTHS năm 2003 quy định những vấn đề cơ bản về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại nói chung và người tham gia tố tụng nói riêng, sau đó các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn thi hành cần quy định và hướng dẫn cụ thể để áp dụng có hiệu quả các quy định này trên thực tế.
Xem thêm bài viết về “Người làm chứng”
- Quy định về Người làm chứng trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- So sánh “Hỏi cung bị can” và “Lấy lời khai người làm chứng” – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại
Bảo vệ quyền con người nói chung, của người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại nói riêng được thực hiện trong pháp luật tố tụng hình sự bằng các hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp quan trọng nhất là ban hành các quy định đúng đắn, hợp lý, khả thi trong pháp luật tố tụng hình sự và đảm bảo thực hiện các quy định đó trên thực tế.[8] Vì vậy, để góp phần bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại, đồng thời phát huy sức mạnh của toàn dân vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, rất cần xây dựng một chế định hoàn chỉnh về việc bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong BLTTHS năm 2003. Việc hoàn thiện chế định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong BLTTHS năm 2003 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức công tác bảo vệ, giúp cho người tố giác, người làm chứng, người bị hại không bị khống chế, bị đe dọa, trả thù, để họ có thái độ hợp tác tích cực, khai báo khách quan, trung thực và chính xác với các cơ quan tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung và bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ nói riêng. Hiện nay, Dự thảo BLTTHS sửa đổi đã được soạn thảo và trình xin ý kiến Quốc hội, dự kiến sẽ thông qua vào cuối năm 2015. Trong Dự thảo, sửa đổi những quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại đã được sửa đổi, bổ sung mang tính hoàn thiện hơn so với quy định của BLTTHS năm 2003, cụ thể:
Một là, Dự thảo đã quy định bổ sung tư cách tham gia tố tụng cho người tố giác tội phạm và quy định cho họ quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ và người thân thích của họ (Điều 38 Dự thảo);
Hai là, quy định bổ sung cho người bị hại quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích khi bị đe dọa (Điều 44 Dự thảo);
Ba là, nếu như BLTTHS năm 2003 chỉ quy định cho người làm chứng được yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì Dự thảo đã bổ sung cho người làm chứng quyền yêu cầu cơ quan mời họ bảo vệ cả người thân thích của họ (Điều 48 Dự thảo);
Bốn là, Dự thảo đã bổ sung Chương XXXVI từ Điều 458 đến Điều 464 quy định về Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Trong đó, quy định cụ thể về trách nhiệm bảo vệ, người được bảo vệ, các biện pháp bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ, yêu cầu đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, chấm dứt việc bảo vệ, hồ sơ bảo vệ.
Nhìn chung, chúng tôi cho rằng việc quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác như trong Dự thảo nói trên là hợp lý, những bổ sung trong Dự thảo đã khắc phục được những hạn chế, thiếu sót trong quy định của BLTTHS năm 2003. Người tố giác, người làm chứng, người bị hại là những chủ thể tham gia tố tụng để giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, họ có nguy cơ cao bị xâm hại các quyền con người. BLTTHS năm 2003 quy định họ được bảo đảm các quyền trong quá trình tham gia tố tụng, được yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Vì vậy, việc bổ sung quy định về tư cách tố tụng cho người tố giác tội phạm, bổ sung và hoàn thiện quy định về quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ cho họ và bổ sung quy định về cơ chế bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác như trong Dự thảo BLTTHS là hoàn toàn phù hợp.
Mặc dù các quy định trong Dự thảo đã khắc phục được những hạn chế trong BLTTHS năm 2003 về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại, tuy nhiên, theo chúng tôi chế định bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong Dự thảo vẫn còn những điểm hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi cho hoàn thiện, cụ thể ở những nội dung sau:
Thứ nhất, vị trí của chế định bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác trong Dự thảo được quy định tại Chương XXXVI. Tuy nhiên, theo chúng tôi nên sắp xếp chế định này ngay sau chế định về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng như vậy sẽ đảm bảo tính logic trong quy định và tạo điều kiện dễ dàng cho việc tiếp cận quy định này. Mặt khác, việc đưa chế định này lên sau chương quy định về người tham gia tố tụng cũng nhằm đề cao việc bảo vệ quyền con người của những người tham gia tố tụng, tạo cơ chế thống nhất trong việc bảo vệ quyền con người của họ.
Thứ hai, cần mở rộng phạm vi các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ đối với người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ. Dự thảo BLTTHS sửa đổi khi quy định về các quyền của người tố giác, người làm chứng, người bị hại được yêu cầu bảo vệ chưa có sự nhất quán. Tại Điều 38 và 48 Dự thảo quy định người tố giác, người làm chứng được quyền yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ hoặc người thân thích của họ nhưng trong quy định về người bị hại tại Điều 44 thì chỉ quy định người bị hại được quyền yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của họ hoặc người thân thích của họ mà không quy định quyền yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác cho người bị hại và người thân của họ. Đồng thời, Điều 458 quy định về trách nhiệm bảo vệ cũng chỉ quy định cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo vệ người tham gia tố tụng và người thân thích của họ khi tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của những người này bị xâm hại hoặc đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, thông tin, tài liệu liên quan đến tội phạm mà không có quy định về việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của những người tham gia tố tụng và người thân thích của họ. Theo chúng tôi trong quá trình tham gia tố tụng người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ không chỉ bị đe dọa xâm hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản mà còn bị đe dọa xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho những người tham gia tố tụng, đồng thời tạo sự an tâm, tin tưởng cho những người tham gia tố tụng để họ tích cực tham gia tố giác tội phạm, cung cấp chứng cứ giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án thì Dự thảo BLTTHS cần quy định cho người tham gia tố tụng được yêu cầu bảo vệ cả đối với các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ và người thân thích của họ chứ không chỉ dừng lại ở việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản. Vì vậy cần bổ sung quyền được yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác cho người bị hại tại Điều 44 và Điều 458 Dự thảo.
Thứ ba, Điều 461 Dự thảo có quy định về quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ nhưng theo chúng tôi không cần quy định quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ thành một điều luật riêng vì trong quá trình giải quyết vụ án khi áp dụng các biện pháp bảo vệ thì những người được bảo vệ chính là những người tham gia tố tụng và quyền, nghĩa vụ của họ đã được quy định trong chương về người tham gia tố tụng. Nếu lại quy định quyền và nghĩa vụ ở chương XXXVI về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác thì sẽ dẫn đến trùng lặp. Vì vậy, theo chúng tôi có thể nhập các quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ vào trong quy định về địa vị pháp lý của những người tham gia tố tụng mà không cần quy định riêng thành một điều luật về vấn đề này.
Thứ tư, cần bổ sung quy định theo đó nếu người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại để tương thích với các quy định khác trong BLTTHS năn 2003, đồng thời bảo vệ tốt nhất lợi ích của người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Trong Dự thảo sửa đổi tại Điều 462 không quy định quyền này cho người đại diện hợp pháp của người tố giác, người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác. Vì vậy, cần bổ sung quyền này cho người đại diện hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Thứ năm, bổ sung quy định về quyền đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ cho các cơ quan, tổ chức khác (ngoài cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) khi các cơ quan, tổ chức này tiếp nhận tố giác về tội phạm mà người tố giác yêu cầu bảo vệ và có căn cứ xác định người tố giác tội phạm hoặc người thân của họ bị đe dọa tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Trong BLTTHS năm 2003 (Điều 101) và Dự thảo (Điều 136 Dự thảo) đều có quy định các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm nhưng Điều 462, 463 của Dự thảo khi quy định về quyền đề nghị áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ thì chỉ quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án được quyền đề nghị Cơ quan điều tra cùng cấp áp dụng biện pháp bảo vệ mà không quy định các cơ quan, tổ chức khác khi tiếp nhận tố giác về tội phạm cũng có quyền đề nghị Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp bảo vệ người tố giác. Vì vậy, cần bổ sung quyền đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ người tố giác cho các cơ quan, tổ chức tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.
Thứ sáu, bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan được yêu cầu nhưng không áp dụng biện pháp bảo vệ hoặc áp dụng không kịp thời gây thiệt hại cho người tố giác, người làm chứng, người bị hại hoặc người thân thích của họ.
Thứ bảy, bên cạnh các quy định chung về bảo vệ người làm chứng, người bị hại, người làm chứng thì BLTTHS năm 2003 cần bổ sung các quy định riêng về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Đối với các đối tượng này cần có các quy định riêng để áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của họ. Đồng thời, tạo sự thống nhất trong các quy định của BLTTHS năm 2003 đối với đối tượng tham gia tố tụng là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2003”
- Bàn về một số vướng mắc trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về quyền kháng cáo – ThS. Lê Thị Thùy Dương
- Bàn về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 – ThS. Đinh Văn Đoàn
- Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo yêu cầu cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp 2013 – GS.TSKH. Đào Trí Úc
- Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
- Những quy định mới của Hiến pháp 2013 về quyền bào chữa và việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
CHÚ THÍCH
* TS, Trưởng Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
** ThS, giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Các Công ước quốc tế ghi nhận những nội dung liên quan đến bảo vệ quyền con người nói chung, quyền của người bị tố giác, người làm chứng, người bị hại trong tố tụng hình sự nói riêng như: Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công quốc tế về các Quyền kinh tế, văn hóa năm 1966; Tuyên ngôn về những Nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng quyền lực do Liên hợp quốc ban hành ngày 29/11/1985; Công ước chống tham những của Liên hợp quốc; Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về Chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử khác tàn bạo, vô nhân đạo hoặc nhục hình năm 1984…
[2] Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2010, tr. 97.
[3] Điều 14, Điều 19, Điều 20 và Điều 21 Hiến pháp năm 2013.
[4] Nguyễn Thái Phúc, “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong tố tụng hình sự,” Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3/2007, tr. 45.
[5] Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2010, tr. 158.
[6] Phạm Hồng Hải, Mô hình lý luận Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 41 & 42.
[7] Phạm Hồng Hải, Mô hình lý luận Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 42.
[8] Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, năm 2010, tr. 97, 98.
Tác giả: Võ Thị Kim Oanh* – Đinh Văn Đoàn** – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2015 (93)/2015 – 2015, Trang 39-46
Nguồn: Fanpage Luật sư Online