• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và trong pháp luật Việt Nam

Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và trong pháp luật Việt Nam

25/10/2021 25/10/2021 CTV. Nguyễn Thị Thanh Hân Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Quá trình soạn thảo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
  • 2. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
  • 3. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong pháp luật Việt Nam
  • CHÚ THÍCH

Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và trong pháp luật Việt Nam

Tác giả: Phạm Hữu Nghị [1]

TÓM TẮT

Sự kiện Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người vào tháng 12 năm 1948 là một sự kiện vĩ đại của nhân loại. Một trong những giá trị nổi bật của Tuyên ngôn là đã khẳng định mạnh mẽ nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử. Bài viết này khái lược quá trình soạn thảo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; phân tích các nội dung của nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; nêu sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và trong pháp luật Việt Nam

1. Quá trình soạn thảo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948

Điều 7 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 khẳng định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào như vậy”2.

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Quyền con người là gì? Đặc trưng và phân loại quyền con người
  • Nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
  • Những nguyên tắc hiến pháp của chế định quyền con người, quyền công dân
  • Nguyên tắc Paris 1993 và vấn đề thành lập cơ quan quốc gia về quyền con người ở Việt Nam hiện nay
  • Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
  • Hiến pháp 2013 và nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
  • Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người
  • Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
  • Lịch sử về chống tra tấn và cơ chế bảo đảm quyền của người bị buộc tội khỏi bị tra tấn trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người
  • Vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay

Để đi đến được ghi nhận chính thức trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử như trích dẫn trên đây, đã trải qua một quá trình soạn thảo, tranh luận, phản biện rất sôi động, lý thú, nhiều khi khá gay cấn. Đã có nhiều phiên họp của Ủy ban soạn thảo, Ủy ban nhân quyền, Đại hội đồng bàn về nguyên tắc này. Các quốc gia cũng đưa ra nhiều ý kiến bình luận, đóng góp. Trước các ý kiến sửa đổi phương án, chủ tọa các phiên họp đã lấy phiếu biểu quyết để quyết định có chấp nhận ý kiến nêu ra hay không.

Trong suốt quá trình soạn thảo, Điều 7 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được diễn đạt dưới nhiều hình thức và cũng có nhiều thay đổi. Việc nó có nằm trong Tuyên ngôn hay không, nếu có thì “bình đẳng” thật sự có nghĩa như thế nào, vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Vì thế, quá trình chuẩn bị soạn thảo còn nhiều điều không rõ ràng và cho đến nay ý nghĩa và phạm vi chính xác của những nguyên tắc mà điều khoản bảo vệ vẫn là vấn đề gây tranh cãi trong giới học giả, cụ thể là các khái niệm “bình đẳng trước pháp luật”, “được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng”, “bảo vệ chống lại phân biệt đối xử”3.

Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất đó là liệu “bình đẳng trước pháp luật” có được xếp vào cùng với nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử (Điều 2 đoạn 1) hay không; liệu “bình đẳng trước pháp luật” có liên kết chặt chẽ với khái niệm chung về không phân biệt đối xử mà hoàn toàn nằm trong điều khoản chung về không phân biệt đối xử hay không; hay liệu khái niệm “bình đẳng trước luật” có tạo nên một nguyên tắc riêng biệt, bổ sung vào nguyên tắc không phân biệt đối xử hay không? Trước hết, khái niệm không phân biệt đối xử rõ ràng phải mang đặc tính pháp lý bằng việc khẳng định rằng bình đẳng có nghĩa là “bình đẳng trước pháp luật”4.

Dự thảo đầu tiên của Bộ luật Nhân quyền Quốc tế do Ban thư ký đưa ra có câu: “Không ai phải chịu phân biệt đối xử bất kể về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hay niềm tin chính trị. Mọi người phải được hưởng quyền bình đẳng đầy đủ trước pháp luật như đã đề ra trong Bộ luật Nhân quyền này”. Ở thời điểm khởi đầu này, không phân biệt đối xử và bình đẳng trước pháp luật là hai khái niệm gắn liền với nhau.

Khái niệm bình đẳng trước pháp luật đã mang lại đặc tính pháp lý cho khái niệm không phân biệt đối xử5.

Tại kỳ họp thứ nhất, Ủy ban Soạn thảo đã đưa ra phương án sửa đổi như sau:

Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và sự tự do như quy định trong Tuyên ngôn này, không có bất kỳ sự phân biệt nào, chẳng hạn, về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay quan điểm khác, tình trạng tài sản, nguồn gốc dân tộc, xã hội.

Bản thảo Tuyên ngôn thế giới về quyền con người tiếp đó được đưa ra xem xét tại kỳ họp thứ hai của Ủy ban Nhân quyền họp từ ngày 02 đến 17/12/1947. Trong báo cáo trình lên Ủy ban, Nhóm Công tác về Tuyên ngôn đã đưa ra phương án:

1/ Mọi người đều được quyền hưởng tất cả các quyền và sự tự do như được quy định trong Tuyên ngôn này, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, tư tưởng chính trị, tình trạng tài sản, nguồn gốc dân tộc, xã hội.

2/ Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật bất kể địa vị hay chức vụ, và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử tùy tiện nào vi phạm Tuyên ngôn này. Từ đây, các cuộc tranh luận về thực chất bắt đầu trong toàn thể Ủy ban. Sau khi thảo luận, tranh luận, một phương án sửa đổi được đưa ra:

1/ Mọi người đều được quyền hưởng tất cả các quyền và tự do như được quy định trong Tuyên ngôn này, không phân biệt chủng tộc, bao gồm cả màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị và quan điểm khác, tình trạng tài sản, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội.

2/ Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật bất kể địa vị hay chức vụ, và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng chống lại sự phân biệt đối xử tùy tiện hoặc chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào mà vi phạm Tuyên ngôn này.

Tại kỳ họp thứ ba của Ủy ban Nhân quyền nhiều thành viên đã của Ủy ban như Pháp, Ấn Độ, Anh, Mỹ, Chi Lê, Trung Quốc, Lebanon, Nam Tư, Ghana, Hàn Quốc đã tham gia tranh luận, nêu ý kiến. Phiên bản cuối cùng của nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử được Ủy ban Nhân quyền đưa ra là:

Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và đều được hưởng sự bảo vệ bình đẳng của pháp luật mà không có bất kỳ phân biệt đối xử nào nhằm chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm Tuyên ngôn này và chống lại bất kỳ hành động xúi giục nào nhằm gây ra những phân biệt đối xử như vậy.

Phương án trên đây được đưa ra xem xét tại Ủy ban thứ ba của Đại hội đồng liên hợp quốc. Tại Ủy ban này, đại diện các nước Nam Phi, Mehico, Philippines, Hy Lạp, Úc, Anh, Venezuela nêu ra nhiều ý kiến tranh luận, góp ý. Thí dụ, đại diện của Úc đã đề xuất nên đưa cụm từ “và sự bảo vệ bình đẳng” vào sau cụm từ “sự bảo vệ của pháp luật” để bảo đảm tính minh bạch của quy định. Đề xuất của Úc đã được thông qua với 34 phiếu thuận, 1 phiếu chống và 2 phiếu trắng6. Ủy ban thứ ba đã bỏ phiếu (45 phiếu thuận, 1 phiếu chống, 8 phiếu trắng) cho phương án:

Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và đều được hưởng sự bảo vệ bình đẳng của pháp luật mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào và sự bảo vệ bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm Tuyên ngôn này và chống lại bất kỳ kích động phân biệt đối xử nào như vậy.

Với nội dung như trên (lúc đó là Điều 6) được đưa ra xem xét tại Tiểu ban số 4 của Ủy ban thứ ba. Tiểu ban số 4 của Ủy ban thứ ba được thành lập để xem xét tổng thể Tuyên ngôn thế giới về quyền con người chỉ dựa trên sự sắp xếp, tính tương thích, đồng nhất và văn phong. Tiểu ban đã lập ra nhóm ngôn ngữ gồm 5 thành viên, mỗi thành viên sử dụng một thứ tiếng chính thức để kiểm tra và bảo đảm sự tương ứng chính xác của văn bản trong năm ngôn ngôn ngữ chính thức tại Liên hợp quốc7. Đây là công việc rất cần thiết tạo ra một bước hoàn thiện quan trọng cho Điều 6. Phương án sau khi đã chỉnh sửa được thể hiện như sau:

Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm Tuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ kích động phân biệt đối xử nào như vậy. Cuối cùng, Dự thảo Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã được đưa ra phiên họp toàn thể của Đại hội đồng Liên hợp quốc vào ngày 10/12/1948. Điều 8 và Điều 9 (trong Dự thảo lúc đó) đã được đồng thuận thông qua nhưng được đánh số lại theo thứ tự thành Điều 7 và Điều 8 sau khi thông qua đề xuất của nước Anh xóa bỏ Điều 3 (“Các quyền đã được nêu ra trong Tuyên ngôn này áp dụng một cách bình đẳng đối với tất cả cư dân của các vùng lãnh thổ quản thác và tự trị”) và thay vào đó là bổ sung khoản 2 của Điều 2.

Do mối liên hệ về lịch sử soạn thảo của Điều 2 đoạn 1, Điều 7 và Điều 8, văn bản được ban hành như sau:

Điều 2, đoạn 1: Mỗi người đều có quyền được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu ra trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.

Điều 7: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào như vậy.

Điều 8: Mọi người đều có quyền được các tòa án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp công nhận.

2. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966

Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử được ghi nhận trong các Điều 1, 2, 6, 7, 8 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; các Điều 2, 3, 16 và 26 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.

Đây cũng chính là quyền bình đẳng trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử. Nó đã trở nguyên tắc cơ bản của luật nhân quyền quốc tế. Bởi vậy, có thể nói, nội dung của nguyên tắc này được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp trong tất cả các văn kiện quốc tế về quyền con người.

Nội dung của nguyên tắc bao gồm ba khía cạnh liên kết với nhau (mà đôi khi được đề cập như các quyền hàm chứa (unenumerated rights), đó là: (i) Không bị phân biệt đối xử, (ii) Được thừa nhận tư cách con người trước pháp luật, và (iii) Có vị thế bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng8.

Quy định về nguyên tắc – quyền quan trọng này đầu tiên được đề cập trong các Điều 1, 2, 6, 7, 8 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, sau đó, được tái khẳng định trong các Điều 2, 3, 16 và 26 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, cụ thể như sau:

Về khía cạnh thứ nhất, Điều 1 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người nêu rõ, mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền… Điều 2 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người quy định, mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do… mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.

Điều 2 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người cấm phân biệt đối xử dựa trên địa vị chính trị, pháp lý của quốc gia hoặc lãnh thổ, bất kể là lãnh thổ độc lập, uỷ trị, quản thác, chưa được tự quản hay đang phải chịu bất kỳ hạn chế nào khác về chủ quyền. Hai điều kể trên của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được nhắc lại và cụ thể hóa trong các Điều 2 và 3 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966. Theo Điều 2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 xác lập trách nhiệm: Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các quyền đã được công nhận trong Công ước mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác (Khoản 1).

Các Khoản 2 và 3 Điều 2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 ghi nhận nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp cần thiết… nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước và bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước đều nhận được các biện pháp khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành vi của những người thừa hành công vụ gây ra…

Điều 3 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 chú ý đến bình đẳng giữa nam và nữ, theo đó, các quốc gia thành viên Công ước cam kết bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị như Công ước đã quy định.

Về khía cạnh thứ hai, Điều 6 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người quy định: Mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi. Quy định này được tái khẳng định nguyên văn trong Điều 16 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.

Về khía cạnh thứ ba, Điều 7 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người khẳng định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào… Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người cụ thể hóa quy định ở Điều 7 bằng ghi nhận: Mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay pháp luật quy định.

Điều 26 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 tái khẳng định hai quy định kể trên của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, đồng thời nêu rõ, về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và bảo đảm cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác. Bên cạnh những khía cạnh đã nêu cụ thể trong các quy định ở, Ủy ban Nhân quyền (Human Rights Committee – cơ quan giám sát thực hiện Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc), trong Bình luận chung số 18 thông qua tại phiên họp lần thứ 37 năm 1989 của Ủy ban đã phân tích về ý nghĩa và nội hàm của quyền này một cách khá chi tiết. Ở đây xin tóm tắt những điểm chính như sau9:

Thứ nhất, không phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng đóng vai trò là cơ sở và nguyên tắc chung trong việc bảo vệ tất cả các quyền con người. Các quốc gia thành viên có trách nhiệm bảo đảm quyền này cho mọi người có mặt trên lãnh thổ nước mình, bất kể người đó là công dân nước mình, người không quốc tịch hay người nước ngoài, bất kể các yếu tố dân tộc, chủng tộc, quốc tịch, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, thành phần xã hội, tài sản hay bất kỳ yếu tố nào khác (đoạn 1).

Thứ hai, Điều 26 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, không chỉ cho phép tất cả mọi người có vị thế bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, mà còn nghiêm cấm các quốc gia thành viên ban hành bất kỳ quy định pháp luật nào có tính chất phân biệt đối xử (đoạn 1).

Thứ ba, quyền không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng phải được áp dụng trong mọi tình huống, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia được quy định ở Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (đoạn 2).

Thứ tư, quyền không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mang tính chất khái quát, thể hiện trong nhiều bối cảnh, có mối liên hệ với việc thực hiện các quyền con người khác, cụ thể như với quyền được bình đẳng trước tòa án (các Khoản 1 và 3 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966), quyền được tham gia vào đời sống của cộng đồng (Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm1966)… (đoạn 2).

Thứ năm, các quốc gia thành viên có quyền tự quyết định các biện pháp thích hợp để thực hiện quyền này, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cần phải có những hành động chủ động (ví dụ như: để bảo đảm sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm của vợ và chồng nêu trong Khoản 4 Điều 24 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966…) (đoạn 5).

Thứ sáu, trên thực tế Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, không đưa ra định nghĩa về sự phân biệt đối xử, tuy nhiên, theo Ủy ban Nhân quyền, thuật ngữ này được hiểu là bất kỳ sự phân biệt, loại bỏ, hạn chế hay thiên vị nào thực hiện dựa trên bất kỳ yếu tố nào như: chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay quan điểm khác, quốc tịch hay thành phần xã hội, tài sản, nguồn gốc hay các vị thế khác, mà có mục đích hoặc có tác động làm vô hiệu hóa hay làm suy giảm sự thừa nhận, thụ hưởng hay thực hiện các quyền và tự do của tất cả mọi người trên cơ sở bình đẳng (đoạn 7). Cũng theo Ủy ban, trong các bối cảnh có liên quan, các định nghĩa về sự phân biệt đối xử về chủng tộc nêu ở Điều 1 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc, và về phân biệt đối xử chống lại phụ nữ nêu ở Điều 1 Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ sẽ được áp dụng (đoạn 6).

Thứ bảy, quyền bình đẳng không có nghĩa là áp dụng một kiểu đối xử cho mọi đối tượng trong cùng một tình huống (tức cào bằng), và không phải mọi sự khác biệt về đối xử đều tạo nên sự phân biệt đối xử. Nếu sự đối xử khác biệt được xác định dựa trên các điều kiện hợp lý, khách quan và nhằm mục đích để đạt được sự bình đẳng thì không bị coi là trái với Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (các đoạn 10 và 13).

3. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong pháp luật Việt Nam

Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 2013 đều long trọng ghi nhận nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử.

Điều 6 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá. Theo Điều thứ 18 Hiến pháp năm 1946, tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền. Điều 22 Hiến pháp năm 1959 ghi nhận công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật. Trong lĩnh vực bầu cử, công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ hai mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và những người bị Toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử (Điều 23 Hiến pháp năm 1959). Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương (Điều 24 Hiến pháp năm 1959). Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định tại Điều 55: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó (Điều 56 Hiến pháp năm 1980)”.

Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận trong Điều 16 nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử với hai khoản: 1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Như vậy quyền bình đẳng trước pháp luật được thừa nhận cho tất cả mọi người đang có mặt trên lãnh thổ nước Việt Nam, không phân biệt có quốc tịch hay không có quốc tịch. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới (Khoản 1 Điều 26) và nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới (Khoản 3 Điều 26). Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn; hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau (Khoản 1 Điều 36).

Điều 35 Hiến pháp năm 2013 nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.

Nguyên tắc không chỉ được khẳng định trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hóa văn bản pháp luật chuyên ngành. Trong tư pháp hình sự, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trong quan hệ dân sự, tố tụng dân sự, nguyên tắc này được thể hiện trong Điều 8 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 8 Bộ luật tố tụng dân sự và một số điều luật khác có liên quan.

Trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, nguyên tắc này được quy định tại các Điều 2 Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, theo đó, mọi công dân đều bình đẳng về các quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong quan hệ gia đình, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong mọi vấn đề trong quan hệ gia đình cũng như quyền bình đẳng giữa con trai, con gái… Trong quan hệ kinh doanh thương mại, Điều 5 của Luật doanh nghiệp năm 2014, Điều 10 Luật thương mại năm 2005 đều khẳng định địa vị pháp lý và nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp và các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt, về vấn đề giới, Quốc hội đã ban hành Luật bình đẳng giới năm 2006.

Việt Nam không những tuyên bố nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử mà còn luôn quan tâm tạo các điều kiện cần thiết để công dân được hưởng quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử. Có thể minh chứng từ lĩnh vực bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ; quyền của người khuyết tật và các đối tượng dễ bị tổn thương khác trong xã hội.

Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng xây dựng và phát triển các chính sách, chương trình nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, tạo điều kiện để đảm bảo quyền của phụ nữ. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy quyền phụ nữ như: xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới và không phân biệt đối xử theo quy định của Luật bình đẳng giới năm 2006 và Công ước CEDAW; lồng ghép bình đẳng giới trong việc xây dựng và thực thi pháp luật; ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Bộ luật lao động sửa đổi được Quốc hội thông qua tháng 6/2012 quy định tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành   6 tháng. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ. Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xoá bỏ bạo lực giới và bạo lực gia đình; khoảng cách giữa pháp luật và thực tiễn (việc làm, thu nhập, địa vị xã hội…). Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng; Thứ trưởng. Tỉ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm 2011, tỉ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỉ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%; 30,53% Thạc sỹ và 17,1% Tiến sỹ là nữ giới. Nỗ lực bảo đảm bình đằng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận: theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới (GII), Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010. Việt Nam nghiêm túc triển khai thực hiện Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) trên cả phương diện thúc đẩy hoàn thiện luật pháp và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tiễn.

Đối với người khuyết tật, chính sách chung của Nhà nước là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng về các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của họ để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Việt Nam đã ký Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2008 và hoàn thành thủ tục phê chuẩn trong năm 2014, cũng như đang nỗ lực xây dựng và hoàn thiện luật pháp, chính sách nhằm thúc đẩy quyền của người khuyết tật. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Trợ giúp người khuyết tật giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020 nhằm đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết tật theo quy định của Luật người khuyết tật, đồng thời thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên trong Thập kỷ thứ II Thiên niên kỷ Biwako về người khuyết tật khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đề án chia làm 2 giai đoạn với những chỉ tiêu cụ thể nhằm thúc đẩy sự hòa nhập của người khuyết tật trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, lao động, xây dựng, giao thông, công nghệ thông tin, văn hóa, thể thao, pháp lý… Bên cạnh đó, Chính phủ cũng triển khai một loạt các chính sách trợ giúp người khuyết tật như đề án trợ giúp phục hồi chức năng cho người tâm thần; tham gia và thực hiện các sáng kiến của quốc tế và khu vực; tăng cường sự tham gia của người khuyết tật và bảo vệ quyền của người khuyết tật; hỗ trợ thành lập các tổ chức tự lực của người khuyết tật; trợ giúp đào tạo nghề và tạo việc làm; cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng các công trình văn hoá, công cộng và các dịch vụ xã hội cơ bản khác của người khuyết tật.

Sự kiện Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tháng 12 năm 1948, trong đó có khẳng định mạnh mẽ nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử đã thể hiện sự thắng lợi của cuộc đấu tranh kiên trì, bền bỉ của cả nhân loại vì những giá trị cao cả của tự do, nhân phẩm và quyền con người.

Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới đều long trọng tuyên bố nguyên tắc này. Sau việc tuyên bố trong đạo luật cơ bản, công việc còn khó khăn hơn nhiều đó là thực hiện nguyên tắc bình đẳng, quyền bình đẳng trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử trong thực tiễn cuộc sống. Việt Nam đã và đang thực hiện tốt các cam kết quốc tế, trong đó có cam kết bảo đảm quyền bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội./.

CHÚ THÍCH

  1. Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
  2. All are equal before the law and are entitled without any discrimination to equal protection of the law. All are entitled to equal protection against any discrimination in violation of this Declaration and against any incitement to such discrimination.
  3. Cách viết lúc bấy giờ tập trung chủ yếu vào ý nghĩa và phạm vi của Điều 26 tương đương trong Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị.
  4. Thậm chí ngay cả trước khi Bộ luật nhân quyền quốc tế được quyết định là chỉ bao gồm Tuyên ngôn, hay công ước, hay cả hai (Xem tài liệu Liên Hợp Quốc E/CN.4/SR.25), nguyên tắc bình đẳng về các quyền và không phân biệt đối xử được nói đến trong các nghị quyết của Đại hội đồng, ví dụ Nghị quyết 44(1), 56(1), 96(1) và 103(1). G. Alfredsson và A. Eide (eds), Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, tr.153-186. © 1999 Kluwer Law International, in tại Hà Lan.
  5. Xem tài liệu Liên Hợp Quốc E/CN.4/AC.1/3, Phần phụ lục và bổ sung 1.
  6. Gudmundur Alfredsson và Asbjorn Eide (Chủ biên): Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948- Mục tiêu chung của nhân loại, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội- 2011, tr. 181.
  7. Gudmundur Alfredsson và Asbjorn Eide (Chủ biên): Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948- Mục tiêu chung của nhân loại, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội- 2011, tr.182.
  8. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội: Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 191.
  9. Các bình luận chung của Ủy ban Nhân quyền HRC được trích ở đây là theo: http://www2. ohchr.org/english/bodies/hrc/comments.htm và theo cuốn Gudmundur Alfredsson và Asbjorn Eide (Chủ biên): Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948- Mục tiêu chung của nhân loại, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội- 2011, tr. 185- 189.
Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
Nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Sự phát triển chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013
Sự phát triển chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013
Quyền và nghĩa vụ của con người theo Hiến pháp 2013
Quyền và nghĩa vụ của con người theo Hiến pháp 2013
Những nguyên tắc hiến pháp của chế định quyền con người, quyền công dân
Những nguyên tắc hiến pháp của chế định quyền con người, quyền công dân
Quyền con người là gì? Đặc trưng và phân loại quyền con người
Quyền con người là gì? Đặc trưng và phân loại quyền con người

Chuyên mục: Hiến pháp Từ khóa: Bình đẳng/ Không phân biệt đối xử/ Nguyên tắc bình đẳng/ Quyền con người/ Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR)

Previous Post: « Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng cán bộ tư pháp địa phương bằng phương thức trực tuyến tại Học viện Tư pháp
Next Post: Chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật của Việt Nam và các nước khác trong ASEAN năm 2019 »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng