Mục lục
Quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong tố tụng hình sự – Quyền cơ bản của công dân, quyền của những người tham gia tố tụng
Xem thêm bài viết về “Quyền miễn trừ“,
- Nội luật hóa quy định của các điều ước quốc tế về quyền miễn trừ trong Luật hình sự Việt Nam – ThS. Vũ Thị Thúy
1. Đặt vấn đề
Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam qua các thời kỳ đã thể chế hóa nhiều quyền cơ bản của những người tham gia tố tụng trong lĩnh vực tư pháp hình sự như quyền bào chữa và đảm bảo quyền bào chữa, quyền được suy đoán vô tội, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được bồi thường do bị oan… Những quyền tố tụng cơ bản này đã thực sự góp phần bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam trong nhiều năm qua, đồng thời đó cũng là những quyền pháp lý rất cơ bản đảm bảo hoàn thiện mô hình TTHS nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS chưa được ghi nhận trong Hiến pháp, còn BLTTHS thì có ghi nhận nhưng chưa đầy đủ, cụ thể.
Với thực trạng pháp luật như vậy, việc nhận thức về quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS còn rất hạn chế, việc áp dụng pháp luật tố tụng để bảo vệ quyền con người còn bất cập, tình trạng lạm dụng quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, bức cung hoặc buộc phải khai báo trong TTHS còn diễn ra. Về phía những người tham gia tố tụng hầu như không nhận thức rõ khai báo là quyền hay nghĩa vụ và nếu là nghĩa vụ thì có những giới hạn (được miễn trừ) nào không, bởi pháp luật không quy định cụ thể nên người tiến hành tố tụng cũng không giải thích đầy đủ. Những người tham gia tố tụng không biết cách bảo vệ quyền, lợi ích của mình trong tương quan với lợi ích chung cần bảo vệ khi vụ án hình sự được giải quyết. Hay nói cách khác, sự thiếu sót của pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm quyền con người trong TTHS. Tình trạng này đòi hỏi phải được hạn chế và loại trừ, mà một trong những điều kiện đó là cần quy định đầy đủ, rõ ràng quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong Hiến pháp và BLTTHS.
Xem thêm bài viết về “Quyền công dân”
- Những nội dung mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong tố tụng hình sự – TS. Hoàng Anh Tuyên
- Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
- Bảo vệ quyền đảm bảo bí mật, an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam – ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
- Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
- Vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay – ThS. Lê Ngọc Duy
2. Khái niệm khai báo trong tố tụng hình sự
Theo ngôn ngữ thông thường, “khai” là nói hoặc viết ra cho biết rõ điều cần biết về mình hoặc điều mình biết theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân có trách nhiệm. “Khai báo” là khai với cơ quan có thẩm quyền những việc có liên quan đến mình hay những việc mình biết[1]. Về phương diện pháp lý, BLTTHS có quy định về khai báo, nghĩa vụ khai báo và người có nghĩa vụ khai báo trong TTHS. Tuy nhiên, BLTTHS lại không giải thích thế nào là khai báo. Có sự khác nhau nào giữa khai báo với các hình thức cung cấp thông tin khác (tố giác, tự thú, phát biểu, tranh luận …) không? Trên cơ sở nhận thức khai báo được quy định trong BLTTHS cần tiếp tục làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ khai báo của chủ thể cũng như vai trò của khai báo trong TTHS.
Về khai báo trong TTHS cũng cần thừa nhận sự giống và khác nhau về ngữ nghĩa giữa “khai báo” với “trình bày lời khai”. Thật ra, trình bày lời khai cũng là khai báo nhưng khai báo không chỉ là trình bày lời khai trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung ở giai đoạn điều tra, xét hỏi tại phiên tòa mà còn trong các hoạt động đối chất, nhận dạng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Việc người tham gia tố tụng cung cấp thông tin trong hoạt động đối chất, nhận dạng cũng được coi là khai báo. Tương tự nhận thức về khai báo, BLTTHS cũng không đưa ra khái niệm pháp lý về lời khai. Ở góc độ khoa học, đã có sự giải thích về lời khai nói chung“là sự trình bày bằng miệng về những tình tiết có liên quan đến vụ án hình sự” của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự,… “được thực hiện trước cơ quan tiến hành tố tụng, theo thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định”[2]. Tuy nhiên, nếu hiểu lời khai chỉ là sự trình bày bằng miệng (lời nói) là chưa đủ. Lời khai còn được thực hiện bằng hình thức viết (bản tự khai). Trong BLTTHS Liên bang Nga có sự giải thích về lời khai: “lời khai… là những thông tin do họ (như bị can, bị cáo, người bị hại, … ) đưa ra khi lấy lời khai…” (Điều 76, 77, 78, 79 BLTTHS Liên Bang Nga).
Khai báo cũng tương đồng ngữ nghĩa với “làm chứng”. “Làm chứng” là động từ cũng có nghĩa như “khai báo” hay trình bày “lời khai”. “Làm chứng” trong trường hợp này không chỉ có nghĩa lời khai của người làm chứng mà còn là lời khai của bị can, bị cáo, người bị hại,… khi được yêu cầu khai báo. Pháp luật quốc tế [3] và Hiến pháp, pháp luật của nhiều nước[4] quy định không ai bị ép buộc làm chứng (khai) chống lại chính mình hoặc buộc tự thú là mình có tội.
Qua nghiên cứu các quy định của BLTTHS, chúng tôi nhận thấy khai báo trong TTHS có các đặc điểm sau đây:
– Khai báo được thực hiện trong các hoạt động điều tra (hỏi cung, lấy lời khai, xét hỏi, đối chất, nhận dạng). Vì vậy, thông tin khai báo là chứng cứ của vụ án hình sự.
– Khai báo là việc người tham gia tố tụng cung cấp thông tin về vụ án hình sự cho cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) theo yêu cầu của cơ quan THTT. Thông tin về vụ án là những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm tội phạm, người phạm tội, thiệt hại, tình tiết khác của vụ án[5]… Người không biết hoặc không có khả năng biết tội phạm hoặc biết nhưng không có khả năng khai báo đúng đắn không có nghĩa vụ khai báo. Hai là, khai báo được thực hiện theo yêu cầu của cơ quan THTT. Việc tố giác tội phạm hoặc đưa ra yêu cầu, phát biểu, tranh luận không phải là khai báo.
– Khai báo là quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Nếu là nghĩa vụ thì đó là nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước. Việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước là nhằm bảo vệ lợi ích chung, trong đó có lợi ích cá nhân. Nghĩa vụ khai báo cũng được tiếp cận ở khía cạnh đó.
Như vậy, khai báo trong TTHS là quyền và nghĩa vụ của một người có địa vị tố tụng cụ thể cung cấp thông tin về vụ án hình sự mà mình biết theo yêu cầu của cơ quan THTT thông qua các hoạt động điều tra nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan THTT thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự và phòng ngừa tội phạm.
3. Khái niệm miễn trừ nghĩa vụ khai báo và quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong tố tụng hình sự
Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm miễn trừ nghĩa vụ khai báo thì cần làm rõ khái niệm miễn trừ. Miễn trừ theo tiếng Latin là “immunitas” có nghĩa là loại trừ, miễn phải làm cái gì đó, việc gì đó [6]. Trong khoa học pháp lý quyền miễn trừ được giải thích là quyền đặc thù không phải tuân theo một số quy định chung của pháp luật dành cho những chủ thể nhất định hoặc cũng được hiểu là quyền bất khả xâm phạm, là tổng hợp quyền và những đặc quyền của một số chủ thể nhất định. Trước đây, quyền miễn trừ được hiểu theo theo nghĩa hẹp, tức là chỉ áp dụng cho nhóm chủ thể hạn chế là những người có chức quyền trong Nhà nước[7] như quyền miễn trừ ngoại giao, miễn trừ về lãnh sự đối với vấn đề trách nhiệm hình sự của nhân viên ngoại giao[8]; quyền miễn trừ Đại biểu Quốc hội đối với việc bắt, truy tố nếu không có sự đồng ý của Quốc hội[9]; quyền miễn trừ nghĩa vụ có mặt tại phiên tòa để lấy lời khai với tư cách người làm chứng của Tổng thống[10]; quyền miễn trừ tố tụng của Tổng thống[11] …Cùng với tiến trình phát triển dân chủ và bảo vệ quyền con người, quyền được miễn trừ không chỉ dành cho những người có vị trí đặc biệt trong Nhà nước mà được mở rộng áp dụng sang nhiều đối tượng khác, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, quyền được miễn trừ khai báo (làm chứng) được áp dụng đối với người bị buộc tội, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác được ghi nhận trong pháp luật quốc tế, Hiến pháp và pháp luật TTHS của các nước. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp, người làm chứng, người giám định được triệu tập đến Việt Nam không bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ hoặc bị điều tra, truy tố, xét xử vì một số hành vi được thực hiện trước khi đến Việt Nam[12].
Trong một nghiên cứu về dấu hiệu của quyền miễn trừ pháp lý nói chung và quyền miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS nói riêng, PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc lý giải[13]: quyền này tạo ra chế độ pháp lý đặc thù cho phép tối ưu hóa, cải thiện địa vị pháp lý của những chủ thể nhất định, mở rộng khả năng thỏa mãn những lợi ích nhất định cho các chủ thể; là một trong những công cụ pháp lý có khả năng tác động tới một hướng hành xử cụ thể và có vai trò là động cơ pháp lý tích cực cho hành xử của chủ thể; là bảo đảm cho những hoạt động xã hội có ích, góp phần thực hiện những nghĩa vụ nhất định; là những ngoại lệ đặc biệt, hợp lý nhất định được quy định bằng những quy phạm riêng của luật; quyền miễn trừ là hình thức đặc thù trật tự hóa các quan hệ xã hội nhất định. Nội dung của đặc quyền này là những bảo đảm và lợi thế bổ sung của chủ thể trong vấn đề truy cứu trách nhiệm pháp lý và trong thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định.
Như vậy, ta có thể hiểu quyền miễn trừ là những ưu đãi và đặc quyền pháp lý do luật định, cho phép những chủ thể nhất định không phải thực hiện những nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý nào đó để bảo đảm cho những chủ thể này thực hiện những chức năng của họ. Trong luật có nhiều cách phân loại quyền miễn trừ khác nhau dựa trên những tiêu chí nhất định và nhằm vào những mục đích nhất định. Một trong những hình thức của quyền miễn trừ tư pháp là quyền miễn trừ làm chứng, miễn trừ khai báo. Như vậy, nếu xét toàn bộ quá trình lịch sử thì ngày nay người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được miễn toàn bộ nghĩa vụ khai báo, đến mức khai báo chỉ còn là quyền.
Thứ hai, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS hay là miễn trừ làm chứng chống lại chính mình (không buộc phải làm chứng chống lại chính mình) được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế và Hiến pháp các quốc gia, trước hết và chủ yếu được áp dụng đối với người bị buộc tội. Như đã biết, ý nghĩa lịch sử của nó là chống lại tố tụng theo kiểu tra tấn của luật pháp phong kiến và bảo vệ người bị buộc tội. Nếu hiểu quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS chỉ áp dụng đối với người mà theo pháp luật hiện hành có nghĩa vụ khai báo nhưng được miễn khai báo vì lý do cá nhân (người làm chứng, người bị hại…) – tức là hiểu miễn trừ nghĩa vụ khai báo theo nghĩa hẹp – là không phù hợp với xuất xứ của quy định tiến bộ này trong pháp luật quốc tế và Hiến pháp của một số nước. Việc mở rộng đối tượng áp dụng quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo sang những người tham gia tố tụng khác chỉ là kết quả của sự phát triển trong nhận thức về quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo, đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người trong TTHS và sự bình đẳng về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong pháp luật TTHS hiện đại (ví dụ trong Hiến pháp và pháp luật TTHS Liên bang Nga hiện nay).
Nói tóm lại, miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS cần được hiểu theo nghĩa rộng mới hợp lý và đối tượng được hưởng quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo bao gồm người mà pháp luật quy định có quyền khai báo nhưng không quy định nghĩa vụ khai báo (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người có nghĩa vụ khai báo nhưng được miễn trừ nghĩa vụ trong một số trường hợp (người bị hại, người làm chứng,…) và người pháp luật quy định không được triệu tập để khai báo (người bào chữa của bị can, bị cáo…). Như vậy, miễn trừ nghĩa vụ khai báo cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm trường hợp không có nghĩa vụ khai báo, không được yêu cầu khai báo và có nghĩa vụ khai báo nhưng được miễn một phần trong một số trường hợp cụ thể. Quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo là quyền của người tham gia tố tụng không bị buộc phải khai báo trong những trường hợp đó. Điều kiện được miễn trừ nghĩa vụ khai báo bao gồm: lý do cá nhân (lợi ích, danh dự bị thiệt hại, đạo đức cá nhân bị tổn hại) và lý do nghề nghiệp đặc thù.
Từ những nhận thức như về quyền miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS, chúng tôi bàn thêm một số nội dung và đặc điểm của quyền này như sau:
Thứ nhất, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo là quyền không thực hiện nghĩa vụ khi lẽ ra họ phải có nghĩa vụ khai báo. Chi tiết hóa quyền này trong pháp luật TTHS, phù hợp với từng đối tượng được miễn trừ, pháp luật các nước thường quy định: quyền im lặng, quyền giữ im lặng, quyền từ chối khai báo, quyền không khai báo, quyền không bị buộc phải khai báo, quyền được miễn thực hiện nghĩa vụ khai báo.
Thứ hai, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo là đặc quyền TTHS. Nguyên tắc chung là những chủ thể biết về vụ án đều có nghĩa vụ khai báo vì lợi ích chung. Nghĩa vụ khai báo và miễn trừ nghĩa vụ khai báo đều được quy định trong pháp luật.Tuy nhiên, đối với một số chủ thể hoặc trong một số trường hợp cụ thể thì các chủ thể này luật quy định không có nghĩa vụ khai báo hoặc không phải thực hiện một phần nghĩa vụ khai báo với lý do chính đáng.
Thứ ba, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo là một bộ phận của nhóm quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự, là quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong một số trường hợp vì lý do cá nhân, đạo đức hoặc nghề nghiệp đặc thù. Đối với những chủ thể khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau có thể có những điều kiện và mức độ được hưởng quyền miễn trừ nghĩa vụ khai báo khác nhau.
Thứ tư, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo nhằm bảo vệ lợi ích của người khai báo, người thân thích của họ hoặc với lý do đạo đức, nghề nghiệp đặc thù. Vì thế quyền này thường xung đột với lợi ích chung cần được bảo vệ bằng hệ thống nghĩa vụ.
Như vậy, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS là những ưu đãi và đặc quyền pháp lý do pháp luật tố tụng hình sự quy định cho phép những chủ thể nhất định không có nghĩa vụ khai báo, được miễn một phần nghĩa vụ khai báo và không được yêu cầu khai báo.
Xem thêm bài viết về “Người tham gia tố tụng”
- Người tham gia tố tụng theo pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Trần Thảo
- Người tham gia tố tụng là gì? Phân loại người tham gia tố tụng hình sự? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
4. Chủ thể được miễn trừ nghĩa vụ khai báo và điều kiện được miễn trừ nghĩa vụ khai báo
Với quan niệm miễn trừ nghĩa vụ khai báo theo nghĩa rộng, suy ra những chủ thể được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS Việt Nam bao gồm:
Chủ thể được yêu cầu khai báo nhưng có quyền khai báo và quyền từ chối khai báo (không buộc phải có nghĩa vụ khai báo), bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Chủ thể có nghĩa vụ khai báo nhưng được miễn một phần nghĩa vụ khai báo nếu có lý do chính đáng, bao gồm người bị hại và người làm chứng. Những người tham gia tố tụng khác cũng thuộc nhóm này còn bao gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, BLTTHS Việt Nam chưa quy định trường hợp được miễn trừ nghĩa vụ khai báo của họ.
Chủ thể không được yêu cầu khai báo với tư cách là người làm chứng. Theo BLTTHS Việt Nam, đó là người bào chữa của bị can, bị cáo. Người này không được triệu tập khai báo với tư cách người làm chứng (điểm a khoản 2 Điều 55 BLTTHS) mặc dù họ có khả năng biết, khả năng khai báo đúng đắn và lẽ ra họ cũng bị buộc phải khai báo.
Tương ứng với từng chủ thể được miễn trừ nghĩa vụ khai báo có những điều kiện để được hưởng quyền miễn trừ nghĩa vụ khai báo như sau:
Một là, quyền miễn trừ nghĩa vụ khai báo vì lý do cá nhân. Lý do cá nhân bao gồm: lợi ích, danh dự cá nhân bị thiệt hại; đạo đức cá nhân bị tổn hại. Điều kiện này thích hợp với tất cả những người tham gia tố tụng, bao gồm: người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.
Đối với người bị buộc tội khả năng xung đột lợi ích cá nhân với lợi ích chung là rất lớn vì việc truy cứu trách nhiệm hình sự ảnh hưởng chủ yếu và trực tiếp đến lợi ích của họ. Vì vậy, trong mọi trường hợp, người bị buộc tội không bị buộc phải khai báo mà khai báo chỉ là quyền của họ.
Đối với người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không phải lúc nào nội dung yêu cầu khai báo cũng gây ra bất lợi cho chính họ hoặc người thân thích của họ. Trong số những nội dung yêu cầu khai báo có thể có nội dung có lợi cho họ (ví dụ, khai báo thiệt hại của người bị hại, khai báo quyền lợi của người có quyền lợi liên quan trong vụ án). Và cũng có những nội dung khai báo không ảnh hưởng đến lợi ích của người khai nhưng là chứng cứ để giải quyết vụ án (như lời khai của người làm chứng, người bị hại về hành vi phạm tội của bị can, bị cáo…). Với hai trường hợp đó, người được yêu cầu khai báo không được miễn thực hiện nghĩa vụ khai báo. Tuy nhiên, cũng có nội dung khai báo bất lợi cho người khai như phát hiện lỗi của người khai; cung cấp chứng cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chính người khai; khả năng phải chịu bồi thường (ví dụ, đối với bị đơn dân sự) hoặc không được hoặc được bồi thường ít hơn (người bị hại, nguyên đơn dân sự). Trong những trường hợp đó, người có nghĩa vụ khai báo có quyền được miễn trừ thực hiện nghĩa vụ khai báo. Có như vậy mới tạo ra cơ hội bình đẳng giữa các bên và đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người trong TTHS.
Lý do đạo đức cá nhân để được miễn trừ nghĩa vụ khai báo thường liên quan đến lợi ích của người thân thích. Phạm vi những người thân thích, người có lợi ích liên quan đến nội dung khai báo của người được yêu cầu cần phải được xác định rõ. Ý nghĩa của điều kiện về người thân thích chủ yếu phản ánh khía cạnh đạo đức trong mối quan hệ huyết thống, hôn nhân (kể cả vợ, chồng đã ly hôn)[14].
Đối với người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất không có khả năng nhận thức được các tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn, BLTTHS quy định họ không được làm chứng (điểm b khoản 2 Điều 55 BLTTHS) vì thông tin họ cung cấp (nếu có) không đảm bảo tính đúng đắn, khách quan. Vì thế, bị nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất không phải là điều kiện được miễn trừ nghĩa vụ khai báo và người có những nhược điểm này không phải là người được miễn trừ nghĩa vụ khai báo.
Hai là, miễn trừ nghĩa vụ khai báo vì lý do nghề nghiệp đặc thù. Với lý do này, hiện nay, BLTTHS năm 2003 chỉ quy định người bào chữa cho bị can, bị cáo không được làm chứng (điểm a khoản 2 Điều 55 BLTTHS). Thông tin mà người bào chữa biết được phải trong điều kiện thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho bị can, bị cáo chứ không phải mọi trường hợp. Với lý do biết được thông tin vụ án và khả năng khai báo đúng đắn nhưng vì lý do nghề nghiệp mà BLTTHS quy định họ không được làm chứng. Nói cách khác, không được triệu tập họ làm chứng để thực hiện nghĩa vụ khai báo như những người làm chứng khác. Người bào chữa chỉ được phép đưa ra những chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo. Họ không thể làm chứng vì nghĩa vụ của người làm chứng là phải khai báo trung thực những gì họ biết về vụ án, nghĩa vụ đó mâu thuẫn với nghĩa vụ của người bào chữa[15].
Ngoài người bào chữa, những nghề nghiệp đặc thù khác cũng nên được cân nhắc như điều kiện được miễn trừ nghĩa vụ khai báo (mặc dù BLTTHS chưa quy định) vì họ được tin tưởng cho biết thông tin về vụ án, biết được khi thực hiện công vụ, hoặc vì cần bảo vệ quy tắc, đạo đức nghề nghiệp… Ví dụ, cha cố (linh mục) biết được thông tin khi con chiên xưng tội, bác sỹ điều trị tâm lý cho bệnh nhân biết được thông tin vụ án do bệnh nhân tiết lộ liên quan đến bệnh lý, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đã tiến hành tố tụng đối với vụ án đó, nhân viên nhà nước quản lý thông tin bí mật quốc gia…
5. Vị trí, vai trò của quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong tố tụng hình sự
5.1. Quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong tố tụng hình sự – quyền cơ bản của công dân
Dưới chế độ phong kiến, vua là con trời được phép quyết định tất cả. Mặc dù có hệ thống pháp luật nhưng hệ thống này chỉ quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của các thần dân mà không hề có trách nhiệm của nhà vua. Giai cấp thống trị trước chủ nghĩa tư bản không bị ràng buộc bởi bất cứ một quy định pháp luật nào. Nó không quan tâm đến việc cải cách hệ thống pháp luật để đi đến chỗ hạn chế quyền lực của chính bản thân nó[16]. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, quyền lực gần như vô hạn của giai cấp thống trị cũng được thể hiện rõ ở mô hình tố tụng thẩm vấn thời kỳ phong kiến[17]. Nó đặt ra mục tiêu kiểm soát tội phạm bất chấp quyền con người. Người bị buộc tội bị buộc phải khai báo bằng việc sử dụng tra tấn (hình tấn) của cơ quan xét xử trong quá trình điều tra sự thật vụ án trong tố tụng thời kỳ phong kiến là minh chứng về sự vi phạm quyền cơ bản của con người. Trong hệ thống tố tụng đó, “hình tấn là cái đòn bẩy của toàn bộ hệ thống chứng cứ hình thức, toàn bộ trình tự tố tụng kiểu thẩm vấn hoặc trình tự điều tra”[18].
Luật về Nhân quyền (Bill of Rights, năm 1789) của Mỹ được phê chuẩn năm 1791, bổ sung (với mười bổ sung đầu tiên) Hiến pháp Mỹ (1787) đã giới hạn quyền lực của chính phủ liên bang Mỹ và bảo vệ quyền của tất cả công dân, người cư trú, lưu trú trên lãnh thổ Mỹ. Luật này bảo vệ nhiều quyền tự do của con người (như tự do ngôn luận, báo chí, tự do tôn giáo…), trong đó có cấm áp dụng hình phạt dã man, khác thường và chống tự buộc tội[19].
Để bảo vệ quyền con người trong TTHS, chống lại sự đối xử hà khắc, vi phạm quyền con người ở nhiều lĩnh vực, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948) quy định: “Không ai có thể bị tra tấn hoặc bị trừng phạt, đối xử vô nhân đạo, tàn bạo hay hạ thấp nhân phẩm” (Điều 5)[20]. Quy định này kêu gọi các nước bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm của con người, mà trước hết có tác dụng hạn chế lạm quyền của các cơ quan tư pháp vốn xảy ra phổ biến hơn so với các lĩnh vực khác. Bởi vì trong quá trình điều tra như hỏi cung, lấy lời khai, để đạt được lời thú tội dễ xảy ra tình trạng dùng nhục hình hoặc truy bức bị can.
Ngày nay, Hiến pháp các nước cũng ghi nhận quyền chống tự buộc tội hoặc từ chối khai báo chống lại chính mình cùng với quyền bất khả xâm phạm tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm qua việc cấm tra tấn, cưỡng bức khai báo trong lĩnh vực tư pháp hình sự cũng là nhằm bảo vệ quyền công dân, hạn chế quyền của cơ quan tố tụng. Có nghĩa là cơ quan tư pháp giải quyết vụ án hình sự với mục tiêu kiểm soát tội phạm nhưng đồng thời tôn trọng quyền hiến định của con người. Quyền của cơ quan tư pháp không phải là vô hạn mà bị giới hạn bởi các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS. Quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS đối với một số chủ thể, trong những trường hợp nhất định cũng góp phần loại trừ khả năng cơ quan THTT áp dụng các phương thức trái pháp luật để có được lời khai báo của những người tham gia tố tụng nói chung và người bị buộc tội nói riêng. Hiến pháp Nhật Bản[21] còn quy định: “Những lời thú tội vì ép buộc, tra tấn, đe dọa hay do thời gian giam cầm lâu không được coi là bằng chứng” (Điều 38). Hiến pháp 1992 của Việt Nam cũng quy định: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân” (Điều 71). Đó cũng là phương tiện để bảo vệ quyền không bị buộc phải khai báo một cách trái pháp luật trong TTHS.
Có thể nói, trong TTHS Việt Nam, quyền được miễn trừ khai báo đối với người bị buộc tội cần được coi là một trong những quyền cơ bản của con người, có vị trí, vai trò tương đương với quyền bào chữa, quyền được suy đoán vô tội… Đối với những người tham gia tố tụng khác như người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong những trường hợp nhất định cũng cần được coi là quyền cơ bản. Với vị trí, vai trò là quyền cơ bản, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS cần được quy định ở cấp độ Hiến pháp tại phần các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, giới hạn một phần quyền lực nhà nước trước yêu cầu kiểm soát tội phạm.
5.2. Quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong tố tụng hình sự – một quyền tố tụng cụ thể
Tiếp cận ở góc độ quyền tố tụng cụ thể, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo cần được quy định cụ thể trong BLTTHS và tại các điều luật về địa vị tố tụng của chủ thể đó. Tùy thuộc vào vị trí, vai trò của chủ thể mà BLTTHS quy định phạm vi, mức độ miễn trừ nghĩa vụ khai báo khác nhau. Đó có thể chỉ là quyền khai báo mà không còn nghĩa vụ, cũng có thể là nghĩa vụ khai báo nhưng được miễn trừ trong một số trường hợp nhất định.
Các cơ quan THTT có nghĩa vụ tôn trọng quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo của những người tham gia tố tụng và giải thích rõ nội dung của nó cho những người tham gia tố tụng trước khi tiến hành hỏi cung hoặc lấy lời khai, đối chất, nhận dạng. Các chủ thể có quyền sử dụng hoặc từ chối thực hiện các quyền đó và chấp nhận hậu quả của việc khai báo trên cơ sở giải thích, khuyến cáo của cơ quan THTT theo quy định của BLTTHS.
Với vai trò là quyền tố tụng cụ thể, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo đảm bảo hơn cho các chủ thể thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trong TTHS, đồng thời bảo vệ lợi ích, nhân phẩm, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp trong những trường hợp nhất định. Người bị buộc tội, bị đơn dân sự sẽ thực hiện chức năng bào chữa và bảo vệ quyền dân sự tốt hơn khi không buộc họ phải khai báo. Người bị hại, nguyên đơn dân sự sẽ thực hiện chức năng buộc tội (tư tố) và yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự tốt hơn khi không buộc họ thực hiện nghĩa vụ khai báo có nội dung chống lại chính mình và người thân thích. Người làm chứng cũng sẽ thực hiện chức năng hỗ trợ tư pháp hiệu quả hơn khi không buộc họ phải khai báo những nội dung thông tin có khả năng gây bất lợi cho chính mình và người thân thích. Nếu quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo càng được quy định cụ thể, rõ ràng thì việc thực hiện chức năng tố tụng, quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của chủ thể sẽ hiệu quả hơn.
Như vậy, quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS ở cấp độ quyền cơ bản và cấp độ quyền tố tụng cụ thể đã trở thành công cụ pháp lý góp phần bảo vệ quyền con người, đồng thời đảm bảo thực hiện chức năng, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng trong TTHS.
6. Kiến nghị bổ sung vào Hiến pháp 1992 quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong tố tụng hình sự và hoàn thiện BLTTHS năm 2003
Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (1946, 1959, 1980) và Hiến pháp năm 1992 chưa quy định quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Cụ thể đó là quyền không bị buộc phải khai báo chống lại chính mình hoặc tự thú mình có tội. Theo những tư liệu tham khảo thì quyền này xuất hiện từ rất sớm ở Mỹ (tu chính án thứ 5, được đề xuất năm 1789 và được phê chuẩn năm 1791) nhưng sau này đã trở thành chuẩn mực quốc tế [22]. Theo Hiến pháp và BLTTHS của Nga, BLTTHS của Đức, đối tượng được áp dụng quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo không chỉ được áp dụng đối với người bị buộc tội mà còn được áp dụng đối với những người tham gia tố tụng khác. Ở Việt Nam, tương tự như các nước phương Tây, chế độ phong kiến đã từng tồn tại hàng nhiều thế kỷ (kết thúc năm 1945) với một nền tư pháp hình sự hà khắc, ở đó quyền con người trong TTHS chưa được chú ý bảo vệ. Tình trạng dùng nhục hình để đạt được lời khai phù hợp với sự suy đoán có tội trong kiểu tố tụng xét hỏi đã tồn tại rất lâu trong lịch sử. Hiện nay, mặc dù đã có Hiến pháp và BLTTHS nhưng tình trạng lạm dụng quyền của cơ quan tư pháp, hạn chế quyền của công dân không phải đã được loại bỏ hoàn toàn. Việc không ghi nhận quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS chứng tỏ nhà làm luật chưa quan tâm đến ý nghĩa lịch sử của nó và bối cảnh ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, quyền con người trong tư pháp hình sự vẫn chưa được ghi nhận đầy đủ, chưa được bảo vệ triệt để trong tương quan với quyền lực nhà nước trước yêu cầu kiểm soát tội phạm.
Vì vậy với vị trí, vai trò là quyền cơn bản của công dân, chúng tôi đề nghị bổ sung vào Hiến pháp 1992 quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS (thuộc nhóm quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự) có nội dung như sau:
Điều…
1- Không ai bị buộc phải khai báo chống lại chính mình và người thân thích của mình trong vụ án hình sự. Người bị buộc tội không bị buộc phải thú tội.
2- Pháp luật có thể quy định những trường hợp khác không phải thực hiện nghĩa vụ khai báo theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Trên cơ sở quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo – quyền hiến định đã được đề nghị bổ sung, cần hoàn thiện BLTTHS năm 2003 theo hướng quy định bổ sung, sửa đổi chi tiết hơn một số quy định:
Bổ sung “quyền từ chối khai báo” và quyền được giải thích về hậu quả của việc khai báo đó của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Sửa đổi, bổ sung nghĩa vụ khai báo và lý do được miễn trừ nghĩa vụ khai báo của người bị hại. Cụ thể cần phải sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 51 BLTTHS như sau:
“Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; có nghĩa vụ khai báo trung thực, nếu từ chối khai báo có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp thông tin được yêu cầu khai báo gây bất lợi cho chính mình và người thân thích thì được quyền từ chối khai báo. Người bị hại phải giải thích lý do từ chối khai báo nếu có yêu cầu”.
Bổ sung điểm b khoản 4 Điều 55 BLTTHS về lý do được miễn trừ nghĩa vụ khai báo của người làm chứng.
Người làm chứng có quyền từ chối khai báo trong trường hợp thông tin được yêu cầu khai báo gây bất lợi cho chính mình và người thân thích. Người làm chứng là linh mục, bác sỹ tâm lý được tin tưởng cho biết thông tin vụ án cũng có quyền từ chối khai báo nếu việc khai báo vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc gây bất lợi cho người mà mình có nhiệm vụ giúp đỡ về tinh thần.
Người làm chứng phải giải thích lý do từ chối khai báo nếu có yêu cầu”.
Bổ sung đối tượng không được làm chứng tại khoản 2 Điều 55 BLTTHS, bao gồm: điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm đã từng tiến hành tố tụng đối với vụ án, biết được thông tin khi làm nhiệm vụ.
Bổ sung quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì lý do thông tin được yêu cầu khai báo gây bất lợi cho mình và người thân thích.
CHÚ THÍCH
* ThS Luật học, giảng viên khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 1996, tr. 471.
[2] Trần Quang Tiệp, Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003, Nxb CTQG, 2009, tr. 143-145.
[3] Ví dụ xem Điều 14 khoản 3 điểm g Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị của Liên Hợp Quốc năm 1966. Từ “làm chứng” hoặc “chứng minh” hay “khai báo” trong trong tiếng Việt được dịch từ tiếng Anh: testify (v), được áp dụng cho cả người bị buộc tội. Bản tiếng Anh của công ước trên xem http://www.lawphil.net/international/treaties/iccpr.html
[4] Ví dụ BLTTHS liên bang Nga sử dụng từ “làm chứng” cho cả người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, … (xem các Điều 42, 44, 54, 56,… BLTTHS Liên Bang Nga, Bản dịch tiếng Việt, Phụ trương Thông tin khoa học pháp lý, Viện Khoa học Kiểm sát, 2002).
[5] Xem Điều 63 BLTTHS.
[6] Xem Nguyễn Thái Phúc, Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý, số 3/2007.
[7] Xem Nguyễn Thái Phúc, chú dẫn số 6.
[8] Ví dụ theo BLHS Việt Nam, xem Điều 5.
[9] Ví dụ theo Hiến pháp 1992 của Việt Nam, xem Điều 99.
[10] Ví dụ, theo Điều 49 BLTTHS Đức quy định: Tổng thống liên bang sẽ được lấy lời khai tại nơi cư trú. Ông ta sẽ không bị triệu tập đến phiên xét xử chính thức. Biên bản lấy lời khai tổng thống của tòa án sẽ được đọc tại phiên xét xử chính thức.
[11] Xem Điều 22 Hiến pháp Singapore.
[12] Xem khoản 4 Điều 8 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.
[13] Xem Nguyễn Thái Phúc, chú dẫn số 6.
[14] Để thống nhất với luật hình sự (Điều 22 BLHS), có lẽ xác định phạm vi những người thân thích trước hết là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, để phù hợp với đạo đức xã hội cần mở rộng thêm đối tượng được coi là người thân thích như vợ hoặc chồng đã ly hôn mặc dù hôn nhân của họ đã được giải phóng về mặt pháp lý nhưng họ có mối quan hệ tình cảm, có mối quan hệ với con chung.
[15] Xem Trần Văn Độ, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011, tr. 82.
[16] Xem Nguyễn Đăng Dung, Luật Hiến pháp nước ngoài, Nxb Đồng Nai, 1997, tr. 23.
[17] Tố tụng thẩm vấn ra đời là sự kết hợp giữa các yếu tố của luật La Mã cổ đại với các nguyên tắc pháp lý của Giáo hội Thiên chúa giáo (xem Trần Đại Thắng, tài liệu đã dẫn (chú dẫn số 18)).
Theo các nhà nghiên cứu, Mô hình tố tụng thẩm vấn hình thành ở Tòa án Thiên Chúa giáo từ thế kỷ XIII và phát triển rộng rãi ở các nước Châu Âu lục địa (xem Nguyễn Đức Mai, Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam, Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 12/2009, tr. 2).
Các tài liệu khoa học khác còn cho biết, tố tụng thẩm vấn cổ lần đầu tiên hình thành ở thời kỳ đế chế La Mã (thế kỷ thứ I – thế kỷ IV), sau đó biến mất cùng với sự sụp đổ của đế chế La Mã vào thế kỷ thứ V, (xem William F. McDonald, Criminal Prosecution Rationalization of Criminal Justice. Final Report. National Institute of Justice, US. Department of Justice, 1991, tr. 36).
[18] Xem Ia Vư – Sin – Xky, Lý luận về chứng cứ tư pháp trong pháp luật Xô Viết, Phòng tuyên truyền – tập san – Tòa án nhân dân tối cao, 1967, (bản dịch tiếng Việt), tr. 134.
[19] Xem http://www.humanrights.com/what-are-human-rights/brief-history/declaration-of-independence.html và Hiến pháp Mỹ (1787) đã được bổ sung 10 tu chính án đầu tiên.
[20] Bản tiếng Việt, Tuyên ngôn thế giới và hai công ước 1966 về quyền con người, Trung tâm nghiên cứu quyền con người – Học viện Hành chính quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[21] Bản dịch tiếng Việt, Tuyển tập Hiến pháp của một số nước, Tài liệu tham khảo phục vụ sửa đổi Hiến pháp 1992, Văn phòng Quốc hội, Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học, Hà Nội (10/2011).
[22] Như đã dẫn ở phần trên, quy định này được thừa nhận trong Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị của Liên hợp Quốc (1966), Quy chế Rome (1998) và được quy định trong Hiến pháp của một số nước.
Tác giả: Lê Nguyên Thanh*
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 01/2013 (74)/ 2013 – 2013, Trang 16-24
nếu lập luận như bài viết, từ chối khai báo những tình tiết nếu liên quan đến thân thích, hay không phải đưa ra lời trình bày (khai, làm chứng) chống lại mình, có thể hiểu là, nếu hỏi thẳng về hành vi phạm tội, mà người được hỏi không trả lời thì đó là công nhận đã thực hiện hành vi phạm tội hay không? bởi lẽ nếu lời khai là chứng cứ gỡ tội chẳng việc gì không khai cả 🙂 như vậy có được sử dụng việc im lặng đó thành một chứng cứ để chứng minh về nội dung từ chối khai báo hay không?