Mục lục
Bàn về quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013 và vấn đề sửa đổi một số quy định liên quan trong BLTTHS năm 2003
TÓM TẮT
Quyền được suy đoán vô tội là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Thực hiện tốt quyền này chính là cách thức để người bị buộc tội có thể tự bảo vệ mình trong quá trình tham gia tố tụng. Tuy nhiên, sau 11 năm thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự, các quy định nhằm thực hiện quyền được suy đoán vô tội đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế. Hiến pháp năm 2013 được ban hành với những điểm mới về quyền được suy đoán vô tội đã trở thành cơ sở hiến định mới quan trọng và cũng là một yêu cầu cấp thiết đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền đặc biệt này.
Xem thêm:
- Bàn về quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 – TS. Võ Thị Kim Oanh
- Bàn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam trên nền tảng của nguyên tắc “Suy đoán vô tội” – TS. Hoàng Thị Tuệ Phương
- Nguyên tắc suy đoán vô tội và quyền được im lặng trong Tố tụng hình sự – Một số vấn đề đặt ra – ThS. Trịnh Tuấn Anh & ThS. Nguyễn Thị Thanh Nhã
- Trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị buộc tội trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Quyền im lặng của pháp nhân phạm tội trong tố tụng hình sự – ThS. Võ Minh Kỳ & ThS. Nguyễn Phương Anh
TỪ KHÓA: Góp ý sửa đổi Luật, Suy đoán vô tội,
1. Đặt vấn đề
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật. Ở bất cứ quốc gia nào hiến pháp cũng là đạo luật cơ bản, là giới hạn của quyền lực nhà nước, là cơ sở pháp lý cao nhất bảo đảm các quyền tự do cá nhân. Những quy định của hiến pháp đòi hỏi phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng quốc gia; định hướng cho phát triển của đất nước
Hiến pháp năm 2013 được thông qua tại kỳ họp thứ sáu – Quốc hội khóa XIII gồm 11 Chương, 120 Điều (giảm 1 Chương và 27 Điều so với Hiến pháp năm 1992) có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Đây là sự kiện chính trị – pháp lý quan trọng đánh dấu bước phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người; quy định về tổ chức bộ máy nhà nước; về vai trò của Nhà nước và kinh tế Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, điểm nhấn trong lần sửa đổi Hiến pháp này chính là việc ghi nhận và mở rộng hơn các quyền con người, quyền công dân, như GS. TS. Trần Ngọc Đường đã viết: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” có nhiều điểm mới về nhận thức và cách thức thể hiện(kỹ thuật lập hiến).[1]
Điều này đã thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ của Nhà nước ta, đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta tham gia ký kết. Đồng thời trong bối cảnh các nước trên thế giới đang ra sức ghi nhận và đảm bảo quyền con người, quyền công dân thì những quy định này cũng là phù hợp với yêu cầu chung đó.
Tư pháp hình sự là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, việc xâm phạm các quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự của công dân rất dễ dẫn đến xâm phạm các quyền tự nhiên của con người như quyền sống, quyền tự do đi lại… Hiến pháp năm 2013 đã thực sự chú trọng đến việc mở rộng và tạo cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự, cũng như bổ sung những quy định về tổ chức bộ máy, chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng… Đây chính là cơ sở pháp lý vững chắc nhất cho việc sửa đổi, bổ sung các văn bản luật chuyên ngành trong lĩnh vực tư pháp hình sự như Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân… nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp đang được đặt ra như một nhu cầu cấp thiết. Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả xin được bàn về quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013 và vấn đề sửa đổi một số quy định liên quan trong BLTTHS 2003
2. Nội dung
Quyền được suy đoán vô tội hay quyền “không ai bị coi là có tội” là một thành tựu của khoa học pháp lý hiện đại trên thế giới. Đối với hầu hết các quốc gia, quyền được suy đoán vô tội giữ một vị trí vô cùng quan trọng, định hướng cho toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Ở nước ta, mặc dù chưa được ghi nhận một cách chính thức, nhưng những tư tưởng, tinh thần về quyền được suy đoán vô tội đã bắt đầu từ rất lâu, và dần dần được hoàn thiện trong các bản hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 đến Hiến pháp năm 2013. Theo đó, quyền được suy đoán vô tội được quy định theo hướng càng ngày càng hoàn thiện hơn, thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về vấn đề quyền con người[2] . Tại Hiến pháp 2013, quyền này đã được ghi nhận hoàn chỉnh hơn tại Điều 31 “…Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật…”.Nội dung của quy định này về cơ bản đã giải quyết được những vấn đề phát sinh theo Hiến pháp năm 1992 trước đó.
Nếu trước đây, với cách quy định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”[3] thì vấn đề xác định chủ thể có quyền được suy đoán vô tội rất khó bởi “Không ai…”tức là tất cả mọi người, liệu rằng có phải tất cả mọi người đều phải có quyền này hay không. Những người luôn chấp hành pháp luật, không thực hiện hành vi phạm tội thì có cần đến bất kỳ sự suy đoán vô tội nào hay không hay chỉ những người bị buộc tội mới cần có quyền suy đoán vô tội. Việc quy định như trên làm cho chủ thể có quyền suy đoán vô tội quá rộng và không phù hợp với bản chất của vấn đề. Với Điều 31 Hiến pháp năm 2013, chủ thể có quyền được suy đoán vô tội đã được xác định một cách cụ thể và rõ ràng, đó chính là những “người bị buộc tội”. Đây là một quy định hợp lý về mặt lý luận, chỉ những người nào đang bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc tội mới cần đến quyền này; còn những người không vi phạm pháp luật, không thực hiện hành vi phạm tội thì đương nhiên không có tội mà không cần đến bất cứ sự “suy đoán”nào.
Một điểm mới nữa mà Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận, đó là: một người bị kết tội phải có 2 điều kiện: Một là, được chứng minh theo trình tự luật địnhvà hai là, có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa ánthay cho một điều kiện duy nhất theo Hiến pháp năm 1992 là “có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.Chính sự thay đổi này đã cho thấy, Hiến pháp năm 2013 có một sự tiến bộ vượt bậc, đã dự liệu được những trường hợp có người bị kết án oan, hay trong quá trình chứng minh người tiến hành tố tụng đã có những vi phạm nghiêm trọng các quy định về việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, làm cho các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng không mang tính chính xác (trong đó có cả bản án của Tòa án). Hiến pháp đã loại trừ những những người này ra khỏi“người bị kết tội và phải chịu hình phạt” mặc dù họ có “có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật”.
Bên cạnh đó, cách dùng thuật ngữ “người bị buộc tội” tại Điều 31, cũng thể hiện trình độ lập pháp cao. Bởi vì, Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là đạo luật gốc, vì vậy chỉ cần quy định khái quát, việc cụ thể hóa “người bị buộc tội” là ai đã có luật chuyên ngành làm rõ.
Với quy định mới này, quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội đã được quy định cụ thể hơn rất nhiều, đây chính là cơ chế đầu tiên đặt tiền đề cho việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, của người bị buộc tội; đây cũng là một quy định được đánh giá là đã tiệm cận với những quy định của các công ước về quyền con người mà nước ta đã ký kết và thừa nhận; là cơ sở pháp lý vững chắc cho những thay đổi, bổ sung các quy định có liên quan trong pháp luật tố tụng hình sự.
BLTTHS hiện hành có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2004, tại thời điểm đó Hiến pháp năm 1992 đang có hiệu lực thi hành. Quyền được suy đoán vô tội được luật chuyên ngành quy định khá tương tự với Hiến pháp năm 1992. Vì vậy, những điểm mới trong cách ghi nhận quyền được suy đoán vô tội trong bản Hiến pháp năm 2013 đã làm cho BLTTHS bộc lộ những điểm chưa thật sự hợp lý trong việc quy định quyền này. Tác giả xin chỉ ra một số điểm, đây cũng chính là những vấn đề cần được bổ sung, thay đổi trong lần sửa đổi BLTTHS lần này.
2.1. Chủ thể có quyền được suy đoán vô tội
Điều 9 BLTTHS Việt Nam năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
Mặc dù pháp luật hiện hành không hề quy định một chủ thể cụ thể nào có quyền được suy đoán vô tội nhưng thông qua nội dung của Điều 9 BLTTHS năm 2003, Nhà nước ta cũng đã quy định một cách gián tiếp chủ thể có quyền được suy đoán vô tội là bất cứ ai, không bị hạn chế bởi sự buộc tội từ phía nhà nước. Như vậy, BLTTHS năm 2003 cũng vấp phải một sai lầm tương tự Hiến pháp năm 1992, đó là việc ghi nhận cho tất cả mọi người đều có quyền này. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm tác giả, người có quyền suy đoán vô tội không thể là bất cứ người nào, mà người có quyền được suy đoán vô tội phải là người gắn liền với sự buộc tội của các cơ quan Nhà nước hoặc đang bị nghi ngờ là chủ thể thực hiện hành vi phạm tội; “công dân không bị buộc tội, không bị rắc rối về pháp luật thì họ luôn là người ngay thật mà không cần đến bất cứ sự suy đoán vô tội nào”[4] ,vì họ đương nhiên là người không có tội.
Chưa dừng lại ở đó, nếu việc ghi nhận cụm từ “người bị buộc tội”trong Hiến pháp 2013 là một sự hợp lý trong kỹ thuật lập pháp như đã phân tích thì việc tiếp tục ghi nhận toàn bộ nội dung cụm từ này trong BLTTHS sửa đổi, bổ sung sẽ là một điểm không hợp lý. Bởi vì, BLTTHS năm 2003 là luật chuyên ngành, những nhà làm luật cần phải cụ thể hóa, chỉ rõ ai là “người bị buộc tội”.Về vấn đề này, dựa vào địa vị pháp lý của những người tham gia tố tụng, theo quan điểm của nhóm tác giả, “người bị buộc tội” trong TTHS có thể được hiểu chính là bị can, bị cáo, và người bị tạm giữ.
“Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”[5] .Bị can là chủ thể đầu tiên có quyền được suy đoán vô tội vì họ là người đã có quyết định khởi tố bị can – quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự với những cáo buộc cụ thể, là người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra, truy tố. Kể từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự như áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tiến hành các hoạt động điều tra đối với bị can đó.
Bị cáo là người có quyết định đưa vụ án ra xét xử.[6] Cũng là một chủ thể bị buộc tội, bị cáo cũng có quyền được suy đoán vô tội bởi vì lúc này vẫn chưa có bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án đối với người đó, thậm chí khi đã có bản án kết tội mà bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật thì bị cáo vẫn còn nguyên quyền được suy đoán vô tội.
“Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”[7] .Tại thời điểm bị tạm giữ người này chưa nhận được bất kỳ lời buộc tội chính thức nào của cơ tiến hành tố tụng nhưng các căn cứ và các trường hợp tạm giữ được quy định tại Điều 48 BLTTHS năm 2003 (Bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, bị truy nã, tự thú, đầu thú) chính là những lời buộc tội một cách gián tiếp đối với người đó. Quyết định tạm giữ phải ghi lý do tạm giữ – tức là lời buộc tội gián tiếp – và người tạm giữ được biết lý do mình bị tạm giữ. (Điều 48 BLTTHS năm 2003, Điều 86 BLTTHS năm 2003). Khi hết hạn tạm giữ người bị tạm giữ hoặc được trả lại tự do hoặc bị khởi tố bị can (chính thức bị buộc tội). Do vậy, người tạm giữ cũng là chủ thể có quyền được suy đoán vô tội.
Có nhiều cơ chế để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế, trong đó vai trò quan trọng thuộc về phía các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng bởi lẽ chính những chủ thể này là những chủ thể nhân danh nhà nước giải quyết các vấn đề liên quan đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự để ra các phán quyết chính xác theo quy định của pháp luật và họ chính là những chủ thể có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền được suy đoán vô tội của những người bị buộc tội, phải luôn “suy đoán vô tội”,phải luôn xem “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”[8] để có những hành vi tố tụng cũng như thái độ phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
2.2. Nội dung của quyền được suy đoán vô tội
Điều 9 BLTTHS Việt Nam năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
Về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội, hiện đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, nhưng theo tác giả, nội dung của quyền này không chỉ dừng lại ở việc một người không bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực mà quyền này phải bao gồm những nội dung sau:
– Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không đồng nghĩa với người có tội hay người phạm tội. Bị can mới chỉ là người bị buộc tội về việc thực hiện những hành vi có dấu hiệu tội phạm, còn vấn đề xác định người đó có tội hay không, tại thời điểm khởi tố bị can chưa giải quyết được. Đương nhiên, bị can là người bị buộc tội, nhưng việc truy cứu trách nhiệm hình sự là một quá trình chứng minh phức tạp và việc khởi tố bị can chỉ mới là khởi đầu của quá trình này. Quá trình này có thể dẫn đến việc bị can phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc không tùy vào kết quả của hoạt động chứng minh.
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm được áp dụng đối với người phạm tội do luật hình sự quy định; trách nhiệm hình sự được thể hiện trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Bản án kết tội của Tòa án là cơ sở pháp lý quan trọng xác nhận một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm, chính thức “có tội” và phải chịu trách nhiệm trước nhà nước, trước xã hội. Điều đó có nghĩa, trách nhiệm hình sự bắt đầu từ khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, chứ không phải từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can, người bị tạm giữ hay bị cáo. Điều này cũng có nghĩa là thời điểm chấm dứt quyền được suy đoán vô tội là thời điểm người bị buộc tội bị Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án đó có hiệu lực pháp luật. Kể từ thời điểm đó, người bị Tòa án xét xử và kết án mới thực sự trở thành người có tội và bị đối xử với tư cách là người có tội. Nói một cách khác, người có tội bị loại ra khỏi phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội kể từ khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Vì thế, trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, bị can, bị cáo, người bị tạm giữ vẫn có đầy đủ các quyền công dân, các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo cho họ thực hiện đầy đủ những quyền này theo đúng quy định của pháp luật. Mặc khác, quá trình chứng minh đó phải tuân theo đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, các quy định về thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và phải luôn coi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người vô tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
– Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền, nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội.
“Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là những gì chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó, các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”[9] .
Đoạn 2 Điều 10 hay Điều 63 của BLTTHS năm 2003 hiện hành cũng đã thể hiện nội dung của quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội khi khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, không phải bị can, bị cáo, người bị tạm giữ. Cơ sở của việc khẳng định này xuất phát từ mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong tố tụng hình sự và trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo trật tự xã hội. Các cơ quan có trách nhiệm sử dụng những biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Việc chứng minh để tìm ra sự thật của vụ án được thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ở từng giai đoạn khác nhau, do yêu cầu, nhiệm vụ tố tụng cũng như chủ thể thực hiện khác nhau và đặc biệt là tính chất của từng giai đoạn tố tụng khác nhau nên việc xác định sự thật cũng có những biểu hiện khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình đó cần đặc biệt chú ý là hoạt động tố tụng phải dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo tính hợp pháp của hành vi và quyết định tố tụng. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội nên không chứng minh được tội phạm và người phạm tội thì đồng nghĩa rằng bị can, bị cáo không phạm tội.
Cùng với việc khẳng định nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật đồng thời cũng quy định “bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”[10] , điều này có nghĩa rằng bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Quyền chứng minh sự vô tội là một trong những quyền quan trọng của bị can, bị cáo. Cơ sở của việc thực hiện quyền này xuất phát từ nhiều lý do như ngay cả những cơ quan tiến hành tố tụng với điều kiện tốt nhất về con người, khoa học kỹ thuật được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước, trong nhiều trường hợp cũng gặp khó khăn trong việc chứng minh. Quyền của bị can, bị cáo là hoàn toàn mang tính chủ quan, họ có quyền sử dụng quyền này hoặc không là phụ thuộc vào ý chí của họ. Mặc khác, khi bị can, bị cáo có sử dụng quyền chứng minh mà không chứng minh được mình vô tội, tức bị can, bị cáo không đưa ra được hoặc không đưa ra đủ những chứng cứ chứng minh mình vô tội thì không phải vì thế mà coi họ đã phạm tội hoặc nếu bị can không đề xuất chứng cứ, không trả lời câu hỏi của bên buộc tội không có nghĩa là thừa nhận có tội. Một kết luận quan trọng có thể rút ra từ nguyên tắc suy đoán vô tội là “không chứng minh được sự vô tội của bị can, bị cáo không đồng nghĩa là tội của bị can, bị cáo đã được chứng minh”[11] .
Tuy nhiên, việc Điều 10 quy định chủ thể có quyền chứng minh là mình vô tội chỉ là “bị can, bị cáo” thì theo chúng tôi là chưa hợp lý bởi vì nó sẽ mâu thuẫn với chính nội dung của Điều 9; và theo phân tích ở trên thì chủ thể có quyền chứng minh rằng mình vô tội trong trường hợp này còn bao gồm cả người bị tạm giữ – là một trong những chủ thể bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Để thực hiện quyền chứng minh vô tội của người bị buộc tội, pháp luật hiện hành đã dành cho những chủ thể này nhiều quyền khác nhau như quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền được tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền lợi của mình; quyền được bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa, quyền trình bày lời khai… Nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng là phải đảm bảo cho họ thực hiện tốt nhất những quyền này. Tuy nhiên, việc ghi nhận bị can, bị cáo có quyền chứng minh mình vô tội mà lại không quy định cho phép những chủ thể này có quyền thu thập chứng cứ theo quan điểm của nhóm tác giả là không hợp lý, bởi lẽ chứng cứ là phương tiện chứng minh, nếu không cho quyền thu thập chứng cứ, bị can, bị cáo sẽ không có “công cụ” để chứng minh mình vô tội.
Mặc khác, nghiên cứu Điều 49, Điều 50 BLTTHS cho thấy, pháp luật hiện hành không trực tiếp quy định quyền được im lặng của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ. Tuy khai báo không phải là nghĩa vụ của những người bị buộc tội nhưng việc không quy định quyền im lặng của họ có thể sẽ dẫn đến việc cơ quan tiến hành tố tụng có hành vi cưỡng ép người bị buộc tội phải nhận tội, đẩy trách nhiệm chứng minh sang phía người bị buộc tội. Việc trực tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc tội trong BLTTHS là phù hợp với Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Điều 14): “Không ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại chính mình hay phải thú tội”. Như vậy, quyền được im lặng là quyền năng tố tụng rất quan trọng của người bị buộc tội, nó không chỉ được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế mà còn được ghi nhận trong pháp luật quốc gia của một số nước, chính vì vậy, một khi chúng ta thừa nhận quyền được suy đoán vô tội với một trong những nội dung quan trọng của nó là khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc về bên buộc tội thì không thể không ghi nhận quyền được im lặng của người bị buộc tội và quyền không phải đưa ra chứng cứ chống lại mình.
Như vậy, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền chứng minh mình vô tội. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền ngoài việc thu thập những chứng cứ buộc tội, còn phải thu thập cả những chứng cứ gỡ tội; đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, khách quan, tránh phiến diện, áp đặt ý chí chủ quan; đồng thời các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo cho bị can, bị cáo thực hiện tốt những quyền của mình nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan người vô tội.
– Mọi nghi ngờ về tội phạm của người bị buộc tội nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do luật quy định thì phải giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội
“Nghi ngờ là trạng thái cảm giác – tâm lý thiếu tự tin, lưỡng lự không nhất quán về sự đúng đắn hay không đúng đắn của một tình huống, giả thiết nào đó”[12] .Nguồn gốc nhận thức của trạng thái nghi ngờ là sự phản ánh không đầy đủ các tình tiết, khía cạnh, các mối liên hệ cần thiết để có được tri thức toàn diện, bản chất về sự vật, hiện tượng.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vẫn có những nghi ngờ không loại trừ được, đó là khi các cơ quan có thẩm quyền đã sử dụng hết những phương tiện, biện pháp điều tra xác minh mà pháp luật cho phép những vẫn không thu thập được những chứng cứ để có thể rút ra kết luận có tính khẳng định người bị buộc tội là chủ thể thực hiện hành vi phạm tội hoặc ngược lại. Trong những trường hợp như vậy, chúng ta cần suy đoán có lợi cho người bị buộc tội bởi lẽ theo chúng tôi nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, cho nên khi bên buộc tội không chứng minh được lỗi của bị can, bị cáo thì đương nhiên phần lợi thuộc về bị can, bị cáo. Còn nếu mọi sự nghi ngờ của bị can, bị cáo được giải thích theo hướng có lợi cho bên buộc tội thì đúng như quan điểm của nhà luật học người Nga V.M Xavitxki, mọi việc được đảo lộn từ chân lên đầu, từ suy đoán vô tội thành suy đoán có tội[13] .
Mặc khác, pháp luật luôn bảo vệ người yếu thế. Trong tố tụng hình sự, người yếu thế là người bị buộc tội phải đối mặt với cả bộ máy Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nên mọi nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ. Quy định này không chỉ đảm bảo quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, mà còn là động lực buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được sự thật khách quan của vụ án. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát khi thấy rằng các tình tiết của vụ án liên quan đến lỗi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn chưa rõ ràng, còn mâu thuẫn sẽ không được Tòa án chấp nhận khi xét xử thì họ phải tận dụng mọi khả năng do luật định để làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án ngay trong quá trình điều tra và trong trường hợp không đủ căn cứ, cơ sở để thực hiện việc truy tố thì xem như người bị buộc tội không có lỗi… Điều này áp dụng tương tự đối với cơ quan Tòa án, thông qua việc xem xét hồ sơ, đánh giá toàn bộ chứng cứ mà cơ quan điều tra cũng như Viện kiểm sát đã thu thập được, nếu không đủ cơ sở để kết luận bị cáo là người thực hiện phạm tội thì Tòa án phải tuyên bị cáo vô tội mặc dù niềm tin nội tâm cho thấy bị cáo chính là người thực hiện tội phạm.
Như vậy, nội dung của quyền được suy đoán vô tội hiện nay được quy định một cách rải rác trong các điều luật chứ không quy định cùng trong một điều luật cụ thể. Điều này theo quan điểm của nhóm tác giả là nên thay đổi, bởi quy định rải rác như vậy dễ dẫn đến một sự nhầm lẫn về cách hiểu nội dung của quyền này và thể hiện một trình độ lập pháp chưa thật sự hoàn hảo.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLTTHS về quyền được suy đoán vô tội
Công cuộc cải cách tư pháp đã và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng và quan tâm. Bên cạnh đó, việc ra đời của Hiến pháp năm 2013 cũng đã đặt ra một yêu cầu cấp bách về việc sửa đổi, bổ sung hàng loạt các văn bản luật chuyên ngành nhằm tạo sự thống nhất trong các quy định của pháp luật, và BLTTHS năm 2013 cũng không năm ngoài quy luật đó.
Qua việc phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về quyền suy đoán vô tội, nhóm tác giả đã chỉ ra được những điểm “chênh” so với Hiến pháp năm 2013 và những điểm còn chưa hợp lý trong quy định về quyền này trong BLTTHS năm 2003. Chính vì thế, việc sửa đổi, bổ sung quy định đó điều hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Nhóm tác giả xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần đổi tên của nguyên tắc được ghi nhận tại điều 9 BLTTHS “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”thành nguyên tắc “suy đoán vô tội”. Đây chính là sự khẳng định rõ ràng trong pháp luật chuyên ngành về quyền được suy đoán vô tội và là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền này.
Thứ hai, ghi nhận nguyên tắc “Suy đoán vô tội” với đầy đủ những nội dung sau để phù hợp với pháp luật quốc tế:
“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án;
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền chứng minh mình vô tội;
Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Thứ ba, luật tố tụng hình sự cần phải quy định bổ sung một số quyền cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội. Cụ thể:
+ Cần bổ sung quy định vềquyền được im lặngcủa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng hình sự. BLTTHS năm 2003 chưa quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền im lặng. Nhưng cũng không có điều luật nào cấm họ im lặng và áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người im lặng. Điều này đã tạo khoảng trống pháp lý, tạo cơ hội cho một số cơ quan tố tụng vận dụng sai nguyên tắc suy đoán vô tội, biểu hiện ở hành vi dùng nhục hình, mớm cung, ép cung thậm chí cho rằng bị cáo không khai báo là ngoan cố, chối tội và coi đây là cái cớ để tăng nặng hình phạt cho bị cáo. Quyền được im lặng của người bị buộc tội đã được thừa nhận trong tư pháp hình sự quốc tế, cụ thể: Điều 67 Công ước Roma về Quy chế Tòa án hình sự quốc tế đã quy định: Không bị buộc phải khai nhận tội và được giữ im lặng mà sự im lặng đó không bị coi là có một lý do để xác định bị cáo có tội hay vô tội. Vì vậy, việc ghi nhận quyền im lặng cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế.
+ Cùng với việc quy định quyền được im lặng cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì BLTTHS cũng cần quy định cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quyền được đưa ra chứng cứ. Tại các Điều 48, 49, 50 BLTTHS 2003 quy định về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cho thấy luật chỉ cho phép những người này đưara, hoặc thu thập tài liệu, đồ vậtmà không khẳng định những đồ vật, tài liệu này có phải là chứng cứ hay không? Quy định này thể hiện sự bất bình đẳng giữa bên gỡ tội và bên buộc tội và hạn chế quyền chứng minh sự vô tội của người bị buộc tội. Vì vậy, việc bổ sung vào BLTTHS quyền được đưa ra chứng cứ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là rất quan trọng, đảm bảo sự bình đẳng giữa bên gỡ tội với bên buộc tội.
Thứ tư, cần hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2003 về chế định chứng cứ. Cụ thể:
+ Tại Điều 64 BLTTHS năm 2003 quy định về định nghĩa chứng cứ như sau: “Chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự thủ tục bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà ándùng làm căn cứ xác định có hay không hành vi phạm tội …”.Với quy định này luật đã khẳng định việc thu thập chứng cứ và đánh giá một tài liệu, sự kiện, đồ vật nào đó có phải là chứng cứ hay không phụ thuộc vào ý chí của bên buộc tội gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc luật xếp Tòa án vào bên buộc tội mà không phải là một trọng tài với chức năng phân xử để đánh giá một tài liệu, sự kiện, đồ vật nào đó do các bên buộc tội và gỡ tội đưa ra có phải chứng cứ hay không sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khách quan trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng nếu vì lý do nào đó họ bỏ qua không ghi nhận và xem xét những tài liệu, đồ vật mà người bị buộc tội và người bào chữa cung cấp.
+ Bên cạnh đó, Điều 74 BLTTHS năm 2003 về vật chứng cũng cho thấy yếu tố buộc tội nhiều hơn gỡ tội khi quy định rằng vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội… cũng như các vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội. Như vậy, quy định này luật đã hạn chế vật chứng ở những vậtchứng minh tội phạm và người phạm tội. Còn những vật khác có liên quan đến vụ án, tồn tại khách quan có giá trị chứng minh sự vô tội của bị can, bị cáo thì không được luật quy định là vật chứng. Trong khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và có quyền đưa ra đồ vật để chứng minh sự vô tội của mình, người bào chữa có quyền đưa ra đồ vật để chứng minh sự vô tội cho người mà họ bảo vệ.
Từ việc phân tích những hạn chế ở trên, chúng tôi đề nghị cần phải sửa đổi quy định về chứng cứ tại khoản 1 Điều 64 như sau: Chứng cứ là những gì có thật, do các bên buộc tội và gỡ tội đưa ra có giá trị chứng minh có hay không có tội phạm, người phạm tội và các vấn đề khác của vụ án hình sự; sửa đổi quy định về vật chứng tại Điều 74 theo hướng: Vật chứng là những vật không chỉ để chứng minh tội phạm mà còn dùng để chứng minh bị can, bị cáo vô tội.
4. Kết luận
Sau hơn 21 năm đất nước ta đã có bản Hiến pháp mới, Hiến pháp của thời kỳ hội nhập, đổi mới và phát triển. Đây sẽ là một sự kiện chính trị – pháp lý của đất nước, đánh dấu một bước phát triển về mọi mặt. Hiến pháp này sẽ là nền tảng pháp lý quan trọng để xây dựng các luật điều chỉnh các lĩnh vực, quan hệ xã hội.
Việc ghi nhận, hoàn thiện quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội trong Hiến pháp đã tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc cho việc hoàn thiện quyền này trong B LTTHS năm 2003. Chính điều này đã tạo cơ chế cho việc thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền được suy đoán vô tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đáp ứng kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
CHÚ THÍCH
[1] GS.TS Trần Ngọc Đường “Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp 2013”http://baodientu.chinhphu.vn/Gop-y-Hien-ke/Quyen-con-nguoi-quyen-cong-dan-trong-Hien-phap-2013/191865.vgp.
[2] Hiến pháp năm 1946 ra đời với sự ghi nhận hàng loạt các quyền cơ bản của công dân, trong đó có một quyền đáng chú ý đó là: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm công dân Việt Nam” (Điều 11).
Cũng như Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 tiếp tục ghi nhận: “…không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân” (Điều 27).
Đến Hiến pháp 1980 thì quyền được suy đoán vô tội càng được quán triệt hơn khi quy định: “…Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt người phải theo đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình” (Điều 69).
[3] Điều 72 Hiến pháp năm 1992.
[4] Nguyễn Thái Phúc “Nguyên tắc suy đoán vô tội”, Tạp chíNhà nước và pháp luật, số 11/2006, tr. 72-83.
[5] Điều 49 BLTTHS năm 2003.
[6] Điều 50 BLTTHS năm 2003.
[7] Điều 48 BLTTHS năm 2003.
[8] Điều 9 BLTTHS năm 2003.
[9] Nguyễn Ngọc Chí “Một số vấn đề lý luận chuyên sâu về chứng minh và chứng cứ”, Tài liệu dùng cho học viên cao học khoa Luật, ĐH Luật Hà Nội.
[10] Đoạn 2 Điều 10 BLTTHS năm 2003.
[11] Xem: Nguyễn Thái Phúc, chú dẫn số 5, tr. 72-83.
[12] Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đoán vô tội, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội, 2011, tr. 59.
[13] Xem: Nguyễn Thái Phúc, chú dẫn số 5, tr. 72- 83.
Tác giả: TS. Võ Thị Kim Oanh, ThS. Lê Thị Thùy Dương
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2014 (84)/2014 – 2014, Trang 3-10
Like fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời