Mục lục
Một số điểm mới về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015
Xem thêm bài viết về “Chứng cứ”
- Cơ chế đánh giá chứng cứ trong trường hợp các kết luận giám định có kết quả khác nhau – PGS.TS. Trần Văn Độ
- Một số vấn đề về chứng cứ trong thủ tục giải quyết tranh chấp tại các cơ quan tài phán quốc tế – Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Trần Thăng Long
- Căn cứ hủy phán quyết trọng tài liên quan đến chứng cứ và sự khách quan của trọng tài viên trong tố tụng trọng tài – Bất cập và hướng hoàn thiện – ThS. Phan Thông Anh
- Phân loại chứng cứ và ý nghĩa của việc phân loại chứng cứ – LS. Nguyễn Lan Anh
- Các thuộc tính của chứng cứ trong khoa học hình sự – LS. Nguyễn Lan Anh
TÓM TẮT
Chứng cứ là một trong những chế định quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự và khoa học pháp lý không chỉ ở Việt Nam mà còn được thể hiện trong hầu hết hệ thống tư pháp hình sự trên thế giới. Để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ có giá trị chứng minh theo thủ tục do pháp luật quy định để xác định “có hành vi phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội…” dựa trên các thông tin, tài liệu đã được thu thập. Việc nghiên cứu về chứng cứ có ý nghĩa đặc biệt to lớn về mặt pháp lý cũng như trong lý luận, thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả bàn luận một số điểm mới về chứng cứ: khái niệm chứng cứ; chủ thể thu thập chứng cứ; hình thức thu thập chứng cứ; nguồn của chứng cứ trong các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua vào ngày 27/11/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Với sự chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung lần này BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế, thiếu sót trong các quy định về chứng cứ từ thực tiễn thi hành của BLTTHS năm 2003; tạo hành lang pháp lý cho quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ đồng thời góp phần điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc sửa đổi BLTTHS đã đánh dấu một bước tiến quan trọng về việc bảo đảm, nâng cao quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự phù hợp với quá trình triển khai, thi hành Hiến pháp năm 2013 và pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết, đặc biệt nhất là Công ước quốc tế Chống tra tấn (CAT).
1. Khái niệm về chứng cứ và các chủ thể có quyền thu thập chứng cứ
Trong quá trình chứng minh, để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, xác định sự thật khách quan của vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có đầy đủ các thông tin, tài liệu về tội phạm để chứng minh bản chất của sự việc phạm tội. Chứng cứ chính là phương tiện dùng để chứng minh, xác định các sự kiện có ý nghĩa cho quá trình giải quyết khách quan vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện, thu thập, ghi nhận, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, các cơ quan tiến hành tố tụng mới có được một bức tranh toàn diện về quá trình thực hiện hành vi phạm tội trong quá khứ và tái hiện được toàn bộ diễn biến của nó đã xảy ra, để thực hiện quyền buộc tội hoặc đưa ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo trước pháp luật. Như vậy, mọi giai đoạn tố tụng được mở ra hay kết thúc đều xuất phát từ chứng cứ; do đó, chứng cứ có vai trò hết sức quan trọng trong lý luận và thực tiễn của hoạt động tố tụng hình sự. Việc nhận thức đúng về chứng cứ sẽ là cơ sở định hướng đúng đắn cho quá trình giải quyết vụ án.
Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS năm 2015 “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo một trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Khái niệm về chứng cứ vẫn trên cơ sở, nền tảng của Điều 64 BLTTHS năm 2003, chứng cứ trước hết là những gì có thật và chỉ được sử dụng khi đảm bảo được những thuộc tính quan trọng đó là: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Tuy nhiên,để phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, khái niệm về chứng cứ trong quy định của BLTTHS năm 2015 đã không liệt kê trực tiếp những cơ quan tiến hành tố tụng nào được quyền thu thập chứng cứ để làm căn cứ xác định có hay không hành vi phạm tội như quy định của Điều 64 BLTTHS năm 2003.[1] BLTTHS năm 2015 quy định theo hướng không chỉ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được quyền thu thập chứng cứ mà người có thẩm quyền trong cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, người bào chữa cũng có quyền thu thập, sử dụng, cung cấp chứng cứ. Quy định này đã khắc phục một số bất cập trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 như: các thông tin, tài liệu mà các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (kiểm lâm, cảnh sát biển…) thu thập chưa được xem là “chứng cứ”, trong khi đó những cơ quan này lại có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can; người bào chữa chưa được phép thu thập chứng cứ mà chỉ có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo…[2]
BLTTHS năm 2015 quy định những chủ thể sau đây có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ gồm:
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.[3]
– Cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các CơquanBộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan khác của Công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.[4]
– Người bào chữa thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ trong từng giai đoạn tố tụng.[5]
Với những sửa đổi, bổ sung trong quy định nêu trên, BLTTHS năm 2015 đã tạo điều kiện cho việc phát hiện và xử lý tội phạm được nhanh chóng, đầy đủ và chính xác hơn, đồng thời, đã tạo được sự bình đẳng giữa bên gỡ tội với bên buộc tội khi tham gia vào các hoạt động tố tụng. Đây là sự thay đổi vượt bậc trong nhận thức tư duy của các nhà làm luật, tạo những bước cải cách có tính đột phá trong hoạt động tư pháp hình sự, phát huy những ưu điểm vốn cócủa mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, bảo đảm sự công bằng, đối trọng khi tranh tụng tại tòa, phù hợp với yêu cầu “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử” theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; nâng cao và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết (trong đó có Công ước Chống tra tấn).[6]
Xem thêm bài viết về “Điểm mới của Luật”
- Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh
- Một số điểm mới của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 – TS. Nguyễn Mạnh Hùng & ThS. Trương Thị Minh Thùy
- Một số điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 – ThS. Dương Hồng Thị Phi Phi
- Những điểm mới của chương “Chính phủ” trong Hiến pháp 2013 – TS. Nguyễn Mạnh Hùng
- Những quy định mới của Hiến pháp 2013 về quyền bào chữa và việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
2. Nguồn chứng cứ
Trong BLTTHS năm 1988 và năm 2003 khái niệm về nguồn chứng cứ vẫn chưa được ghi nhận mà các văn bản này chỉ mới đề cập các loại nguồn chứng cứ. Nhưng theo BLTTHS năm 2015, thông qua các quy định cụ thể tại Điều 87 “1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn sau:…; 2. Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”,chúng ta có thể hiểu “nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng những phát hiện, ghi nhận, các cung cấp về thông tin, tài liệu quan trọng để rút ra được những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án trong quá trình tổ chức các hoạt động tố tụng hình sự”. Do đó, nếu không tìm được nguồn của chứng cứ sẽ không thể làm rõ những vấn đề cần chứng minh, các tình tiết, diễn biến của vụ án, dẫn đến hậu quả là các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không chính xác, thiếu tính khách quan, đầy đủ trong vụ án hình sự.
Nguồn chứng cứ trong BLTTHS năm 2015[7] được xácđịnh như sau:
– Vật chứng;
– Kết luận giám định, định giá tài sản;
– Biên bản về hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
– Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
– Các tài liệu đồ vật khác.
Như vậy, ngoài tính kế thừa BLTTHS năm 2015 còn có những thay đổi quan trọng khi ghi nhận nguồn chứng cứ bao gồm: dữ liệu điện tử; kết luận giám định, định giá tài sản; kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế và các tài liệu đồ vật khác. Quy định này đã khắc phục những bất cập trước đây của BLTTHS năm 2003 khi quy định nguồn chứng cứ được ghi nhận chủ yếu bằng hình thức văn bản, do đó chưa đáp ứng thực tiễn khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các băng ghi âm, ghi hình, tài liệu điện tử đều có giá trị chứng minh nhưng chưa được ghi nhận cụ thể. Kết luận của hội đồng định giá tài sản, các bản tự khai, ghi lời khai ở cấp xã, phường, biên bản tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú… chưa được quy định rõ là chứng cứ.
Ngoài ra, một điểm mới hoàn toàn khác biệt so với những quy định về nguồn chứng cứ đó là: BLTTHS năm 2015 ghi nhận “kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế” mà phù hợp với các chứng cứ khác cũng sẽ được xem là chứng cứ. Quy định này sẽ tạo được một hành lang pháp lý vững chắc khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự: bắt, dẫn độ…, qua đó đã thể hiện quá trình hội nhập của Việt Nam trong việc tham gia đấu tranh, phòng chống tội phạm quốc tế.
2.1. Vật chứng
Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng, đầu tiên mà thông qua nó các cơ quan tiến hành tố tụng có thể chứng minh được sự việc hoặc đưa ra các giả thuyết, định hướng điều tra. Quy định về vật chứng trong BLTTHS năm 2015 về cơ bản vẫn giữ nguyên giống như Điều 74BLTTHS năm 2003.[8] Điều 89 BLTTHS năm 2015 quy định “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Như vậy, vật chứng phải là những vật cụ thể, tồn tại dưới dạng vật chất chứa đựng và phản ánh những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự. Những liên quan này có thể là nhiều hay ít, trực tiếp hoặc gián tiếp và phải nằm trong mối liên hệ tổng thể của vụ án hình sự. Nhưng đối với những vật không phải là công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội nhưng có ý nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn vụ án thì BLTTHS năm 2015 cũng xem là vật chứng. Đây là điểm khác biệt so với quy định của BLTTHS trước đó nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập thêm những vật chứng (vật có liên quan) khác có ý nghĩa cho quá trình chứng minh để xác định, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
– Xử lý vật chứng
Nhìn chung các quy định về xử lý vật chứng về cơ bản được giữ nguyên so với quy định trước đây. Tuy nhiên, do các quy định về xử lý vật chứng ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử được quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2003 là chưa đầy đủ, chưa dự liệu hết đặc thù của các loại vật chứng để xử lý cho phù hợp, tránh thất thoát, hư hỏng,lãng phí, gây thiệt hại cho chủ sở hữu: sự vật chứng không liên quan đến vụán, vật thừa sau khi giám định, các động vật quý hiếm, bom mìn, dùng tiền, tài sản phạm tộiđể đầu tư kinh doanh, sinh lời hoặc trúng xổ số…cho nên khoản 2, Điều106BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được những vấn đề trên khi quy định trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, người có thẩm quyền có quyền:[9]
– Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;
– Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án;
– Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;
– Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
2.2. Lời khai, lời trình bày
Có thể nói, lời khai, lời trình bày của người làm chứng, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người phạm tội tự thú, người bị bắt, bị tạm giữ; người tố giác, báo tin về tội phạm, người chứng kiến, bị can bị cáo trong vụ án hình sự là một nguồn chứng cứ rất quan trọng. Cơ quan điều tra sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của mình để lấy lời khai; hội đồng xét xử có vai trò thẩm định lại giá trị của những lời khai đó một lần nữa tại phiên tòa. Do đó, lời khai, lời trình bày của các đối tượng có giá trị, ý nghĩa hoàn toàn khác nhau trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử: lời khai của bị can, bị cáo thể hiện thái độ thừa nhận hay phủ nhận hành vi phạm tội; lời khai của người làm chứng thể hiện những gì họ biết về nguồn tin tội phạm… Chính vì vậy, sự hình thành lời khai, lời trình bày là một quá trình rất phức tạp, nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan, chủ quan.
Lời khai, lời trình bày được xem là nguồn chứng cứ khi được thực hiện theo đúng quy định từ Điều 91 đến Điều 98 của BLTTHS năm 2015. Theo đó, các quy định này về cơ bản vẫn được giữ nguyên so với các quy định trước đây nhưng cũng có một số điểm mới như:
– Bổ sung lời khai của người tố giác, báo tin về tội phạm,[10] lời khai của người chứng kiến[5] và cụ thể hoá lời khai của người bị bắt, bị tạm giam giữ của quy định trước đây thành lời khai của người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người phạm tội tự thú; người bị bắt, bị tạm giữ sẽ trình bày những tình tiết liên quanđến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm để bảo đảm quyền lợi của công dân ngay từ thời điểm bị bắt, cũng như họ được quyền trình bày những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm.
– Sửa đổi tên điều luật “lời khai của người bị hại” của BLTTHS năm 2003 thành “lời khai bị hại” để phù hợp với diện bị hại không chỉ là cá nhân mà còn bao gồm tổ chức (pháp nhân) để bảo đảm sự công bằng đối với những thiệt hại do tội phạm gây ra, khi mà quy định trước đây tổ chức (pháp nhân) bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng không được xem là bên bị hại[6] .
2.3. Dữ liệu điện tử
Đây là một quy định hoàn toàn mới trong BLTTHS năm 2015. Để bảo đảm dữ liệu điện tử là một nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh, BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận một số nội dung: như khái niệm về dữ liệu điện tử; các nguồn chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử; trình tự, thủ tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này. Theo đó, dữ liệu điện tử chính là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử, được thu thập từ phương tiện điện tử, máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác. Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.Đồng thời, khi tiến hành thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử,các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án[7] để bảo đảm tính hợp pháp của nguồn chứng cứ này.
2.4. Kết luận giám định, định giá tài sản
Kết luận giám định, định giá tài sản cũng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng của quá trình chứng minh. Nó dựa trên các kiến thức chuyên môn, khoa học kỹ thuật… để vạch ra sự thật khách quan của vụ án. Trong một số trường hợp nếu không có kết quả của việc giám định, định giátài sản thìcơ quan tiến hành tố tụng không thể giải quyếtđược vụ án.[8] Ngoài ra, kết luận giám định, định giá tài sản cũng là một trong những yếu tố để xác định căn cứ buộc tội hoặc minh oan cho người vô tội. Xuất phát từ tầm quan trọng của các kết luận giám định khi giải quyết vụ án hình sự và một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 là trong một số các vụ án cần phải định giá trị tài sản, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm nguồn chứng cứ mới đó là “kết luận định giá tài sản”.[9]
Kết luận định giá tài sản là văn bản do hội đồng định giá lập để kết luận về giá trị tài sản được yêu cầu định giá. Trong bản kết luận này phải có đầy đủ các chữ ký của các thành viên hội đồng định giá, nếu một trong các thành viên của Hội đồng định giá không đồng ý với giá của tài sản do Hội đồng quyết định thì có quyền ghi ý kiến riêng của mình vào bản kết luận chung. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn thể hiện quan điểm khách quan tránh gây oan sai khi quy định, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không đồng ý với bản kết luận định giá thì phải ghi rõ lý do, hoặc nếu kết luận chưa rõ thì quyết định định giá trị tài sản lại. Các kết luận định giá nếu vi phạm quy định của BLTTHS, vi phạm các quy định về định giá sẽ không có giá trị pháp lý và không được xem là một nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Song song đó, quy định về “kết luận giám định”[10] cũngđược BLTTHS năm 2015 sửa đổi bổ sung để làm rõ hơn như: khi đưa ra khái niệm kết luận giámđịnh, các cánhân; cơ quan tổ chức phải chịu trách nhiệm về vấnđề kết luận giám định của mình; bổ sung thêm một khoản theo đó “Kết luận giám định của người trưng cầu giám định thuộc trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án”.
2.5. Biên bản về hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
Đây là những biện pháp tố tụng được thực hiện trong quá trình chứng minh trong vụ án hình sự. Mọi thông tin về nội dung, về quá trình áp dụng các biện pháp tố tụng đều được ghi chép lại theo quy định của pháp luật dưới hình thức lập biên bản. Biên bản về hoạt đông khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án không chỉ là nguồn chứng cứ có giá trị quan trọng trong vụ án hình sự mà còn là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng kiểm tra, giám sát lẫn nhau về trình tự, thủ tục trong quá trình tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm góp phần đảm bảo tính hợp pháp, tính khách quan của chứng cứ. Ngoài các loại biên bản đã được quy định tại Điều 77 BLTTHS năm 2003 có thể được coi là chứng cứ như: biên bản bắt người, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, biên bản phiên tòa… thì BLTTHS năm 2015 còn bổ sung thêm: các tình tiết được ghi nhận trong các biên bản thi hành án; biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm; biên bản khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được lập theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng có thể được coi là chứng cứ.
2.6. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
Đây là nguồn chứng cứ hoàn toàn mới so với các quy định củaBLTTHS trước đây, thể hiện sự hội nhập, hợp tác của Việt Nam trong quá trình chung tay với cộng đồng quốc tế đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trên phạm vi toàn cầu. Đồng thời nó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự như: bắt, dẫn độ… cho các nước yêu cầu; tạo được một hành lang pháp lý phù hợp, vững chắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã quy định kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế cũng là một trong những chứng cứ quan trọng và được ghi nhận tại Điều 103. Theo đó, “Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và kết quả hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án”.
2.7. Các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án
Điều 104 BLTTHS năm 2015 xác định rõ “Những tình tiết liên quan đến vụ án có ghi trong tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức cá nhân cung cấp có thể coi là chứng cứ. Trong trường hợp những tài liệu, đồ vật có đặc điểm quy định tại Điều 89 của Bộ luật này thì được coi là vật chứng”. Quy định này đã mở rộng thêm nguồn của chứng cứ nhằm khắc phục những hạn chế trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003, vốn chưa ghi nhận các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án nhưng không phải do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo đúng trình tự, thủ tục thì chưa được xem là chứng cứ. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng muốn sử dụng các tài liệu, đồ vật do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp thì phải tiến hành chuyển hóa thành chứng cứ pháp lý có giá trị chứng minh, nếu không được chuyển hóa thành chứng cứ thì chúng hoàn toàn không có giá trị chứng minh. Mặt khác các bản tự khai, ghi lời khai ở cấp xã, phường, biên bản tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú, các đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp theo chúng tôicũng làmột nguồn chứng cứ. Dođó, với quy định tại Điều 104 BLTTHS năm 2015, những khó khăn, bất cập trên đã được giải quyết một cách triệt để, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm, người phạm tội được thuận lợi, tiết kiệm nhân lực, vật lực nhưng vẫn bảo đảm tính khách quan.
3. Hình thức thu thập chứng cứ
BLTTHS năm 2015 tuy chưa đưa ra khái niệm về thu thập chứng cứ, nhưng thông qua quy định có liên quan,[17] tác giả cho rằng “thu thập chứng cứ là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của các cơ quan, người có thẩm quyền bằng các biện pháp đã được pháp luật tố tụng hình sự quy định”. Do đó, thu thập chứng cứ là một giai đoạn của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự. Để thu thập chứng cứ ngoài những quy định trong BLTTHS năm 2003 như: cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án; triệu tập những người biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án; tiến hành một số hoạt động điều tra như: khám xét, khám nghiệm hiện trường, trưng cầu giám định… BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một số điểm mới về cách thức, phương pháp thu thập chứng cứ của người bào chữa để tăng cường tranh tụng gồm: gặp bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa, đồng thời sau khi thu thập chứng cứ phải cung cấp ngay cho cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền để xem xét, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Riêng những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án. Đồng thời, để bảo đảm tính hợp pháp, khách quan của chứng cứ, những trường hợp tiếp nhận chứng cứ, tài liệu đồ vật do người bào chữa, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân cung cấp đều phải được cơ quan có thẩm quyền tố tụng lập biên bản giao nhận, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Ngoài ra, một điểm mới quan trọng khác là nhằm tăng cường quá trình kiểm tra, giám sát của viện kiểm sát, BLTTHS năm 2015 quy định trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản.[18] Như vậy, đối với những chứng cứ tuy không phải do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập; nhưng khi thực hiện đầy đủ các quy định nêu trên thì các thông tin, tài liệu được cung cấp cho cơ quan chức năng vẫn đảm bảo đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ và tiến trình thu thập chứng cứ được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ.
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân;[19] thực hiện các cam kết của Nhà nước Việt Nam trong các điều ước quốc tế;[20] tháo gỡ những khó khăn trong thực thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nhất là đối với các loại tội: xâm phạm an ninh quốc gia, Tội phạm về ma túy, Tội phạm về tham nhũng, Tội khủng bố, Tội rửa tiền;Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,BLTTHS năm 2015 đã nội luật hóa và bổ sung những vấn đề chung nhất về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt tại Chương XVI (từ Điều 223 đến Điều 228). Theo đó, trong quá trình điều tra, để thu thập chứng cứ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt[21] gồm: ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Nhưng các Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp này, kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ nếu xét thấy không còn cần thiết. Bên cạnh đó, để tránh lạm dụng các biện pháp này xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân, pháp luật tố tụng còn quy định cụ thể, chi tiết về thời gian áp dụng, gia hạn biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt;[22] các thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được sử dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; riêng các thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời và nghiêm cấm việc sử dụng các thông tin tài liệu này vào mụcđích khác.
Nhìn chung các quy định về hình thức, biện pháp, chủ thể thu thập chứng cứ trong BLTTHS năm 2015 đã rất chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý, tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí của các cơ quan tiến hành tố tụng khi điều tra khám phá các vụ án; phù hợp với yêu cầu tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp; nâng cao hơn nữa việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân; khắc phục, hạn chế đến mức thấp nhất tỉ lệ án oan sai có thể xảy ra trong thực tế.
4. Kết luận
Những sửa đổi, bổ sung về chứng cứ nêu trên cho thấy những điểm mới về chứng cứ trong BLTTHS năm 2015 đã quán triệt đầy đủ, đúng đắn quan điểm, chủ trương cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, nhất là quan điểm cải cách tư pháp thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 văn kiện Đại hội lần thứ IX, X, XI của Đảng liên quan đến việc hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự. Qua đó, những điểm mới này góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; tăng cường khả năng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội; tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn hiện hành ở nước ta, đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng phù hợp với truyền thống văn hóa, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội; bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”
- Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng và công khai theo Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. Nguyễn Trần Như Khuê
- Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Một số điểm mới về tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. Phạm Thái
- Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
CHÚ THÍCH
∗ TS Luật học, Trưởng Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
** NCS, Công an Tp. Cần Thơ.
[1] Điều 64BLTTHS năm 2003: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”.Như vậy, theo quy định này chỉ có các chủ thể tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án mới được thu thập chứng cứ.
[2] Xem Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành BLTTHS, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, năm 2012.
[3] Xem Điều 36, 37, 41, 42 BLTTHS năm 2015.
[4] Xem Điều 39, 40 BLTTHS năm 2015.
[5] Xem Điều 73, 81BLTTHS năm 2015.
[6] Côngước Chống tra tấn (CAT):
Điều 11: “Mỗi bên Nhà nước phải tuân thủ một cách có hệ thống những nguyên tắc, chỉ dẫn, phương pháp và thực hành trong việc thẩm vấn cũng như việc bố trí giam giữ và đối xử với những người chịu bất kỳ hình thức bắt giữ, tạm giam, phạt tù trong lãnh thổ thuộc thẩm quyền tài phán của mình, với quan điểm ngăn cấm bất kỳ một trường hợp tra tấn nào”.
Điều 15:“Mỗi bên Nhà nước phải đảm bảo rằng bất kỳ lời tuyên bố nào được đưa ra do có hành động tra tấn sẽ không được viện dẫn làm chứng cứ trong quá trình tố tụng, ngoại trừ lời tuyên bố đó chống lại người bị buộc tội đã có hành vi tra tấn”.
[7] Xem Điều 87 BLTTHS năm 2015.
[8] Điều 74 BLTTHS năm 2003: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”
[9] Khoản 1 Điều 106 BLTTHS năm 2015: “Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản”.
[10] Điều 96BLTTHSnăm 2015: “Người tố giác, báo tin về tội phạm trình bày những tình tiết liên quan đến việc họ tố giác, báo tin về tội phạm”.
[11] Điều 97 BLTTHS năm 2015 “Người chứng kiến trình bày những tình tiết mà họ đã chứng kiến trong hoạt động tố tụng”.
[12] Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003“Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”; Khoản 1 Điều 52 BLTTHS năm 2003 “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Như vậy, tổ chức bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra khi tham gia tố tụng chỉ với tư cách là nguyên đơn dân sự.
[13] Điều 107BLTTHS năm 2015.
[14] Trong một số vụ án hình sự, Cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phả chưng cầu giám định hoặc giám định để xác định trị giá tài sản làm căn cứ khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
[15] Điều101BLTTHS năm 2015.
[16] Điều 100BLTTHS năm 2015.
[17] Xem Điều 88 BLTTHS năm 2015.
[18] Xem Điều 88 BLTTHS năm 2015.
[19] Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”.
[20] Chúng ta đã tham gia nhiều công ước của Liên hợp quốc, trong đó có công ước về đấu tranh chống tội phạm tham nhũng, ma túy, chống tội phạm có tổ chức. Chúng ta cũng đã cam kết sẽ luật hóa biện pháp điều tra đặc biệt này. Cho nên việc đưa một chương quy định biện pháp điều tra đặc biệt là một đòi hỏi tất yếu của việc thực hiện các cam kết quốc tế.
[21] Điều 225 BLTTHS năm 2015 quy định những người sau đây có thẩm quyền, trách nhiệm quyết định và thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt gồm: Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ lý, điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự khu vực đề nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định áp dụng.
[22] Điều 226 BLTTHS năm 2015 “Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt không quá 02 tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn. Trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra; Chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nếu xét thấy cần gia hạn thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn xem xét, quyết định việc gia hạn.”
Like fanpage tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Tác giả: Võ Thị Kim Oanh*, Trịnh Duy Thuyên** – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2016 (97)/2016 – 2016, Trang 50-58
Trả lời