Mục lục
Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Xem thêm bài viết về “Người dưới 18 tuổi (Người chưa thành niên)”
- Nguyên tắc và căn cứ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Cơ sở khoa học của việc thành lập trại giam dành riêng cho phạm nhân chưa thành niên – ThS. Nguyễn Quang Vũ
- Bảo đảm quyền của người chưa thành niên là con của phạm nhân trong pháp Luật Thi hành án hình sự Việt Nam – ThS. Vũ Thị Thúy & ThS. Nguyễn Thị Kiều Oanh
TÓM TẮT
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi theo hướng nhân đạo, thân thiện, tôn trọng và bảo vệ đầy đủ hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nổi bật là việc cơ quan lập pháp đã mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục đặc biệt này cho cả người bị hại và người làm chứng dưới 18 tuổi. Bên cạnh ưu điểm, những sửa đổi, bổ sung trên đã bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót nhất định. Trong bài viết, tác giả tập trung phân tích, đánh giá những ưu khuyết điểm của BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi; đồng thời đưa ra kiến nghị để khắc phục và phát triển.
1. Những điểm tiến bộ
a. Phạm vi áp dụng và nguyên tắc tiến hành tố tụng
Theo Điều 413 BLTTHS năm 2015, thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi không chỉ áp dụng cho người bị buộc tội mà còn cho cả người bị hại và người làm chứng. Việc bổ sung này góp phần bảo vệ tốt hơn, đầy đủ hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người trực tiếp gánh chịu những thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra và người biết được những tình tiết liên quan đến tội phạm, góp phần xác định sự thật vụ án, tạo sự công bằng về các bảo đảm tố tụng giữa người bị buộc tội và người bị hại là người dưới 18 tuổi. Đây là một điểm tiến bộ rõ rệt của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam, phù hợp với nguyên tắc, yêu cầu ghi nhận trong “Những hướng dẫn về tư pháp đối với các vấn đề liên quan đến nạn nhân là trẻ em và người làm chứng của tội phạm” (Guidelines on Justice in Matters involving Child Victims and Witnesses of Crime) của Liên hợp quốc.[1]
Một quy định mới (Điều 414) về nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cũng được bổ sung vào BLTTHS năm 2015. Điều luật quy định 08 nguyên tắc đặc thù, bên cạnh những nguyên tắc cơ bản quy định tại Chương II, mà các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuyệt đối tuân thủ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (VAHS) có sự tham gia của người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi. Những nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở tham khảo quy định của Công ước về Quyền trẻ em và hướng dẫn, giải thích của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên, ví dụ nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất, bảo đảm giữ bí mật cá nhân, bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện, tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến.
b. Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
Biện pháp ngăn chặn (BPNC), biện pháp cưỡng chế trong TTHS hạn chế một số quyền con người, quyền công dân của người bị áp dụng. Đối với người dưới 18 tuổi, do sự phát triển chưa toàn diện về thể chất, tâm lý, khả năng nhận thức và đặc điểm dễ bị tổn thương, nên việc áp dụng những BPNC, nhất là những biện pháp mang tính nghiêm khắc cao như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam phải hết sức thận trọng. Nhận thức được điều này, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định chỉ áp dụng BPNC, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết; tạm giữ, tạm giam chỉ được sử dụng khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các BPNC khác không hiệu quả; thời hạn tạm giam bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên.[2] Những quy định khác về giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội thuộc 02 nhóm tuổi: từ đủ 14 đến dưới 16, từ đủ 16 đến dưới 18 được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định khác của BLTTHS năm 2015 (Chương VII) và Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS năm 2015) (khoản 2 Điều 12). Những thay đổi trên của BLTTHS năm 2015 là hợp lý, khá tương đồng với quy định của Công ước về Quyền trẻ em[3] và Những quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước bỏ tự do (United Nations Rules for the Protection of Juveniles Deprived of their Liberty).[4]
c. Bào chữa, điều tra, xét xử
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì việc bào chữa bắt buộc, ngoài những đối tượng khác, chỉ được áp dụng đối với người chưa thành niên khi họ đã bị khởi tố về hình sự (bị can), bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (bị cáo). Người bị bắt, người bị tạm giữ là người chưa thành niên không được hưởng “ưu đãi” này. Đây rõ ràng là một điểm hạn chế và đã được khắc phục bởi BLTTHS năm 2015. Điểm b khoản 1 Điều 76 quy định người bị buộc tội dưới 18 tuổi (bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được quyền có người bào chữa chỉ định nếu họ, người đại diện hoặc người thân thích không mời người bào chữa. (Xem thêm: Quy định về Chỉ định người bào chữa trong tố tụng hình sự)
Nhằm tạo tâm lý thoải mái, ổn định cho người bị buộc tội, người bị hại và người làm chứng dưới 18 tuổi, cũng như loại trừ những hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, nhất là Điều tra viên và Cán bộ điều tra, BLTTHS năm 2015 bắt buộc khi lấy lời khai, hỏi cung phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Những người này được quyền thông báo trước về thời gian, địa điểm và tham gia vào việc lấy lời khai, hỏi cung. Quy định trên của BLTTHS năm 2015 đã khắc phục hạn chế của BLTTHS năm 2003 khi chỉ bắt buộc phải có mặt đại diện gia đình trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác. BLTTHS năm 2015 cũng giới hạn số lần và thời gian tối đa của mỗi lần[5] lấy lời khai, hỏi cung người dưới 18 tuổi nhằm tránh sự căng thẳng, lo sợ cho họ.
Về xét xử, BLTTHS năm 2015 có những quy định mới, tiến bộ như:
– Mở rộng diện người có thể trở thành Hội thẩm khi xét xử sơ thẩm vụ án bao gồm: giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi (khoản 1 Điều 423).
– Việc xét hỏi, tranh luận với bị cáo, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của họ. Phòng xử án được bố trí thân thiện, phù hợp với người dưới 18 tuổi (khoản 4 Điều 423).
– Đối với vụ án có bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi, Hội đồng xét xử phải hạn chế việc tiếp xúc giữa bị hại, người làm chứng với bị cáo khi bị hại, người làm chứng trình bày lời khai tại phiên tòa. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hỏi bị hại, người làm chứng (khoản 5 Điều 423).
Nổi bật nhất là việc thành lập hệ thống Tòa gia đình và người chưa thành niên ở Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao, TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện theo Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014. Đây là một việc làm cần thiết trong quá trình xây dựng hệ thống tư pháp chuyên biệt xử lý các vấn đề liên quan đến người dưới 18 tuổi (bao gồm người vi phạm pháp luật hình sự), phù hợp với tiêu chuẩn, định hướng của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên. Cùng với khung pháp lý tư pháp hình sự, đội ngũ những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bào chữa, nhân viên xã hội được đào tạo, có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi, việc thành lập hệ thống tòa án chuyên trách này góp phần giáo dục, giúp đỡ, xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng nhân văn, hiện đại.
d. Các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự
Theo quy định của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015, có ba biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự bao gồm: khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Nếu như khiển trách và hòa giải tại cộng đồng là hai biện pháp lần đầu tiên được ghi nhận trong pháp luật hình sự nước ta thì giáo dục tại xã, phường thị trấn trước đây là một trong hai biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.[6] Ba biện pháp trên và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải được Tòa án ưu tiên lựa chọn khi quyết định hình thức chế tài đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Hình phạt chỉ được sử dụng khi xét thấy việc áp dụng những biện pháp vừa nêu không bảo đảm hiệu quả giáo dục và phòng ngừa. Biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi có thể được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử khi người này được miễn TNHS và họ hoặc người đại diện đồng ý.
Quy định của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 về biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS là sự tiếp thu có chọn lọc các hình thức xử lý chuyển hướng (diversion) trong tư pháp phục hồi (restorative justice) mà Liên hợp quốc luôn khuyến khích các quốc gia thành viên của Công ước về quyền trẻ em nên nghiên cứu áp dụng. Những biện pháp này là một phần không thể thiếu trong hệ thống tư pháp người chưa thành niên của mỗi quốc gia,[7] không chỉ giúp tránh đi sự bêu xấu (stigmatization) mà còn mang lại những kết quả tốt cho người dưới 18 tuổi, vì những lợi ích của an toàn công cộng và đã được chứng minh là rất có hiệu quả trong mối tương quan với chi phí bỏ ra (cost-effective).[8]
đ. Một số vấn đề khác
Nhằm hạn chế việc áp dụng BPNC đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi nhưng vẫn bảo đảm sự có mặt của họ khi cần triệu tập, BLTTHS năm 2015 cho phép các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được giao người này cho người đại diện của họ để giám sát. Việc sử dụng thuật ngữ “người đại diện” mang tính hợp lý, rõ ràng và bao gồm nhiều đối tượng hơn thuật ngữ “cha, mẹ hoặc người đỡ đầu” như quy định trước đây của BLTTHS năm 2003. Người đại diện là người đại diện theo pháp luật của người dưới 18 tuổi bao gồm: cha, mẹ, người giám hộ của họ (Điều 47, 136 Bộ luật dân sự năm 2015).[9] Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 cũng bổ sung quy định liệt kê những biểu hiện, hành vi cụ thể[10] của người dưới 18 tuổi gây khó khăn, cản trở cho quá trình giải quyết VAHS mà người được giao giám sát phải thông báo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để có kịp thời ngăn chặn và xử lý. Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm của người được giao nhiệm vụ giám sát; tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể lựa chọn BPNC khác thích hợp hơn đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
BLTTHS năm 2015 kế thừa và phát triển những quy định của BLTTHS năm 2003 về việc tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức trong vụ án có người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi. Thuật ngữ “đại diện gia đình” được thay thế bởi thuật ngữ “người đại diện” nhằm tạo sự thuận lợi, thống nhất cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình áp dụng pháp luật; tránh sự trùng lặp trong cách quy định trước đây về “người đại diện hợp pháp” và “đại diện gia đình”. Các quyền tố tụng mới của người đại diện, nhà trường, tổ chức cũng được bổ sung nhằm giúp những chủ thể này bảo vệ có hiệu quả hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, bao gồm: quyền tố cáo, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng trong các giai đoạn tố tụng nói chung (chứ không chỉ tại phiên tòa như quy định tại khoản 3 Điều 306 BLTTHS năm 2003).
2. Một số hạn chế và kiến nghị khắc phục
a. Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại
Việc xác định tuổi chính xác của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi đã được giải thích, quy định nhất quán trong Công văn số 81/2002/TANDTC[11] và Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH.[12] Theo đó, nếu đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng sinh thì lấy ngày, tháng cuối cùng (đối với bị can, bị cáo); lấy ngày, tháng đầu tiên (đối với người bị hại) làm ngày, tháng sinh.[13] Khác với hai văn bản trên, Điều 417 BLTTHS năm 2015 quy định một nguyên tắc thống nhất áp dụng cho cả người bị buộc tội và người bị hại đó là lấy ngày, tháng đầu tiên làm ngày, tháng sinh. Cách xác định này có vẻ như đã tạo sự công bằng cho cả hai bên, tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm nhưng lại vi phạm hai nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự – nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Trong một số trường hợp, tuổi của người bị hại là căn cứ quyết định việc bị cáo có tội hay không, ví dụ: Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), Tội đánh tráo người dưới 1 tuổi (Điều 152), Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153); hoặc có ý nghĩa trong việc định tội danh, ví dụ: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); hoặc có ý nghĩa trong việc xác định khung hình phạt, ví dụ: Tội giết người (điểm b khoản 1 Điều 123), Tội bức tử (điểm b khoản 2 Điều 130), Tội đe đọa giết người (điểm d khoản 2 Điều 133),…
Nguyên tắc suy đoán vô tội khẳng định rất rõ khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Do đó, nếu đã không thể xác định chính xác ngày, tháng sinh của người bị hại thì không có quyền suy đoán đó là ngày, tháng đầu tiên vì điều này sẽ gây bất lợi cho người bị buộc tội. Ngoài ra, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án còn yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải làm rõ những tình tiết tăng nặng TNHS của người bị buộc tội. Như đã đề cập, tuổi của người bị hại trong một số trường hợp là tình tiết định khung tăng nặng. Khi không đủ căn cứ làm sáng tỏ tình tiết này thì phải suy luận theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Một hệ thống tư pháp nhân văn, minh bạch, lấy người bị buộc tội làm trung tâm trước hết phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; hạn chế đến mức thấp nhất việc xét xử oan, sai. Vì những lý do trên, chúng ta nên giữ nguyên cách thức xác định ngày, tháng sinh của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH.
b. Bào chữa, điều tra, xét xử
Những vấn đề liên quan đến quyền bào chữa của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong BLTTHS năm 2015 không có nhiều thay đổi so với trước đây. BLTTHS năm 2015 quy định những người này có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Việc sử dụng từ “hoặc” là không chính xác vì có thể dẫn đến sự hiểu nhầm là người bị buộc tội khi tự mình bào chữa thì sẽ không được nhờ người khác bào chữa hoặc ngược lại. Vì vậy cơ quan lập pháp nên quy định: “Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa”. Tương tự, người đại diện có quyền lựa chọn người bào chữa, tự mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi bị buộc tội.
Quy định về việc từ chối người bào chữa chỉ định của người dưới 18 tuổi bị buộc tội có điểm hạn chế. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC),[14] khi có sự mâu thuẫn giữa bị cáo là người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ trong việc từ chối người bào chữa chỉ định thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung, có sự tham gia của người bào chữa đã được cử. Điều này có nghĩa khi và chỉ khi cả bị cáo và người đại diện hợp pháp thống nhất ý kiến từ chối người bào chữa chỉ định thì người này mới không tham gia phiên tòa. Cách hướng dẫn trên của Hội đồng thẩm phán TANDTC là hợp lý, đảm bảo việc hỗ trợ pháp lý của người bào chữa chỉ định được thực hiện trong nhiều vụ án, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo là người chưa thành niên. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 không những không pháp điển hóa hướng dẫn này mà còn quy định ngược lại là chỉ cần người dưới 18 tuổi bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của họ từ chối người bào chữa chỉ định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.[15] Bộ luật cũng thể hiện một sự thiếu sót khi điểm b khoản 5 Điều 78 quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ chối việc đăng ký bào chữa khi người bị buộc tội thuộc trường hợp được bào chữa chỉ định từ chối người bào chữa mà không đề cập trường hợp người đại diện hoặc người thân thích từ chối. Những quy định này tạo thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án vì không phải tìm người bào chữa chỉ định, nhưng ngược lại không bảo vệ, giúp đỡ được người dưới 18 tuổi bị buộc tội – mục đích chính của việc bào chữa chỉ định. Như đã phân tích, hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP về vấn đề này là hợp lý nên được tiếp tục kế thừa và ghi nhận trực tiếp trong BLTTHS năm 2015.[16]
Bên cạnh những tiến bộ đã trình bày ở phần trên, quy định về lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi trong BLTTHS năm 2015 vẫn còn một số điểm chưa rõ ràng, đầy đủ. Khoản 2 Điều 421 quy định khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của họ; khi lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng phải có người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự. Thực tiễn giải quyết vụ án không tránh khỏi trường hợp Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên phải lấy lời khai, hỏi cung nhiều lần. Như vậy pháp luật có đòi hỏi sự tham gia của người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong tất cả các lần lấy lời khai, hỏi cung hay không? Vấn đề này cần phải được quy định rõ ràng hơn để tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Điều tra VAHS không chỉ bao gồm hoạt động lấy lời khai, hỏi cung mà còn có những hoạt động khác được tiến hành với sự tham gia của bị can, người bị hại như: nhận dạng, khám xét, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định đòi hỏi BLTTHS năm 2015 phải có những quy định riêng phù hợp với đặc điểm về thể chất, tâm lý, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi. Quan trọng hơn, các cơ quan quản lý như Bộ Công an, Bộ quốc phòng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, TANDTC nên nghiên cứu xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục điều tra thân thiện đối với người dưới 18 tuổi.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 423 BLTTHS năm 2015, Tòa án có thể quyết định xét xử kín trong trường hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi. Đây là một quy phạm mang tính tùy nghi, đi ngược lại yêu cầu của Công ước về Quyền trẻ em và hướng dẫn của Ủy ban Quyền trẻ em, mâu thuẫn với nguyên tắc bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.[17] Quy định này nên được sửa lại theo hướng phiên tòa có bị cáo, người bị hại là người dưới 18 tuổi được xét xử kín, trừ những trường hợp ngoại lệ (nên rất hạn chế và có hướng dẫn cụ thể); bản án được tuyên công khai theo một cách thức không tiết lộ danh tính của người dưới 18 tuổi bị kết án.
c. Thời hạn giải quyết vụ án hình sự
Như đã trình bày, BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn tạm giam người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, thời hạn tiến hành các giai đoạn tố tụng đối với người dưới 18 tuổi thì không có sự khác biệt. Theo Ủy ban Quyền trẻ em, có một sự đồng thuận mang tính quốc tế rằng đối với trẻ em vi phạm pháp luật hình sự thì thời hạn giải quyết VAHS tính từ khi thực hiện tội phạm cho đến khi có quyết định xử lý cuối cùng càng ngắn càng tốt bởi vì thời hạn này càng kéo dài thì có thể việc xử lý sẽ mất đi những tác động tích cực như mong muốn và trẻ em sẽ bị bêu xấu (stigmatised) nhiều hơn.[18] Do đó, BLTTHS năm 2015 nên bổ sung quy định về thời hạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi ngắn hơn thời hạn tương ứng áp dụng với VAHS của người đủ 18 tuổi trở lên. Điều này góp phần cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi (khoản 7 Điều 414).
d. Các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS
Việc quy định những biện pháp này là một điểm tiến bộ trong quá trình cải cách hệ thống tư pháp người chưa thành niên ở Việt Nam, phù hợp với xu hướng của thế giới. Tuy nhiên, do đây là lần đầu tiên ghi nhận nên không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Căn cứ vào Những nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng các chương trình tư pháp phục hồi trong VAHS(Basic principles on the use of restorative justice programmes in criminal matters)[19] và hướng dẫn, giải thích của Ủy ban Quyền trẻ em có thể nhận thấy quy định của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 về những biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi có một số điểm hạn chế cần khắc phục như sau:
Thứ nhất,bản chất của các biện pháp này chưa được xác định rõ ràng. Đây có phải thực chất là những hình thức xử lý chuyển hướng; là biện pháp tư pháp hình sự; hay là chế định miễn TNHS được phát triển đầy đủ hơn? Tại sao phải quyết định miễn TNHS thì sau đó mới có thể áp dụng những biện pháp giám sát, giáo dục với người dưới 18 tuổi phạm tội? Theo Ủy ban thường vụ Quốc hội thì đây là biện pháp xử lý mang tính chất thay thế hình phạt và biện pháp tư pháp.[20] Ngược lại, Bộ Tư pháp cho rằng đây cơ bản vẫn là chế định miễn TNHS theo quy định hiện hành. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả giáo dục, phục hồi đối với người chưa thành niên, bảo đảm phòng ngừa tái phạm thì cùng với việc miễn TNHS cần áp dụng biện pháp xử lý mang tính giáo dục, phòng ngừa thay vì trả tự do vô điều kiện cho họ.[21] Tác giả đồng ý với quan điểm của Bộ Tư pháp bởi nếu cho rằng đây là những biện pháp thay thế hình phạt và biện pháp tư pháp thì không cần phải đặt ra điều kiện người dưới 18 tuổi phải được miễn TNHS mà có thể áp dụng độc lập.[22] Trong Những nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng các chương trình tư pháp phục hồi trong VAHS cũng không đề cập điều kiện này, thay vào đó là khuyến nghị các chương trình tư pháp phục hồi chỉ nên được sử dụng khi có đủ chứng cứ để buộc tội và có sự tự nguyện chấp thuận của nạn nhân và người phạm tội (nguyên tắc thứ bảy).
Thứ hai,BLHS năm 2015 đã “bỏ quên” ý chí của người bị hại (bao gồm người dưới 18 tuổi) và người đại diện của họ trong việc quyết định áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều 92 BLHS năm 2015 quy định các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định miễn TNHS và áp dụng các biện pháp này nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý mà không quan tâm đến ý kiến của người bị hại. Quy định này trái với nguyên tắc thứ bảy trong Những nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng các chương trình tư pháp phục hồi trong VAHS.
Thứ ba, quy định của BLTTHS năm 2015 về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp này chưa thống nhất và còn nhiều thiếu sót. Theo quy định tại Điều 426 thì có thể hiểu sau khi Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án quyết định miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi phạm tội, dựa trên những điều kiện quy định tại BLHS năm 2015, các cơ quan này quyết định áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục. Đối với biện pháp khiển trách và biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, BLTTHS năm 2015 quy định rõ là khi miễn TNHS những người có thẩm quyền quyết định áp dụng. Riêng đối với biện pháp hòa giải tại cộng đồng thì không có quy định tương tự. Ngoài ra, theo điểm g khoản 5 Điều 428 khi kết thúc hòa giải người bị hại, người đại diện của họ có thể đề nghị miễn TNHS cho người phạm tội. Điều này gián tiếp cho thấy biện pháp hòa giải tại cộng đồng được áp dụng trước khi người phạm tội được miễn TNHS. Trong khi đó, khoản 2 Điều 94 BLHS năm 2015 lại quy định việc hòa giải tại cộng đồng chỉ được tổ chức thực hiện khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. BLTTHS năm 2015 cũng chưa quy định cách thức xử lý tiếp theo trong trường hợp hòa giải không thành hoặc các bên không thực hiện, thực hiện không đúng những thỏa thuận đạt được khi kết thúc hòa giải. Khi BLTTHS năm 2015 chính thức có hiệu lực, các cơ quan có thẩm quyền phải phối hợp ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng.
Tư pháp người chưa thành niên là một bộ phận rất quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống tư pháp hình sự nói chung của mỗi quốc gia. Do đó, tư pháp người chưa thành niên cần phải được xây dựng một cách khéo léo để vừa đảm bảo hiệu quả của hoạt động đấu tranh, phòng ngừa, xử lý tội phạm vừa bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, giúp họ vượt qua mặc cảm, khó khăn để tái hòa nhập cộng đồng. Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương, chính sách nhất quán, phù hợp trong đường lối xử lý và giúp đỡ người chưa thành niên. Điều đó một phần được cụ thể hóa thông qua những quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi trong BLTTHS năm 2015. Những quy định này, mặc dù có một số hạn chế cần khắc phục, đã giúp Việt Nam tiến gần hơn mục tiêu xây dựng hệ thống tư pháp chuyên biệt đối với người dưới 18 tuổi mang tính nhân văn, thân thiện, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”
- Một số điểm mới về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Trịnh Duy Thuyên
- Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng và công khai theo Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. Nguyễn Trần Như Khuê
- Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Một số điểm mới về tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. Phạm Thái
- Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, Giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
[1] Ban hành kèm theo Nghị quyết số 20/2005 của Hội đồng Kinh tế và Xã hội.
[2] Khoản 1 Điều 419 BLTTHS năm 2015.
[3] Điểm b Điều 37 Công ước về quyền trẻ em quy định:”Không trẻ em vào bị tước bỏ tự do một cách trái pháp luật và tuỳ tiện. Việc bắt, tạm giam hoặc phạt tù trẻ em phải tuân thủ quy định của pháp luật và chỉ được sử dụng như là biện pháp cuối cùng trong khoảng thời gian hợp lý ngắn nhất”
[4] Được thông qua bởi Nghị quyết 45/113, ngày 14/12/1990 của Hội đồng Liên hợp quốc. Nguyên tắc thứ 2 yêu cầu: “Việc tước bỏ tự do của một người chưa thành niên nên là cách xử lý cuối cùng trong khoảng thời gian cần thiết ngắn nhất và được áp dụng đối với những trường hợp cá biệt”.
[5] Khoản 4, 5 Điều 421 quy định thời gian lấy lời khai người dưới 18 tuổi không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. Thời gian hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi cũng không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp: (a) Phạm tội có tổ chức; (b) Để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn; (c) Ngăn chặn người khác phạm tội; (d) Để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án; (đ) Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.
[6] Khoản 1 Điều 70 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
[7] Ủy ban quyền trẻ em, Bình luận chung số 10 (2007) về các quyền của trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên, đoạn 26.
[8] Ủy ban quyền trẻ em, chú thích số 7, đoạn 25.
[9] Khoản 1 Điều 47 BLDS 2015 quy định người được giám hộ bao gồm:(a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;(b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;…
[10] Bao gồm: có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội (khoản 2 Điều 418 BLTTHS năm 2015).
[11] Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 của TANDTC về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ.
[12] Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH, ngày12/07/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp – Bộ Lao động, Thương binh và xã hội hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên
[13] Tiểu mục 1,2 mục 11 phần II Công văn số 81/2002/TANDTC; Điều 6, 12 TTLT số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH.
[14] Mục 3(d) (d.2) Phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP, ngày 02/10/2004 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS 2003.
[15] Đoạn cuối khoản 3 Điều 77 BLTTHS năm 2015.
[16] Lê Huỳnh Tấn Duy, “Đánh giá quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên trên cơ sở các tiêu chuẩn của Liên hợp quốc”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2013.
[17] Lê Huỳnh Tấn Duy, “Quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội trong luật quốc tế và luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2013.
[18] Ủy ban quyền trẻ em, chú thích số 7, đoạn 51.
[19] Ban hành kèm theo Nghị quyết số 2002/12 của Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc.
[20] Ủy ban thường vụ Quốc hội, Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi) trình Quốc hội biểu quyết thông qua, ngày 24/11/2015, mục 10.
[21] Bộ tư pháp, Báo cáo tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương về dự án BLHS (sửa đổi), ngày 26/03/2015, mục 7.
[22] Đây là một trong hai phương án được xây dựng trong Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo BLHS (sửa đổi)của Ban soạn thảo, tháng 04/2015.
Tác giả: Lê Huỳnh Tấn Duy*
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06/2016 (100)/2016 – 2016, Trang 33-40
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời