Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ góc nhìn của Kiểm sát viên
Tác giả: Mai Đắc Biên [1] & Quách Đình Lực [2]
TÓM TẮT
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc mới, tiến bộ của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thể hiện sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát viên phải tuân thủ và thực hiện triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự và Quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm sát. Quá trình xét xử công khai tại phiên tòa nếu thấy không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì Kiểm sát viên phải rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội.
1. Nhận thức chung về nguyên tắc suy đoán vô tội
Hiến pháp năm 2013 là sự thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, Nhân dân ta về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật…của đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế. Hiến pháp đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc trong xây dựng và áp dụng pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Trong số đó có nội dung mang tính nguyên tắc “suy đoán vô tội” được quy định tại Khoản 1 Điều 31 của Hiến pháp: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật”.
Về mặt lịch sử thì nguyên tắc này được các nhà lập pháp tư sản xác lập, khẳng định trong các văn kiện pháp lý quan trọng và được cộng đồng quốc tế công nhận và áp dụng, như: Tuyên ngôn nhân quyền của Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc năm 19483. Đặc biệt các nhà lập pháp Liên Xô – nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới – đã xác định nguyên tắc suy đoán vô tội trong bản Hiến pháp Liên Xô năm 19774 và được kế thừa trong Hiến pháp Liên bang Nga năm 19935.
Ở Việt Nam, trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) đã quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội như sau:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Điều 13 BLTTHS năm 2015 chứa đựng hai nội dung cơ bản sau đây:
1.1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Người bị buộc tội theo quy định tại Điều 4 BLTTHS là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tức là những người bước đầu bị các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) xác định là đã thực hiện tội phạm, họ có thể chưa bị khởi tố về hình sự đã bị khởi tố về hình sự. Điểm chung cơ bản ở đây là những người này ở những mức độ khác nhau đang bị cáo buộc là người thực hiện hành vi phạm tội và đang chịu sự điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, những người này phải được luật pháp, những cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng coi là không có tội cho đến khi tội của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Việc chứng minh tội phạm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam do các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng thực hiện, có trách nhiệm tiến hành các hoạt động tố tụng điều tra, truy tố, xét xử để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp để bảo đảm: việc thu thập chứng cứ phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật; bảo đảm tính khách quan, toàn diện, đầy đủ và trong điều tra, truy tố và xét xử. Việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và hành vi phạm tội không được xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội như không được áp dụng các hình thức: tra tấn, bạo lực, bức cung, dùng nhục hình, dụ cung, lừa dối…. Những chứng cứ thu thập được phải được xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ trong cả quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Những chứng cứ không đáp ứng được các yêu cầu về tính khách quan, tính xác thực và tính hợp pháp sẽ được coi là chứng cứ và không có giá trị để buộc tội, kết tội. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có nhiệm vụ quyền hạn phê chuẩn các quyết định tố tụng đúng đắn của cơ quan điều tra; không phê chuẩn hoặc hủy bỏ những quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra. Những hoạt động tố tụng trái pháp luật của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên được Viện kiểm sát yêu cầu chấm dứt và khắc phục hậu quả. Người phạm tội phải được xét xử tại Tòa án một cách công khai, công bằng, khách quan. Việc xét xử của Tòa án phải tuân thủ chặt chẽ trình tự, thủ tục và đúng quy định của pháp luật. Bản án có tội đã tuyên đối với người phạm tội có hiệu lực pháp luật khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không bị kháng cáo, kháng nghị. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định thì người bị buộc tội mới bị coi là có tội. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử có nhiệm vụ quyền hạn công bố cáo trạng, xét hỏi, luận tội, tranh luận, kiểm sát việc tuân theo pháp luật Tòa án và người tham gia tố tụng, bảo đảm việc xét xử đúng theo quy định của pháp luật, không xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Những vi phạm của Tòa án được Viện kiểm sát kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu chấm dứt, khắc phục hoặc yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để cải sửa, hủy bỏ.
1.2. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (đại diện cho Nhà nước) có trách nhiệm, nghĩa vụ chứng minh tội phạm nhằm tìm ra căn cứ để buộc tội, xét xử người phạm tội nhằm giáo dục, trừng phạt, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm. cơ quan điều tra, viện kiểm sát phải đưa ra được những chứng cứ chứng minh tội phạm một cách rõ ràng, xác thực làm căn cứ buộc tội một cách chắc chắn, đúng pháp luật, làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Người bị buộc tội không có trách nhiệm, nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, tức là họ không bị bắt buộc phải đưa ra các chứng cứ ngoại phạm hoặc các chứng cứ khác để chứng minh với các cơ quan bảo vệ pháp luật rằng họ vô tội. Bởi vì họ đương nhiên được coi là không có tội, nếu buộc tội, kết án họ thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tìm ra chứng cứ để phục vụ cho việc buộc tội, kết án. Tuy nhiên, người bị buộc tội có quyền chứng minh về sự vô tội của mình thông qua việc đưa ra lời khai, qua người làm chứng hoặc vật chứng có lợi cho mình hoặc bằng các hình thức hợp pháp khác. Trong trường hợp người bị buộc tội tự nguyện phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc làm rõ những chứng cứ, tình tiết của tội phạm, họ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi áp dụng hình phạt. Quá trình đi tìm sự thật khách quan đó không tránh khỏi khó khăn, vướng mắc khi có những trường hợp không thể thu thập được đầy đủ chứng cứ chứng minh tội phạm hoặc hành vi phạm tội của người bị buộc tội mặc dù cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc Tòa án đã áp dụng hết những biện pháp hợp pháp theo quy định của BLTTHS để chứng minh. Trong trường hợp đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Điều đó có nghĩa là những cơ quan tiến hành tố tụng phải sử dụng những quy định pháp luật, những chứng cứ theo hướng có lợi (gỡ tội) để áp dụng, dồn về cho người bị buộc tội để họ được hưởng những lợi ích đó nhằm gỡ tội, chứng minh sự vô tội của họ. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, kiểm sát viên phải tôn trọng tuyệt đối nguyên tắc suy đoán vô tội đối với bị cáo. Kiểm sát viên không được quá coi trọng những chứng cứ buộc tội được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố mà phải đánh giá cả những chứng cứ được đưa ra tại phiên tòa. Những chứng cứ, tài liệu mới có thể sẽ làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố.
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội của kiểm sát viên trong phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Kiểm sát viên là người đại diện cho Nhà nước thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, thực hiện việc buộc tội bị cáo, đề nghị quyết định hình phạt và quan điểm giải quyết các vấn đề khác của vụ án. Đồng thời, kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng, bảo đảm việc xét xử phải được thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo đảm không để xảy ra trường hợp xét xử oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Trong suốt quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, kiểm sát viên luôn tuân thủ triệt để những nguyên tắc của BLTTHS, đặc biệt nguyên tắc suy đoán vô tội. Sự tuân thủ triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội của kiểm sát viên được biểu hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, về thái độ đối với bị cáo.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì trong quá trình xét xử, bị cáo là người được coi là không có tội vì tội của bị cáo chưa được chứng minh đầy đủ theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, trong lý luận cũng như thực tiễn xét xử, kiểm sát viên luôn coi bị cáo là người không có tội để từ đó có quan điểm buộc tội, gỡ tội cũng như thái độ cư xử một cách đúng đắn. Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa luôn chấp hành đúng quy định của pháp luật, của ngành kiểm sát6. Cử chỉ, hành động, lời nói, tư thế, tác phong, thái độ, biểu cảm của kiểm sát viên luôn chuẩn mực, thể hiện hình ảnh người kiểm sát viên “Công minh, chính trực, chánh quan, chận trọng, khiêm tốn”. Kiểm sát viên tôn trọng bị cáo bằng việc xưng hô, thái độ lắng nghe và xem xét thấu đáo ý kiến của bị cáo; không có hành động chỉ trích, miệt thị, coi thường, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bị cáo và người tham gia tranh tụng khác7.
Thứ hai, thực hiện triệt để những quy định của pháp luật để buộc tội bị cáo.
Thực tiễn xét xử vụ án cho thấy, khi tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì nhiệm vụ quan trọng và trọng tâm nhất của kiểm sát viên là buộc tội bị cáo, tức là chứng minh sự có tội của bị cáo. Nhiệm vụ gỡ tội cho bị cáo của kiểm sát viên vẫn được coi trọng nhưng không phải là mục đích chính hướng đến cuối cùng của kiểm sát viên. Điều này không có gì mâu thuẫn với tính đúng đắn, khách quan, toàn diện và đầy đủ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát. Bởi lẽ, Viện kiểm sát chỉ ra quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử khi quá trình điều tra, truy tố đã xác định rõ tội phạm, hành vi phạm tội của bị can cũng như các tình tiết khác của vụ án. Nếu còn nghi ngờ về chứng cứ buộc tội (hoặc chứng cứ yếu) thì không quyết định truy tố mà quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, thu thập đầy đủ chứng cứ buộc tội và gỡ tội. Nếu trong quá trình điều tra, truy tố có đầy đủ chứng cứ chứng minh sự vô tội của người bị buộc thì viện kiểm sát đã yêu cầu cơ quan điều tra hoặc trực tiếp ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án hoặc áp dụng tội nhẹ hơn, khung hình phạt nhẹ hơn, các tình tiết giảm nhẹ cho bị can. Do vậy, tại phiên tòa, kiểm sát viên áp dụng triệt để những quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát như xét hỏi, luận tội, tranh luận để bảo vệ quan điểm truy tố, buộc tội của viện kiểm sát. Việc gỡ tội cho bị cáo chỉ thường trong phạm vi đồng ý chuyển sang tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn, chấp nhận áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ, bỏ bớt đi tình tiết tăng nặng, giảm một phần đề nghị mức hình phạt hoặc việc xử lý vật chứng theo hướng có lợi cho bị cáo. Chỉ trong một số rất ít trường hợp, tại phiên tòa xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi nội dung truy tố, buộc tội theo hướng có lợi cho bị cáo thì kiểm sát viên sẽ rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố. Để bảo đảm việc buộc tội, kiểm sát viên phải trực tiếp tham gia xét hỏi, luận tội và tranh luận. Khi xét hỏi, luận tội, tranh luận, kiểm sát viên tập trung xét hỏi, phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm, xem xét mức độ lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, mức độ hậu quả tác hại do tội phạm; phân tích các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ của vụ; xác định nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội; nhân thân, vai trò của từng bị cáo (trong vụ án đồng phạm). Sau khi phân tích, đánh giá, xác định vai trò, vị trí của bị cáo thì kết luận bị cáo đã phạm tội gì (hoặc các tội gì), tội đó (hoặc các tội đó) được quy định tại điều, khoản, điểm nào của BLHS năm 2015.
Thứ ba, thực hiện triệt để những quy định của pháp luật để gỡ tội cho bị cáo
Như đã phân tích ở phần trên, tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, nhiệm vụ gỡ tội cho bị cáo của kiểm sát viên vẫn luôn được coi trọng nhưng không phải là mục đích cuối cùng hướng đến của kiểm sát viên. Với nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong xét xử vụ án hình sự8, kiểm sát viên đại diện nhà nước buộc tội bị cáo nhưng vẫn luôn chú trọng đến việc gỡ tội cho bị cáo. Để gỡ tội cho bị cáo thì tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, kiểm sát viên phải phân tích, đánh giá những chứng cứ buộc tội, gỡ tội, nếu có căn cứ rõ ràng để rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn thì kiểm sát viên quyết định rút9. Ngoài ra, kiểm sát viên gỡ tội bằng quyết định chuyển sang khoản khác nhẹ hơn trong cùng điều luật đã truy tố, bỏ bớt tình tiết tăng nặng, chấp nhận thêm tình tiết giảm nhẹ, đề nghị giảm mức hình phạt hoặc đề nghị xử lý vật chứng theo hướng có lợi hơn cho bị cáo so với quan điểm ban đầu trong quyết định truy tố. Trường hợp có đủ căn cứ để kết luận về một tội danh khác nặng hơn thì kiểm sát viên không được đề nghị xét xử theo tội danh nặng hơn đó mà đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết định, bảo đảm tính khách quan và đúng đắn của việc giải quyết vụ án. Quá trình tranh luận phát hiện những tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án hoặc thay đổi quan điểm, đường lối xử lý vụ án mà không thể làm rõ, kết luận được khi tranh luận thì kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử trở lại phần xét hỏi và có thể đề nghị hoãn phiên tòa để tiến hành xác minh, điều tra bổ sung, đó cũng là thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội, thể hiện sự gỡ tội cho bị cáo.
Thứ tư, thực hiện triệt để nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật để đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội.
Khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa, kiểm sát viên đồng thời kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng để đảm bảo việc xét xử phải được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, thành phần Hội đồng xét xử, việc thay đổi người tiến hành tố tụng, thủ tục xét hỏi, việc tranh luận, việc tuyên án. Đồng thời, kiểm sát việc chấp hành nội quy phiên tòa, quy định về xét xử của bị cáo và người tham gia tố tụng khác. Sau phiên tòa, kiểm sát viên kiểm sát biên bản phiên tòa, việc bắt tạm giam hoặc trả tự do cho bị cáo, kiểm sát bản án, quyết định của Hội đồng xét xử. Hoạt động kiểm sát bảo đảm cho việc xét xử được thực hiện đúng quy định của pháp luật, không để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, từ đó, bảo đảm tốt nhất quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự, thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử vụ án hình sự
Tóm lại, nguyên tắc suy đoán vô tội tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự được kiểm sát viên nhận thức và thực hiện đầy đủ, được thể hiện qua thái độ đối xử với bị cáo, việc áp dụng triệt để những quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của mình để buộc tội, gỡ tội đối với bị cáo. Do vậy, trong những năm qua, chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từng bước được nâng cao, hạn chế thấp nhất việc xét xử oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm,bảo đảm tốt nhất quyền con người, quyền công dân của bị cáo.
3. Kiến nghị đề xuất
Mặc dù nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định trong BLTTHS với những nội dung tiến bộ, cơ bản đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp trên tinh thần tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự nhưng vẫn còn những điều cần góp ý để hoàn thiện. Đoạn 2 Điều 13 BLTTHS quy định: “Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Quy định như vậy là không đúng với tư tưởng, tinh thần của suy đoán vô tội. Bởi lẽ, ngay từ khi chưa có nguyên tắc suy đoán vô tội thì khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn đã kết luận người bị buộc tội không có tội, đây là lẽ đương nhiên, không còn tranh cãi. Thực tiễn hoạt động tư pháp của Việt Nam nhiều năm qua đều phải tuân theo nguyên tắc (quy định) như vậy. Đó là trường hợp không đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và không đủ căn cứ để buộc tội thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can, hoặc đã khởi tố thì phải đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, đình chỉ xét xử hoặc tuyên bị cáo vô tội. Ngoài nội dung “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” thì “suy đoán vô tội” ở đây cần phải được hiểu là: thứ nhất: là diễn biến tâm lý của người tiến hành tố tụng khi đánh giá chứng cứ; thứ hai, chỉ xuất hiện trong trường hợp có nghi ngờ gây tranh cãi về tội của người bị buộc tội. Đó là trường hợp trong vụ án xuất hiện tình trạng có chứng cứ để nhận định rằng hành vi của người bị buộc tội có dấu hiệu của tội phạm nhưng không có chứng cứ thật đầy đủ, xác thực, chắc chắn để kết luận rằng người bị buộc tội phạm tội mặc dù đã áp dụng hết những biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật. Hoặc tình trạng có cả chứng cứ chứng minh người bị buộc tội có hành vi phạm tội và có cả chứng cứ chứng minh họ không phạm tội. Cả hai loại chứng cứ này không thực sự xác đáng, chắc chắn. Đây là tình trạng có “tranh cãi” về tội của người bị buộc tội. Trong trường hợp “tranh cãi” đó thì người tiến hành tố tụng phải “suy đoán” bằng việc giải thích có lợi cho người bị buộc tội, tức là suy đoán rằng họ vô tội, dành những chứng cứ chứng minh sự vô tộicho người bị buộc tội để họ được vô tội.
Ví dụ: khi có chứng cứ chứng minh bị can đã gây thương tích cho người khác nhưng không có chứng cứ rõ ràng, chắc chắn chứng minh bị can đã dùng dao để cố ý gây thương tích cho người khác thì phải “suy đoán – giải thích” rằng bị can không dùng dao để gây thương thích, từ đó không áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” để định tội danh Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a, Khoản 1 Điều 134 BLHS. Do vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội trong BLTTHS cần được sửa đổi theo hướng phân tích nêu trên để bảo đảm đúng tư tưởng, tinh thần của nó. Cụ thể, cần sửa đổi Điều 13 như sau: “Suy đoán vô tội như sau:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…
Những tranh cãi không khắc phục được về tội của người bị buộc tội được giải thích có lợi cho người bị buộc tội”.
Về mặt thực tiễn, để bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, ngành kiểm sát cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo cán bộ, trang bị cho đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên một cách đầy đủ kiến thức lý luận về nguyên tắc suy đoán vô tội và kiến thức kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự. Trên cơ sở đó nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cũng như trình độ lý luận, kinh nghiệm thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên, thực hiện được mục tiêu cao cả của ngành kiểm sát, đó là, không để xảy ra tình trạng oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Kiểm sát viên cao cấp, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
- Thạc sỹ, Phó trưởng Khoa đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Học viện Tư pháp.
- Điều 11 Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc ghi nhận: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”.
- Thông qua ngày 07/10/1977 tại Kỳ họp thứ 7 mở rộng của Xô Viết tối cao Liên Xô. Điều 160 Hiến pháp Liên Xô năm 1977 quy định: “Không ai bị coi là có tội trong việc thực hiện tội phạm và chịu hình phạt hình sự ngoài bản án của Tòa án và theo đúng quy định của pháp luật”.
- Thông qua bằng trưng cầu dân ý ngày 12/12/1993. Điều 48 Hiến pháp Liên Bang Nga năm 1993 hiện hành quy định: “1. Bị can trong việc thực hiện tội phạm được coi là không có tội khi tội của họ chưa được chứng minh theo trình tự quy định của pháp luật và chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án; 2. Bị can không có trách nhiệm chứng minh sự vô tội của mình; 3. Những tranh cãi (nghi ngờ) không khắc phục được về tội của bị can được giải thích có lợi cho bị can”.
- Quy chế Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) – sau đây gọi tắt là Quy chế xét xử 505; Chỉ thị số 09/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về “Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa”; Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án (Ban hành kèm theo Quyết định số 46/QĐ-VKSTC ngày 20/02/2017 của Việntrưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao – sau đây gọi tắt là quyết định số 46) và một số văn bản khác.
- Theo Quyết định số 46, về cách xưng hô đối với bị cáo là cá nhân, kiểm sát viên sử dụng từ “Bị cáo” hoặc cùng với tên hoặc họ tên của bị cáo. Trường hợp bị cáo là pháp nhân thương mại phạm tội, kiểm sát viên sử dụng từ “Bị cáo” hoặc cùng với tên đầy đủ của pháp nhân đó. Khi tranh luận tại phiên tòa, kiểm sát viên luôn bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến đúng đắn và bác bỏ những ý kiến, đề nghị không có căn cứ pháp luật, trái với đạo đức xã hội.
- Được quy định tại các Điều 266, 267 BLTTHS năm 2015.
- Điều 319 BLTTHS năm 2015. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 21 Quy chế xét xử 505 thì: “2.Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, nếu có căn cứ rõ ràng để rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn trong cùng điều luật làm thay đổi quyết định truy tố hoặc đường lối xử lý đã được lãnh đạo Viện kiểm sát cho ý kiến thì kiểm sát viên quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Sau phiên tòa, kiểm sát viên phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện kiểm sát. Trường hợp có đủ căn cứ để kết luận về một tội danh khác nặng hơn thì kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để xem xét và báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát quyết định”.
Trả lời