Mục lục
Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Lê Thị Thúy Nga [1]
TÓM TẮT
Nguyên tắc suy đoán vô tôi là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự, được thể hiện trong pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia. Suy đoán vô tội có ý nghĩa quan trọng vê mặt khoa học cũng như thực tiễn với vai trò là nền tảng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Bài viết đề cập tới thực trạng và một số giải pháp bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tiếp cận từ hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư.
Để xác định được sự thật của vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm chứng minh theo quy định tại Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) làm rõ những vấn đề buộc phải chứng minh theo quy định tại Điều 85 BLTTHS. Theo đó, trong quá trình tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật để chứng minh mình vô tội. Người bị buộc tội có quyền khai báo hoặc không khai báo (quyền im lặng). Đây là những nội dung cốt lõi của nguyên tắc suy đoán vô tội, theo triết lý đã tồn tại từ thời cổ xưa “ai đưa ra lời buộc tội thì người đó phải chứng minh”2. Ở phạm vi bao quát hơn, Nhà nước pháp quyền thừa nhận một nguyên tắc phổ quát của pháp luật khi nói về mối quan hệ giữa phạm vi đã được thể chế hóa và phạm vi không thể chế hóa. Đó là nguyên tắc suy đoán về tính hợp pháp của hành vi, nghĩa là hành vi của cá nhân phải luôn luôn được coi là hợp pháp khi chưa chứng minh được điều ngược lại3. Suy đoán vô tội được coi là nguyên tắc “vàng”, là “nét son” trong TTHS, một thành tựu vĩ đại của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người và chứng minh trong tố tụng hình sự. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự năm 1966 của Liên hợp quốc. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước cũng đã ghi nhận suy đoán vô tội là nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng hình sự. Ở nước ta, nguyên tắc suy đoán vô tội được “gọi tên” trong BLTTHS năm 2015 trên cơ sở quy định tại Khoản 1 Điều 131 Hiến pháp năm 2013 và kế thừa nội dung của Điều 9 BLTTHS năm 2003. Thực ra, đây không phải là một nguyên tắc hoàn toàn mới của luật tố tụng hình sự Việt Nam, mà được kế thừa nội dung và quy định chính xác, chặt chẽ hơn trong BLTTHS năm 2015. Theo Điều 13 BLTTHS năm 2015 thì:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đã được pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận và áp dụng trong nhiều năm qua, thể hiện tính dân chủ, khách quan của tố tụng hình sự. Mặc dù vậy, việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự nói chung, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng, còn có những hạn chế nhất định đòi hỏi tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự cho phù hợp và nâng cao chất lượng, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ những người tiến hành tố tụng, người bào chữa, bảo vệ cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự trong vụ án.
1. Thực trạng áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong thời gian vừa qua, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều nỗ lực giải quyết các vụ án theo đúng quy định pháp luật, tránh oan sai. Theo đó, cơ quan điều tra đã tích cực chấn chỉnh khắc phục tồn tại, thiếu sót trong hoạt động điều tra; Viện kiểm sát kiểm sát chặt chẽ hơn việc bắt người, khởi tố, điều tra, bảo đảm truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Tòa án nhân dân đã chú trọng hơn trong công tác xét xử, đảm bảo hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của luật sư cũng ngày càng được nâng cao góp phần vào việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội. Nhìn chung, công tác xét xử các vụ án hình sự trong những năm qua cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc tranh tụng tại phiên tòa tiếp tục được chú trọng theo hướng thực chất, hiệu quả. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn xét xử vụ án hình sự cũng cho thấy còn có những biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội từ phía các chủ thể như thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư. Cụ thể là:
Từ phía thẩm phán
Trong một số trường hợp, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam chưa đúng. Việc Tòa án thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam không nhiều dù một số trường hợp việc tạm giam trong giai đoạn xét xử không thật sự cần thiết. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, thẩm phán chủ tọa phiên tòa chưa làm tốt thủ tục bắt đầu phiên tòa, vẫn có tư tưởng coi đây là một thủ tục hành chính, mặc dù nó rất quan trọng khi xác định tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú, tiền án, tiền sự, ngày bắt, ngày tha, hoãn phiên tòa hay xét xử… Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử đôi khi còn hỏi mang tính chất “mớm cung”, áp đặt, thể hiện định hướng buộc tội.
Ví dụ: Có phiên tòa chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo nhiều lần theo hướng xác định bị cáo đã phạm tội như: “Bị cáo có ân hận không?”, “Chắc là bị cáo không thấy chứ xe số tự động thấy thì đánh lái sang phải sẽ không đụng rồi”, “Bằng lái bị cáo học ở đâu, bằng lái của bị cáo học hoàn toàn chứ không phải mua, đúng không? Có sát hạch hoàn toàn, đúng không?”, “Chắc chắn bị cáo không nói ra nhưng tôi nghĩ là bị cáo rất khổ tâm vì bị cáo cũng có con nhỏ, cũng có gia đình mất đi một người cha rất đau khổ”4.
Từ phía kiểm sát viên
Tại phiên tòa, vẫn còn trường hợp kiểm sát viên chỉ quan tâm đến việc buộc tội, không chú trọng đúng mức đến việc gỡ tội cũng như đến việc phát hiện kịp thời những vi phạm của Toà án và những người tham gia tố tụng khác để đề ra yêu cầu khắc phục hoặc tuy có phát hiện vi phạm nhưng do nể nang, ngại va chạm, né tránh không yêu cầu khắc phục, không kháng nghị, kiến nghị…5. Trong phần tranh luận, còn xảy ra tình trạng kiểm sát viên ít chú ý đến phát biểu của người bào chữa, ý kiến của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Trong một số vụ án, lời bào chữa của luật sư có những nội dung mâu thuẫn với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhưng kiểm sát viên không tranh luận làm rõ sự thật khách quan của vụ án, chưa tập trung vào những vấn đề đang còn nhiều ý kiến khác nhau để đưa ra chứng cứ, lập luận cụ thể mà nêu chung chung và khẳng định là có đủ căn cứ buộc tội như cáo trạng truy tố. Với chế độ thủ trưởng của Viện kiểm sát, kiểm sát viên ngoài việc tuân thủ các quy định của pháp luật, còn phải tuân thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát theo quy chế ngành kiểm sát. Mặc dù Điều 319 BLTTHS quy định “Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa”; Điều 320 BLTTHS quy định “Sau khi kết thúc việc xét hỏi, kiểm sát viên trình bày luận tội, nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì phải rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo không phạm tội” nhưng trong thực tiễn xét xử, việc kiểm sát viên rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố rất ít khi xảy ra. Nếu thấy không đủ căn cứ buộc tội, Kiểm sát viên sẽ căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 280 BLTTHS để đề nghị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung mặc dù đây là quy định về trả hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Nếu Tòa án chấp nhận đề nghị này, trả hồ sơ lại cho Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát sẽ đình chỉ vụ án nếu thấy không đủ chứng cứ buộc tội thay vì theo đúng quy định là Tòa án xét xử và ra bản án tuyên bố bị cáo không phạm tội.
Từ phía luật sư
Luật sư, với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc tội, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 73 BLTTHS. Tại phiên tòa, một số trường hợp, luật sư chưa tập trung xét hỏi nhằm làm rõ chứng cứ có lợi cho thân chủ, đặc biệt là các chứng cứ chứng minh thân chủ không phạm tội; còn có biểu hiện “xuôi chiều” theo quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát, chỉ xét hỏi nhằm làm rõ một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Những biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội như nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ bất cập của các quy định pháp luật đến ý thức, năng lực của những người tiến hành tố tụng. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là từ quan niệm, thói quen giải quyết vụ án trên cơ sở “án tại hồ sơ”, chưa chú ý đến các chứng cứ, lời khai tại phiên tòa, ý kiến của luật sư bào chữa. Mặc dù BLTTHS đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm đề cao tính dân chủ, minh bạch, khách quan trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhưng nhiều người tiến hành tố tụng vẫn còn tư tưởng luôn nhìn bị can, bị cáo là người phạm tội. Bên cạnh đó, những sai sót từ giai đoạn điều tra, việc điều tra không khách quan đã gây không ít khó khăn cho hoạt động xét xử.
2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự
Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, cần hoàn thiện đồng bộ các quy định và bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của tố tụng hình sự. Việc sửa đổi các quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử cần theo định hướng bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đặc biệt là tạm giam vừa phù hợp vừa được kiểm soát chặt chẽ; tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa. Một số gợi ý sửa đổi các quy định của BLTTHS hiện hành theo định hướng này như sau:
Thứ nhất, sửa đổi Điều 13 về nguyên tắc suy đoán vô tội cho chính xác
Đoạn 2 Điều 13 BLTTHS quy định “Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội là không có tội”. Điều luật dùng chữ “và” trong đoạn 2 là không chính xác vì không đủ căn cứ buộc tội phải đồng nghĩa với “không thể làm sáng tỏ căn cứ buộc tội”. Do đó, chỉ cần không đủ căn cứ buộc tội thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Thứ hai, sửa đổi quy định về thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử
Theo quy định tại Điều 45 BLTTHS, Thẩm phán được quyền ra các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ biện pháp tạm giam. Việc quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thuộc thẩm quyền của Chánh án, Phó Chánh án (điểm a, Khoản 2 Điều 44 BLTTHS). Quy định này theo chúng tôi không thật là phù hợp, hạn chế quyền của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thẩm phán xét thấy không cần thiết phải thay đổi biện pháp ngăn chặn để áp dụng biện pháp tạm giam thì cũng không thể giải quyết kịp thời mà phải đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án quyết định. Để việc áp dụng biện pháp tạm giam được kịp thời, đúng căn cứ, bảo đảm phù hợp giữa người có điều kiện đánh giá về các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam và người có quyền quyết định áp dụng biện pháp này, chúng tôi đề xuất quy định thẩm quyền của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trong việc áp dụng biện pháp tạm giam đồng thời với việc tăng cường kiểm tra, giám sát phát hiện vi phạm trong việc áp dụng biện pháp tạm giam của chủ thể này.
Thứ ba, sửa đổi các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Điều 73 BLTTHS quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Theo đó, người bào chữa có 14 quyền. Tuy nhiên, có một số quy định chưa rõ ràng hoặc chưa đầy đủ ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của luật sư. Cụ thể là:
– Điểm k, Khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”. Như vậy, Luật sư có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giám định, định giá tài sản lần đầu không? Thực tế, các luật sư bào chữa vẫn thực hiện quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản lần đầu nhưng trên cơ sở căn cứ vào điểm g Khoản 1 Điều 73 BLTTHS “Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định tại Bộ luật này….”, trong đó hoạt động tố tụng bao gồm cả giám định, định giá lần đầu, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Theo chúng tôi, cần sửa đổi điểm k Khoản 1 Điều 73 BLTTHS theo hướng người bào chữa có quyền “Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định, giám định bổ sung, giám định lại, định giá, định giá lại tài sản”.
– Điểm h Khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định luật sư có quyền “thu thập chứng cứ”. Đây được coi là điểm mới của BLTTHS, nhằm bảo đảm cho người bào chữa thực hiện tốt hơn việc bảo chữa cho người bị buộc tội. Tuy nhiên, gần như chưa có những biện pháp bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền thu thập chứng cứ nên sự phối hợp của những cơ quan, cá nhân có liên quan chủ yếu xuất phát từ quan hệ cá nhân của luật sư. Thực tế, khi luật sư đề nghị tiếp xúc, trao đổi với bị hại, người làm chứng, người khác biết về vụ án hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, rất nhiều trường hợp người được đề nghị từ chối. Điều này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân như không tin tưởng luật sư, không muốn cung cấp, ngại mất thời gian, ngại gặp rắc rối và quan trọng là không có bất kỳ chế tài, ràng buộc nào đối với họ về trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật cho luật sư. Do đặc thù nghề nghiệp, luật sư đơn phương thực hiện các hoạt động nghề nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi cho thân chủ nên thường gặp khó khăn, bất lợi hơn trong việc tiếp cận, phát hiện và thu thập các chứng cứ liên quan để phục vụ cho quá trình bào chữa. Về vấn đề này, PGS.TS. Trần Văn Độ chia sẻ: “Nếu người làm chứng từ chối trả lời thì người bào chữa biết làm sao? Trong khi các cơ quan tố tụng hỏi thì họ bắt buộc có nghĩa vụ trả lời. Như vậy là chưa bình đẳng” và “Nếu mở rộng quyền cho luật sư hỏi, đồng thời quy định người làm chứng có nghĩa vụ phải trả lời thì cũng là một kênh thuận lợi để đảm bảo tính khách quan, toàn diện”6. Theo chúng tôi, những cơ chế hỗ trợ cho luật sư thực hiện quyền thu thập chứng cứ là cần thiết để quyền của luật sư không chỉ là những “mỹ từ” trong luật.
Các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương cũng cần nghiên cứu, ban hành văn bản quy định cụ thể việc Luật sư tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng nhằm bảo đảm để Luật sư thực hiện đúng, đủ và thuận lợi các quy định của pháp luật hình sự, góp phần bảo đảm công tác điều tra, truy tố xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ tư, sửa đổi các quy định nhằm tăng cường hiệu quả tranh tụng trong xét xử
Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện sự thừa nhận quy luật tất yếu khách quan là tính tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể có lợi ích đối lập nhau trong tố tụng hình sự: bên buộc tội và bên bào chữa (gỡ tội). Nguyên tắc tranh tụng có những nội dung cốt lõi như sự bình đẳng giữa những người có thẩm quyền tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án; bảo đảm sự độc lập của Tòa án với vai trò là chủ thể tạo điều kiện cho những chủ thể tranh tụng là Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác tranh tụng bình đẳng; bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa… Bảo đảm tranh tụng thực chất và hiệu quả cũng là bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo đó, cần có những tiền đề pháp lý nhất định đảm đảm nguyên tắc tranh tụng như sự thừa nhận tư cách “các bên tranh tụng” giữa các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và đảm bảo sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể này; đảm bảo sự độc lập của Tòa án với tư cách là chủ thể thực hiện chức năng xét xử, “mọi yếu tố làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án phải được loại bỏ” và “không thể để lẫn lộn giữa chức năng buộc tội với chức năng xét xử”7. Theo định hướng này, cần sửa đổi các quy định BLTTHS như:
– Sửa đổi quy định về phân định các chủ thể theo chức năng tố tụng thành các nhóm chủ thể buộc tội, các chủ thể bào chữa. Tòa án và các chủ thể tố tụng khác thay vì theo vị thế tố tụng (người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng) như hiện nay. Việc thay đổi cơ cấu của BLTTHS về chủ thể tố tụng hình sự như nêu trên là tiền đề để quy định về địa vị pháp lý của mỗi nhóm chủ thể tố tụng hình sự phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng.
– Sửa đổi nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 18) theo hướng bỏ quy định về trách nhiệm khởi tố vụ án của Tòa án. Mặc dù có ý kiến cho rằng việc quy định Tòa án có quyền khởi tố vụ án không đồng nghĩa với việc Tòa án thực hiện chức năng buộc tội vì “nếu chỉ dừng ở việc khởi tố vụ án thì chức năng buộc tội cũng chưa bắt đầu”8 song theo quan điểm của chúng tôi khởi tố vụ án là hoạt động nhằm khởi động tiến trình tố tụng hình sự, là trình tự cần thiết về mặt tố tụng và gắn bó chặt chẽ với việc thực hiện các hoạt động tiếp theo thuộc phạm vi của chức năng buộc tội như khởi tố bị can, điều tra vụ án. Quy định Tòa án có thẩm quyền khởi tố vụ án vừa là sự chồng lấn giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử vừa dễ dẫn tới những định kiến, thiếu khách quan, vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội khi Tòa án xét xử chính vụ án mà mình đã khởi tố trước đó. Vì vậy, cần bỏ quy định về trách nhiệm và thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Tòa án theo quy định tại các Điều 18, 154 BLTTHS. Để tránh bỏ lọt tội phạm, chỉ nên quy định trong quá trình xét xử nếu phát hiện việc bỏ lọt tội phạm thì Toà án kiến nghị để Viện kiểm sát và cơ quan điều tra khởi tố vụ án.
– Sửa đổi nguyên tắc xác định sự thật vụ án (Điều 15): Điều 15 BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà chưa phân biệt được trách nhiệm chứng minh của mỗi cơ quan trên cơ sở chức năng tố tụng hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015 gồm cả chủ thể thực hiện chức năng buộc tội (cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát) và chủ thể thực hiện chức năng xét xử (Tòa án). Việc quy định trách nhiệm của tất cả các cơ quan này như nhau trong chứng minh tội phạm là chưa hợp lý, có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra bản án và quyết của mình. Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, cần sửa đổi nguyên tắc xác định sự thật vụ án theo hướng phân biệt rõ ràng hơn trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự của các chủ thể trong tố tụng hình sự phù hợp với chức năng tố tụng theo đó chủ thể buộc tội (Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát) chứng minh tội phạm phục vụ việc buộc tội, Tòa án chứng minh sự thật vụ án làm cơ sở cho việc đưa ra phán quyết về vụ án.
– Sửa đổi quy định về trường hợp Kiểm sát viên rút quyết định truy tố tại phiên tòa: Theo nguyên tắc chỉ khi có buộc tội mới có gỡ tội (bào chữa) và xét xử; khi không còn sự buộc tội thì việc bào chữa và xét xử cũng không còn. Nếu Viện kiểm sát rút quyết định truy tố kể cả trước và trong phiên toà thì toà án phải đình chỉ xét xử đối với bị cáo hoặc đối với hành vi đó bởi lẽ khi Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với một bị cáo nghĩa là chấm dứt việc buộc tội đối với bị cáo đó và khi chức năng buộc tội không còn thì sẽ không còn cơ sở làm phát sinh tranh tụng giữa các bên, không còn cơ sở cho sự tồn tại của chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Vì vậy, Điều 325 BLTTHS năm 2015 cần được sửa đổi theo hướng nếu Viện kiểm sát rút một phần quyết định truy tố thì Tòa án chỉ xét xử phần quyết định truy tố không bị rút; nếu Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố thì Tòa án phải đình chỉ việc xét xử. Ngoài ra, theo Điều 319 BLTTHS, sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Các Điều 321, 325 BLTTHS cũng quy định việc Kiểm sát viên “kết luận về tội nhẹ hơn”. Như vậy, tại phiên tòa Kiểm sát viên có quyền kết luận về tội bằng với tội đã ra quyết định truy tố không? Theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 266 BLTTHS thì kiểm sát viên có quyền này, nhưng các quy định về hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa lại chưa đề cập tới. Do đó, cần sửa đổi các quy định tương ứng cho phù hợp, thống nhất.
2.2. Các giải pháp khác
Những biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội chủ yếu xuất phát từ tâm lý “án tại hồ sơ” và định kiến buộc tội của những người tiến hành tố tụng cũng như sự hạn chế về năng lực, trình độ, ý thức nghề nghiệp của luật sư khi bào chữa cho bị cáo. Do đó, việc nâng cao trình độ, ý thức trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư là giải pháp quan trọng. Một số giải pháp cụ thể như sau:
– Quy định cụ thể và thực hiện nghiêm túc chế độ đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư. Để hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư đạt hiệu quả, có thể chú trọng một số giải pháp như:
+ Đổi mới hoạt động đào tạo nghề nghiệp cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư thông qua việc xây dựng chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên bảo đảm tính chuẩn mực, thực tế; chuẩn đầu ra của chương trình đáp ứng dược đòi hỏi của thực tiễn nghề nghiệp;
+ Nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư trong đó đặc biệt lưu ý việc xây dựng các chương trình bồi dưỡng, tập huấn theo chuyên đề. Nếu như đào tạo cơ bản ban đầu tạo nền tảng về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư thì bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên là hoạt động nhằm giúp đội ngũ cán bộ này cập nhật kiến thức, kinh nghiệm trong suốt quá trình hành nghề để đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới của thực tiễn nghề nghiệp. Một số lớp bồi dưỡng được tổ chức gần đây đã đạt được chất lượng, hiệu quả tốt; những kinh nghiệm trong xây dựng chương trình và tổ chức bồi dưỡng cần được nhân rộng trong thời gian sắp tới. Ví dụ: Trong năm 2017 và năm 2018, Học viện Tư pháp, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức 04 lớp bồi dưỡng về kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội với các chuyên đề như: Kỹ năng chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của kiểm sát viên; Kỹ năng sử dụng tư duy logic trong hoạt động tranh tụng; Kỹ năng xét hỏi; Kỹ năng xây dựng bản luận tội; Kỹ năng đối đáp tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tại các lớp bồi dưỡng này, học viên không chỉ nghe giảng viên thuyết trình mà trực tiếp nghiên cứu, xử lý các hồ sơ tình huống là những vụ án có thật được biên tập phù hợp với mục tiêu của mỗi bài học; trực tiếp tham gia đóng vai kiểm sát viên và tranh tụng với các thẩm phán, luật sư giàu kinh nghiệm đang thực tế hành nghề. Phương pháp bồi dưỡng này đã giúp học viên chủ động tích lũy được các kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp và có những trải nghiệm khi tự mình giải quyết các tình huống thực tế trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa.
– Giảm bớt áp lực công việc đối với thẩm phán, kiểm sát viên; bảo đảm cho thẩm phán, kiểm sát viên có đủ thời gian vật chất để chuyên tâm nghiên cứu, giải quyết vụ án; cần giải quyết tình trạng thiếu thẩm phán, thiếu kiểm sát viên hoặc quy định không phù hợp về biên chế thẩm phán, kiểm sát viên; bảo đảm chế độ tiền lương, các điều kiện, phương tiện làm việc để thẩm phán, kiểm sát viên yên tâm công tác.
– Bản thân các thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật hình sự, đúc rút kinh nghiệm trong thực tiễn xét xử, rèn luyện kỹ năng viết, kỹ năng nói; thường xuyên rèn luyện bản lĩnh, đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, nêu cao tinh thần bảo vệ công lý, thượng tôn pháp luật, thận trọng và tỉ mỉ trong giải quyết vụ án./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Giảng viên Trưởng Khoa Đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Học viện Tư pháp.
- PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Suy đoán vô tội: Nét son trong tố tụng, https://plo.vn/phap-luat/suy-doan-vo-toi-net- son-trong-to-tung-611793.html, truy cập ngày 04/6/2020.
- Đinh Thế Hưng, Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ở Việt Nam, Tạp chí TAND điện tử https://tapchitoaan.vn/bai- viet/phap-luat/thuc-hien-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-to-tung-hinh-su-viet-nam-2, truy cập ngày 20/5/2020.
- Thanh Tùng, Không được xét hỏi “mớm cung”, https://plo.vn/plo/khong-duoc-xet-hoi-mom-cung-326140.html.
- Trần Thị Hương (2018), Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thâm án hình sự tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học.
- Tranh cãi việc luật sư thu thập chứng cứ, http://tuvanphapluat.com/luat-su/dan-su/78-tin-tuc/361-tranh-cai-chuyen-luat-su-thu-thap-chung-cu, truy cập ngày 4/5/2020.
- Nguyễn Hoàng Thịnh (2018), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2018, bài viết trên website tapchitoaan.vn, truy cập ngày 2/10/2019.
- Đặng Văn Phượng (2016), Chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr.22.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Suy đoán vô tội: Nét son trong tố tụng, https://plo.vn/phap- luat/suy-doan-vo-toi-net-son-trong-to-tung- 611793.html, truy cập ngày 4/6/2020.
- Đinh Thế Hưng, Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội ở Việt Nam – Tạp chí TAND điện tử https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/thuc- hien-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-to-tung- hinh-su-viet-nam-2, truy cập ngày 20/5/2020.
- Tranh cãi việc luật sư thu thập chứng cứ, http://tuvanphapluat.com/luat-su/dan-su/78-tin- tuc/361-tranh-cai-chuyen-luat-su-thu-thap- chung-cu, truy cập ngày 4/5/2020.
- Thanh Tùng, Không được xét hỏi “mớm cung”, https://plo.vn/plo/khong-duoc-xet-hoi- mom-cung-326140.html.
- Nguyễn Hoàng Thịnh (2018), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2018, bài viết trên website tapchitoaan.vn, truy cập ngày 2/10/2019.
- Trần Thị Hương (2018), Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình sự tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học.
- Đặng Văn Phượng (2016), Chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Trả lời