Hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo vệ người làm chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Tác giả: Nguyễn Kim Chi [1] & Nguyễn Thị Thu Uyên [2]
TÓM TẮT
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, những thông tin do người làm chứng cung cấp có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần phát hiện tội phạm và giải quyết vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều vụ án hình sự, người làm chứng lại có thái độ thờ ơ, bất hợp tác hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan có thẩm quyền để phát hiện, xử lý tội phạm. Nguyên nhân của tình trạng trên không chỉ do chủ quan người làm chứng mà trước hết là do những thiếu sót, bất cập của chế định pháp lý và công tác bảo vệ người làm chứng hiện nay. Bài viết phân tích nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về bảo vệ người làm chứng và người thân thích của họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, chỉ ra một số những bấp cập đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi một số quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả về bảo vệ người làm chứng, người thân thích của người làm chứng.
1. Sự cần thiết phải bảo vệ người làm chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, người làm chứng giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp lời khai làm rõ các tình tiết của vụ án, giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định được sự thật khách quan. Tuy nhiên, cũng vì lý do này, mà người làm chứng có thể bị các thế lực tội phạm đe dọa, khống chế, thậm chí xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của bản thân và người thân thích. Người làm chứng có thể bị mua chuộc, bị khống chế, thậm chí bị thủ tiêu. Đặc biệt, trong các vụ án liên quan đến tội phạm có tổ chức, tội phạm mafia, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm ma túy, tội phạm tham nhũng, v.v… nhu cầu bảo vệ người làm chứng lại càng trở nên cấp thiết.
Vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam, cũng như đa số các quốc gia trên thế giới đều có quy định về bảo vệ người làm chứng. Người làm chứng có quyền được yêu cầu bảo vệ, và được áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng phù hợp theo luật định.
Mục đích của hoạt động bảo vệ người làm chứng, chủ yếu là nhằm tạo điều kiện cho người làm chứng cung cấp lời khai trung thực, chính xác, đầy đủ, kịp thời, góp phần giải quyết nguồn tin về tội phạm, vụ án hình sự một cách chính xác, khách quan, nhanh chóng, và đúng pháp luật.
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án, và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng3.
Trường hợp người làm chứng bị đe dọa dẫn đến không dám khai báo, hoặc người làm chứng phản cung, thay đổi lời khai ban đầu sẽ làm cho hoạt động xét xử gặp rất nhiều khó khăn, bế tắc. Người phạm tội đích thực vẫn tiếp tục nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, nhiệm vụ của tố tụng hình sự không hoàn thành, chân lý khách quan của vụ án không xác định được. Bảo vệ người làm chứng giúp người làm chứng cung cấp lời khai trung thực, đầy đủ, chính xác, giúp giải quyết nguồn tin về tội phạm, vụ án hình sự một cách chính xác, khách quan, nhanh chóng, và đúng pháp luật. Bảo vệ người làm chứng thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và pháp quyền, quyết tâm bảo vệ công lý và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Như vậy, bảo vệ người làm chứng là vấn đề cực kỳ quan trọng và có tính thời sự ở nhiều nước trên thế giới. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp bảo vệ người làm chứng là một trong những yếu tố nâng cao đáng kể tính xác thực và giá trị chứng minh cho lời khai của người làm chứng trong vụ án. Một khi các biện pháp bảo vệ người làm chứng được áp dụng hiệu quả thì sẽ góp phần hạn chế được hiện tượng khai báo gian dối, phủ nhận lời khai ban đầu bởi tâm lý sợ bị trả thù của người làm chứng. Điều này cũng tác động tích cực đến hoạt động tố tụng của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm.
2. Một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo vệ người làm chứng và thực tiễn áp dụng
Cơ chế bảo vệ người làm chứng được quy định chung trong Chương XXXIV (từ Điều 484 đến Điều 490 BLTTHS năm 2015) cùng với các biện pháp bảo vệ người tố giác tội phạm, bị hại và người tham gia tố tụng khác.
Theo đó, khi tham gia tố tụng, người làm chứng nếu bị cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có hành vi đe doạ hoặc cưỡng bức đến bản thân hoặc người thân thích trong gia đình thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ được quy định tại Điều 486 BLTTHS năm 2015. Trong giai đoạn xét xử, nếu xét thấy có căn cứ cho rằng người làm chứng hoặc người thân thích của người làm chứng sẽ bị xâm hại thì Tòa án đang giải quyết vụ án có quyền đề nghị cơ quan điều tra đã điều tra vụ án đó có trách nhiệm tổ chức, triển khai các biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản và các lợi ích hợp pháp khác của người làm chứng.
Thời gian bảo vệ người làm chứng được tính từ khi có quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ cho đến khi có quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ quy định tại Điều 489 BLTTHS, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm. Đây là bước tiến mới của BLTTHS năm 2015 khi quy định thời điểm người làm chứng tham gia tố tụng sớm hơn so với quy định tại BLTTHS năm 2003. Đồng thời, xác định rõ cơ chế, biện pháp bảo vệ người làm chứng, tạo tâm lý an tâm cho người tham gia làm chứng khi tham gia tố tụng nhất là những vụ án phức tạp có tổ chức. Điều này thể hiện tinh thần cải cách tư pháp của nước ta đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với pháp luật quốc tế, đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm, chống oan sai và bỏ lọt tội phạm, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh, kinh tế, pháp luật trong điều kiện đất nước đang trong quá trình hội nhập4.
BLTTHS năm 2015 bổ sung quyền của người làm chứng được thông báo và giải thích về quyền và nghĩa vụ; gián tiếp cho thấy người làm chứng có thể được triệu tập tham gia tố tụng từ rất sớm – khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm. BLTTHS năm 2015 cũng xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc phải tạo điều kiện để người làm chứng tham gia tố tụng. Những bổ sung trên cùng với việc ghi nhận các biện pháp bảo vệ tại Chương XXXIV góp phần đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người làm chứng, giúp người làm chứng yên tâm, tích cực tham gia tố tụng, góp phần sáng định sự thật vụ án, bảo vệ công bằng xã hội5.
Sau một thời gian thi hành trên thực tế, các quy định của BLTTHS năm 2015 về bảo vệ người làm chứng đã phát huy hiệu lực, hiệu quả trên thực tế, đóng góp đáng kể vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là các loại tội phạm nguy hiểm như tội phạm có tổ chức, tội phạm tham nhũng, ma túy, v.v…
Tuy nhiên, trong nhiều vụ án hình sự, người làm chứng tỏ ra e ngại, bất hợp tác hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan có thẩm quyền trong các khâu phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Căn nguyên của tình trạng trên một phần là do chủ quan của người làm chứng (họ lo sợ bị trả thù, bị đe dọa, bị khống chế, mất thời gian, tốn kém chi phí…) nhưng một phần là do những thiếu sót, bất cập của chế định pháp lý hiện hành về bảo vệ người làm chứng.
Một số quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến chế định bảo vệ người làm chứng trong vụ án hình sự còn chung chung và mang tính nguyên tắc làm cho người dân thiếu hiểu biết về quyền được bảo vệ của mình và các cơ quan chức năng gặp thì lúng túng, không triển khai thực hiện được. Vì vậy, trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự đã xuất hiện nhiều tình huống cần phải áp dụng các biện pháp để bảo vệ người làm chứng cũng như người thân thích của họ, nhưng hầu như đã bị “bỏ qua”. Chính vì vậy, người làm chứng có cảm giác không yên tâm khi tham gia tố tụng, đã dẫn đến thái độ thờ ơ, né tránh của người làm chứng, đã tác động tiêu cực đến thái độ hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng của họ. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa: Mặc dù BLTTHS xác định sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa là quan trọng, góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhưng quy định về sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa là quy định tùy nghi có nghĩa là không ràng buộc trường hợp nào thì phải hoãn phiên tòa còn trường hợp nào phải tiếp tục vắng mặt. Hội đồng xét xử có thể quyết định cho phép người làm chứng có thể vắng mặt tại phiên tòa nếu trước đó đã có lời khai ở cơ quan điều tra. Quy định này đã tạo khe hở pháp luật là có những lời khai của người làm chứng chưa được làm rõ tại phiên tòa nhưng vẫn được sử dụng làm căn cứ xác định tội phạm. Việc không bảo đảm quyền tham gia phiên tòa để thẩm tra lại chứng cứ của người làm chứng sẽ dẫn đến sự vi phạm quyền được bào chữa của bị can, bị cáo. Vì những bất cập đó mà việc bảo vệ người làm chứng ít được áp dụng.
Thứ hai, BLTTHS năm 2015 quy định người làm chứng có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia làm chứng (Điều 66 BLTTHS năm 2015) nhưng lại không có cơ chế bảo đảm quyền yêu cầu khôi phục danh dự, quyền lợi, bồi thường thiệt hại khi việc khiếu nại của mình là đúng.
Thứ ba, BLTTHS năm 2015 đã có những quy định về bảo vệ người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng vẫn còn điểm hạn chế. Người làm chứng là người dưới 18 tuổi khi được triệu tập đến tòa sẽ có người đại diện đi cùng nhưng không có quy định về việc thanh toán chi phí cho người tham gia tố tụng là người đại diện, nhà trường, tổ chức trong vụ án có người làm chứng dưới 18 tuổi.
Thứ tư, thời gian bảo vệ người làm chứng được tính từ khi có quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ cho đến khi có quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ quy định tại Điều 489 BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 không quy định trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được đơn của người làm chứng yêu cầu bảo vệ thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, điều này sẽ không tránh khỏi việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng tuỳ tiện, không kịp thời, thậm chí còn không muốn áp dụng vì liên quan đến kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ người được bảo vệ và quản thúc việc đi lại của người làm chứng.
Thứ năm, BLTTHS năm 2015 cũng không nêu rõ trách nhiệm phải bảo vệ người làm chứng sau khi vụ án được xét xử xong, nhưng nguy cơ bị xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự của người làm chứng sau khi xét xử vụ án là có.
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ người làm chứng
Những bất cập của BLTTHS năm 2015 nêu trên cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cơ chế bảo vệ người làm chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự chưa thật sự hiệu quả. Vì vậy, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật như sau:
Cần bổ sung quy định về bảo vệ người làm chứng trong BLTTHS về các trường hợp:
Thứ nhất, không được tiết lộ hoặc tiết lộ hạn chế thông tin liên quan đến nhận dạng hoặc nơi ở của người làm chứng trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự. Ví dụ, khi tiến hành đối chất, nhận dạng giữa người làm chứng với bị can, bị cáo trong các trường hợp người làm chứng có nguy cơ bị khống chế, đe dọa trả thù thì không để cho người làm chứng tiếp xúc trực tiếp với bị can, bị cáo; có biện pháp thích hợp để giữ bí mật về thông tin tên, tuổi, địa chỉ của người làm chứng trong hồ sơ vụ án khi chuyển hồ sơ cho luật sư bào chữa nghiên cứu trước khi vụ án được đưa ra xét xử; nghiên cứu xây dựng các quy định không cho chụp ảnh, ghi hình tại các phiên tòa và đăng thông tin về ảnh, tên tuổi, địa chỉ của người làm chứng trong các trường hợp có căn cứ để cho rằng người làm chứng có thể bị đe dọa, trả thù…
Thứ hai, cần xây dựng cơ sở pháp lý cho phép áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng để tránh nguy cơ bị đe dọa, trả thù. Ví dụ, di chuyển người làm chứng đến nơi khác một thời gian hoặc thay đổi nơi ở, nơi làm việc của người làm chứng; thay đổi tên, tuổi, nhận dạng và các yếu tố nhân thân của người làm chứng.
Thứ ba, bổ sung một số quy định thể hiện sự quan tâm hơn nữa đối với một số đối tượng làm chứng đặc biệt như: người làm chứng dưới 18 tuổi, người làm chứng bị hạn chế về mặt thể chất và tinh thần (nhưng chưa đến mức mất khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án). Thứ tư, quy định rõ về quyền khiếu nại của người làm chứng, đảm bảo giải quyết khiếu nại, tránh kéo dài thời hạn giải quyết, không giải quyết một cách hình thức, thiếu hiệu quả. Nếu khiếu nại của người làm chứng là đúng thì cần có cơ chế khôi phục danh dự, nhân phẩm và bồi thường thiệt hại cho người làm chứng.
Chế định người làm chứng là một trong những chế định lâu đời và cổ xưa nhất trong hệ thống pháp luật trên thế giới cũng như ở nước ta xuất phát từ lời khai của người làm chứng là nguồn chứng cứ quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết đúng đắn vụ án. Lời khai của người làm chứng càng quan trọng, có giá trị chứng minh vụ án càng cao thì nguy cơ người làm chứng cũng như người thân thích của người làm chứng bị đối tượng phạm tội, đồng bọn hoặc thân nhân của chúng đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền lợi hợp pháp của người làm chứng và người thân thích của người làm chứng sẽ càng lớn.
Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về bảo vệ người làm chứng ở Việt Nam, trên cơ sở hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2015, để tăng cường hiệu quả của hoạt động giải quyết vụ án hình sự./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Giảng viên Khoa Đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Học viện Tư pháp.
- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân. Hà Nội.
- Nguyễn Văn Hùng (2016). “Một số vấn đề về người làm chứng và bảo vệ người làm chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 6/2016.
- Theo Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần thứ nhất: “Những quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Bình luận Những điểm mới cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tr. 82.
Trả lời