Xét xử lưu động vụ án hình sự
Tác giả: Cao Thị Ngọc Hà [1] & Tống Thị Thanh Thanh [2]
TÓM TẮT
Xét xử lưu động là hình thức xét xử công khai, nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa tội phạm. Nhìn từ góc độ lợi ích chung thì phiên tòa lưu động là cơ hội để trực tiếp chuyển tải các quy định của pháp luật đến với người dân; ngoài tác dụng phổ biến pháp luật còn có tác dụng cảnh báo, răn đe, giáo dục chung đối với mọi người. Xét xử lưu động có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Từ những hạn chế của xét xử lưu động, bài viết nêu lên một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về xét xử lưu động trong tố tụng hình sự Việt Nam.
1. Xét xử lưu động là gì?
Xét xử lưu động là việc Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai ngoài trụ sở Tòa án. Địa điểm xét xử lưu động thường ở tại địa phương, nơi xảy ra vụ án, vụ việc hoặc nơi cư trú của bị cáo. Tòa án xét xử lưu động không chỉ đối với các vụ án hình sự mà cả các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính… Tuy nhiên, do đặc thù về tính chất, mục đích của việc xét xử đối với các loại án này nên Tòa án thường chỉ đưa ra xét xử lưu động đối với các vụ án hình sự.
2. Một số bất cập và hướng hoàn thiện về xét xử lưu động
Xét xử lưu động là một hoạt động thường xuyên, liên tục của các cấp Tòa án suốt lịch sử hình thành và phát triển từ năm 1945 đến nay. Do điều kiện lúc bấy giờ, các trụ sở Tòa án còn eo hẹp, phải mượn những địa điểm công cộng để tổ chức phiên tòa. Phiên tòa đầu tiên của Tòa án Bắc Bộ xét xử tại Dinh Tổng đốc Hà Đông và sau đó đình La Khê được mượn làm địa điểm xét xử chính. Vụ xét xử đầu tiên của Tòa án Trung Bộ được tổ chức tại thành Nội kinh thành Huế3… Tuy xét xử lưu động có từ thời kháng chiến và được thực hiện trong một thời gian dài nhưng không hề có văn bản pháp luật hướng dẫn riêng biệt. Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định về việc Tòa án xét xử công khai, xét xử kín4. Mặc dù, trong Hiến pháp, trong các bộ luật có liên quan không có quy định cụ thể về xét xử lưu động. Mãi đến Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 mới có quy định Tòa án nhân dân các cấp thông qua công tác xét xử tại trụ sở, lựa chọn các vụ án thích hợp có tính giáo dục cao để tổ chức xét xử lưu động nhằm phổ biến, giáo dục pháp luật cho người tham dự phiên tòa và nhân dân. Sau đó, Nghị quyết số 37/2012 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013 mới quy định: “Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa… Nâng tỷ lệ hòa giải thành các vụ việc dân sự và tăng số vụ án hình sự xét xử lưu động; không để xảy ra trường hợp kết án oan người không phạm tội”.
Với yêu cầu bảo vệ, bảo đảm quyền con người, đề cao việc tôn trọng phẩm giá và danh dự con người cùng với đó là yêu cầu cơ quan Tòa án – cơ quan bảo vệ công lý là chỉ được làm những gì pháp luật cho phép đã có nhiều ý kiến đề nghị chấm dứt việc đưa vụ án ra xét xử lưu động. Nhiều ý kiến cho rằng, trước đây, do điều kiện còn khó khăn nên để tuyên truyền pháp luật, chúng ta phải đến tận nơi để xét xử, nhưng với trình độ công nghệ thông tin hiện nay, không nhất thiết phải đến tận nơi mới tiếp cận được thông tin phiên tòa. Việc đưa phiên tòa lưu động đến các nơi xảy ra vụ án thì cũng có lợi về mặt tuyên truyền nhưng cũng có những bất lợi khác. Chẳng hạn như tính nghiêm minh của phiên tòa khi xét xử ngoài phòng xử án; quyền con người theo quy định của Hiến pháp, bị cáo đưa ra tòa chưa chắc đã có tội sẽ ảnh hưởng đến quyền con người, quyền của những người thân thích, cha mẹ, con cái… Không nên tiếp tục xét xử lưu động vụ án hình sự bởi những hệ lụy mà nó mang lại nhiều hơn là ý nghĩa về mặt tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Thực tế, chúng ta nên phát huy những phương pháp khác để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chứ không nên sử dụng hoạt động xét xử để thực hiện mục đích tuyên truyền ngay tại phiên tòa, làm như vậy dễ vi phạm những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, trong đó có nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc công bằng, bình đẳng… Tuy nhiên, theo chúng tôi thì việc bỏ hay vẫn tiếp tục xét xử lưu động cần phải được khảo sát, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm… để xem xét về sự cần thiết của việc duy trì hình thức xét xử này. Trên cơ sở đó đề xuất quy định cụ thể vấn đề này trong các đạo luật về tố tụng tư pháp do Quốc hội ban hành. Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự không có quy định về xét xử lưu động, việc xét xử luôn phải bảo đảm công bằng, khách quan, toàn diện, triệt để và đầy đủ. Do vậy, dù xét xử lưu động hay xét xử tại trụ sở Tòa án về nguyên tắc là giống nhau và không có sự phân biệt.
Thực tế cho thấy, phần lớn các phiên tòa xử tại trụ sở Tòa án thường vắng người, ngoài những người tham gia tố tụng được Tòa án triệu tập chỉ có thêm một vài người nhà bị cáo, thậm chỉ có những phiên tòa chỉ có một mình bị cáo. Trái lại, hầu hết những phiên tòa xử lưu động lại đông người thu hút lượng lớn người dân tham gia, nhiều nơi phải xử ở ngoài trời để mọi người đều được theo dõi phiên tòa. Do đó, không ai có thể phủ nhận tính hiệu quả của hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phiên tòa xét xử lưu động. Điển hình cho việc xét xử lưu động trong thời gian gần đây là Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái đã đưa vụ án giết người xảy ra tại thôn 16, xã Lâm Giang, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái khiến 4 người trong một gia đình thiệt mạng ra xét xử lưu động tại Trung tâm Văn hóa – Thông tin huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Bị cáo trong vụ thảm sát này là Đặng Văn Hùng. Phiên tòa lưu động đã thu hút sự tham gia của khoảng 2000 người.
Xét xử lưu động thể hiện tính công khai, minh bạch, dân chủ của hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng. Xét xử lưu động có những ưu điểm như: Thứ nhất, tạo điều kiện cho nhiều người dân đến tham dự, theo dõi việc xét xử, nên công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt hiệu quả, nâng cao hiểu biết pháp luật cho người dân, đưa công lý tiếp cận gần dân hơn. So với các phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật khác, phương pháp này có nhiều ưu điểm vượt trội, là hình thức tuyên truyền pháp luật trực tiếp, dễ hiểu, gần gũi với người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, nơi mà công nghệ thông tin chưa phổ biến, người dân ít có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu pháp luật. Thứ hai, tham gia phiên tòa, lắng nghe những phân tích, đánh giá của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử và người bào chữa về vụ án, giúp cho người dân thấy rõ về hành vi phạm tội, phương thức, thủ đoạn phạm tội, qua đó nâng cao tinh thần cảnh giác, có biện pháp phòng ngừa và góp phần đấu tranh chống tội phạm. Đồng thời, có tác dụng cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm do người dân được trang bị những kiến thức pháp luật nhất định để điều chỉnh hành vi của mình, tránh xa những hành vi vi phạm pháp luật. Dưới góc độ răn đe tội phạm thì hoạt động xét xử lưu động vẫn là công cụ phát huy hiệu quả cao, phiên tòa lưu động là cơ hội để trực tiếp chuyển tải các quy định của pháp luật đến với người dân; ngoài tác dụng phổ biến pháp luật còn có tác dụng cảnh báo, giáo dục chung đối với mọi người.
Bên cạnh những ưu điểm, xét xử lưu động cũng có những mặt hạn chế nhất định như: Thứ nhất, tác động tiêu cực tới tâm lý của người phạm tội và gia đình họ. Người bị đưa ra xét xử lưu động chịu sức ép rất lớn trước dư luận ngay khi xuất hiện tại phiên tòa mặc dù theo quy định một người không thể bị coi là có tội trước khi có phán quyết của Tòa án. Ví dụ: Bị cáo phạm tội lần đầu, do lỗi vô ý được đưa ra xét xử lưu động trước họ hàng, làng xóm thường có tâm lý hoang mang, lo lắng, xấu hổ, dễ dẫn đến hành xử tiêu cực. Với dấu ấn tâm lý để lại và dư luận xã hội tác động không tốt tới việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, gây ra những khó khăn, trở ngại nhất định cho người phạm tội trong việc tái hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội. Cùng với đó, gia đình, dòng họ của bị cáo phải chịu tác động, ảnh hưởng từ sự lên án, xa lánh của cộng đồng, xã hội. Đồng thời, gợi nhớ lại nỗi đau, sự mặc cảm, tổn thương tinh thần của người bị hại và gia đình họ, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa bị cáo với người bị hại và gia đình họ. Thứ hai, gây tốn
kém nhiều chi phí, nhân lực, vật lực; công tác bảo vệ và giữ gìn trật tự phiên tòa gặp nhiều áp lực, khó khăn, tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an ninh trật tự khó lường, nhất là những phiên tòa có nhiều người theo dõi. Thứ ba, xét xử lưu động trong nhiều trường hợp không bảo đảm nguyên tắc của hoạt động tư pháp, suy đoán vô tội, công bằng, bình đẳng, tôn trọng, bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội cũng như tính trang nghiêm của phiên tòa. Bị cáo được đưa ra xét xử lưu động vẫn được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, họ cần được xét xử công bằng, bình đẳng, trong những điều kiện như các bị cáo khác được đưa ra xét xử tại trụ sở Tòa án. Thứ tư, dưới sức ép của dư luận, của số đông người tham dự có thể tạo áp lực cho Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, người bào chữa, làm ảnh hưởng đến việc khách quan trong quá trình xét xử, nhiều trường hợp quá thiên về mục đích trừng trị, răn đe nên mức hình phạt tuyên đối với bị cáo thường nặng hơn so với xét xử tại trụ sở Tòa án. Thứ năm, ở các phiên tòa xét xử lưu động các vụ án giết người, hiếp dâm, xâm phạm tình dục với các tình tiết quá cụ thể, rõ ràng, gây ra sự hoang mang, bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến người tham dự, đặc biệt tới sự phát triển nhân cách của trẻ em, có trường hợp “bắt chước” hành vi phạm tội, dễ dẫn đến tội phạm được “nhân bản”.
Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức phiên tòa lưu động vẫn có những giá trị, hiệu quả tác động đối với xã hội. Hàng năm, các Toà án đều thực hiện các phiên toà lưu động mặc dù số lượng không phải nhiều. Đặc biệt khi dịch Covid-19 xảy ra, phiên toà lưu động xét xử 11 đối tượng đưa người xuất, nhập cảnh trái phép của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh tại nhà văn hoá xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu đã giúp cho người dân vùng biên giới hiểu rõ hơn về quy định của pháp luật cũng như ngăn ngừa các hành vi vi phạm tương tự diễn ra trong tương lai. Tuy nhiên, trong giai đoạn trước mắt, để bảo đảm áp dụng thống nhất, chặt chẽ, phát huy những ưu điểm, giảm thiểu những hạn chế khi đưa vụ án ra xét xử lưu động thì Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn thống nhất về căn cứ, tiêu chí để lựa chọn, xác định vụ án đưa ra xét xử lưu động. Cụ thể:
Thứ nhất, xác định loại án, loại tội và đối tượng phạm tội được đưa ra xét xử lưu động để bảo đảm đạt được yêu cầu, mục đích đề ra.
Mỗi loại vụ án đều có yêu cầu, mục đích của việc xét xử, xét xử lưu động chủ yếu nhằm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, không phải tất các các vụ án hình sự đều có thể xét xử lưu động được như: một số vụ án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia vì lý do bí mật quốc gia cần thiết phải xét xử kín như các tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tội gián điệp…; một số tội phạm khi đưa ra xét xử lưu động có thể ảnh hưởng không tốt đến thuần phong mỹ tục hoặc gây mặc cảm, tác động, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách của người bị hại, người làm chứng như các tội phạm về tình dục: hiếp dâm; hiếp dâm trẻ em; tội cưỡng dâm; tội cưỡng dâm trẻ em; tội giao cấu với trẻ em; tội dâm ô với trẻ em…
Mục đích của hình phạt là trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội. Trong xã hội tiến bộ ngày nay, việc xử lý hình sự, áp dụng hình phạt chủ yếu nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội và tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng. Do vậy phải cân nhắc rất kỹ về nhân thân của bị cáo, chỉ nên đưa ra xét xử lưu động đối với người phạm tội có ý thức và bản tính coi thường pháp luật, phạm tội nhiều lần, có tính chuyên nghiệp, tái phạm. Không đưa ra xét xử lưu động đối với bị cáo phạm tội do vô ý, do lầm lỡ, bồng bột, bởi trong trường hợp này có thể gây thêm sự ác cảm từ cộng đồng, xã hội và sự mặc cảm từ bản thân bị cáo, đó là rào cản trong việc tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, việc đưa vụ án ra xét xử lưu động phải đáp ứng được yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Khi xác định các vụ án được đưa ra xét xử lưu động, Tòa án phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị chung của cả nước và yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng địa phương. Các nhiệm vụ này được nêu trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước cũng như của địa phương như Chỉ thị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; các Nghị quyết của Chính phủ về đấu tranh phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, các chương trình phòng chống mua bán người, phòng chống mại dâm, phòng chống ma túy của Chính phủ… Các văn bản này chỉ rõ công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật hình sự là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và Nhà nước, là trách nhiệm của các cấp, ban ngành đặc biệt là các cơ quan tư pháp. Xét xử lưu động thường tại những điểm nóng về tình hình trật tự trị an, địa bàn xảy ra tội phạm, nhờ đó tuyên truyền phổ biến pháp luật, góp phần răn đe, ngăn ngừa tội phạm. Do vậy, các cơ quan tư pháp lựa chọn vụ án mà hành vi của bị cáo đã cản trở việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu trong quần chúng nhân dân, dư luận xã hội đòi hỏi phải đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh nhằm đáp ứng yêu cầu chính trị, ngăn chặn tội phạm phát triển, góp phần giải quyết một tình trạng tiêu cực nhất định trong xã hội.
Thứ ba, việc lựa chọn vụ án để đưa ra xét xử lưu động phải đáp ứng được tiêu chí xét xử công bằng, hiệu quả
Việc tổ chức phiên tòa xét xử lưu động thường rất khó khăn, tốn kém, do vậy phải lựa chọn những vụ án có các chứng cứ, tình tiết đầy đủ, rõ ràng, có cơ sở vững chắc để buộc tội, kết tội đối với bị cáo. Hiệu quả xét xử lưu động không đạt được nếu đưa ra xét xử vụ án mà chứng cứ, tội danh còn nhiều vấn đề phải kiểm tra, tranh tụng làm rõ tại phiên toà, có khả năng kéo dài thời gian xét xử hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Để bảo đảm công bằng, hiệu quả thì những thẩm phán, hội thẩm nhân dân và kiểm sát viên được lựa chọn xét xử lưu động phải là người có kinh nghiệm, có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có sự phối hợp chặt chẽ với nhau cũng như phối hợp tốt với chính quyền địa phương nơi tổ chức phiên tòa lưu động để tổ chức phiên tòa xét xử lưu động công bằng, hợp lý, hiệu quả.
Thứ tư, phải căn cứ vào khả năng thực tế và sự thống nhất của liên ngành tư pháp ở địa phương để lựa chọn vụ án đưa ra xét xử lưu động cho phù hợp.
Căn cứ vào khả năng thực tế và sự thống nhất của liên ngành tư pháp ở địa phương (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) trong việc lựa chọn, xác định và quyết định tổ chức xét xử lưu động cho phù hợp, phân công cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan để đạt được mục đích của việc xét xử. Việc tổ chức phiên tòa lưu động tại địa bàn xảy ra tội phạm có tác dụng tích cực trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật vì nó thu hút được đông đảo người dân tham gia phiên tòa hơn. Đặc biệt nếu vụ án càng được sớm đưa ra xét xử thì hiệu quả công tác này càng cao hơn vì tính thời sự của vụ việc. Khi thống nhất lựa chọn là án trọng điểm đưa ra xét xử lưu động, lãnh đạo ba ngành Cơ quan điều ra, Viện kiểm sát và Toà án có trách nhiệm thống nhất chỉ đạo, ưu tiên sử dụng lực lượng để điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, khẩn trương, thận trọng, bảo đảm xử lý vụ án nghiêm minh, chính xác, đúng pháp luật nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương và cả nước…
Thứ năm, các vụ án được đưa ra xét xử lưu động phải là các vụ án trọng điểm, có tính điển hình và được dư luận xã hội quan tâm.
Vụ án trọng điểm không nhất thiết phải là vụ án về tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhưng nhất thiết phải là vụ án mà việc giải quyết nó có tầm quan trọng nhất định. Các vụ án được đưa ra xét xử lưu động phải là các vụ án có tính chất điển hình về tội danh, về hành vi phạm tội. Các tội phạm được đưa ra xét xử lưu động thường là các tội xâm phạm trật tự trị an xã hội, tội phạm về ma túy, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; các tội xâm phạm sở hữu… Trong đó hành vi phạm tội của bị cáo có tính nguy hiểm cao, thậm chí là rất dã man, tàn độc, phi nhân tính, gây bức xúc trong nhân dân, được dư luận xã hội quan tâm như: Lê Văn Luyện đã ra tay sát hại cả gia đình tiệm vàng Ngọc Bích tại Bắc Giang, trong đó có 01 cháu bé 8 tháng tuổi; Nguyễn Hải Dương giết tất cả 5 người trong gia đình của người yêu ở Bình Phước. Hay những vụ án mà tội phạm đã sử dụng thủ đoạn phạm tội mới, tinh vi và xảo quyệt hơn trước, ví dụ: hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gọi điện vào điện thoại của nạn nhân để dẫn dụ, khai thác thông tin liên quan đến tài khoản, hù dọa làm cho nạn nhân hoang mang, lo sợ, sau đó chuyển tiền vào tài khoản định sẵn theo yêu cầu của người phạm tội. Hoặc thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo sinh viên, phụ nữ vận chuyển ma túy cho đối tượng phạm tội ma túy trên tuyến hàng không từ Việt Nam đi nước ngoài hoặc từ nước ngoài về Việt Nam…
Thứ sáu, không đưa ra xét xử lưu động đối với bị cáo, người bị hại là đối tượng yếu thế trong xã hội.
Các chủ thể yếu thế trong xã hội có thể là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Do người chưa thành niên phạm tội có đặc điểm tâm lý đang phát triển, nhân cách chưa được định hình, nhận thức chưa đầy đủ nên các em là những người cần được quan tâm, bảo vệ đặc biệt. Do vậy không đưa ra xét xử lưu động, công khai trước nhiều người đối với người yếu thế trong xã hội, nhất là người chưa thành niên vì các em là những người dễ bị tổn thương, các em cần được đối xử một cách công bằng, được hướng dẫn để chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình và được tạo cơ hội tránh mắc phải những sai phạm như vậy trong tương lai để trở thành những người có ích cho xã hội. Trong những vụ án có người bị hại bị xâm phạm tình dục, có thể ảnh hưởng xấu đến thuần phong, mỹ tục thì thậm chí không được xét công khai tại trụ sở Tòa án mà phải được xét xử kín để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Trên đây là một số ý kiến, kiến nghị của chúng tôi về xét xử lưu động các vụ án hình sự nhằm nâng cao chất lượng các phiên toà lưu động, giúp việc phổ biến tuyên truyền pháp luật hiệu quả hơn./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Phó Trưởng bộ môn Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ án hình sự, Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
- Thạc sỹ, Trưởng bộ môn Luật sư và đạo đức nghề luật sư, Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
- Thái Vũ, Dừng xét xử lưu động, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/thoi-su/dung-xet-xu-luu-dong.
- Khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín”. Điều 25 BLTTHS năm 2015 quy định “Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai”.
Trả lời