Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”
- Một số điểm mới về tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. Phạm Thái
- Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Phân tích các quyền và nghĩa vụ của Người bào chữa theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
TÓM TẮT
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) đã được Quốc hội khóa 13 thông qua vào ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016. Bộ luật đã thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và quy định của Hiến pháp năm 2013 theo hướng tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Trong bài viết, tác giả tập trung trình bày và phân tích một số điểm mới nổi bật của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về Phần thứ nhất – Những quy định chung.
Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS năm 2015 có 08 chương, 142 điều (tăng 43 điều so với BLTTHS năm 2003) quy định về các nhóm vấn đề: phạm vi điều chỉnh, nhiệm vụ, hiệu lực của BLTTHS; những nguyên tắc cơ bản; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng; bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; chứng minh và chứng cứ; biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; hồ sơ vụ án, văn bản tố tụng, thời hạn và chi phí tố tụng. Có thể nhận thấy BLTTHS năm 2015 đã có những quy định hợp lý và toàn diện theo hướng bổ sung một số nguyên tắc mới, điều chỉnh nội dung các nguyên tắc đặc thù của luật tố tụng hình sự phù hợp với các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người; mở rộng diện người tham gia tố tụng và quy định đầy đủ hơn quyền, nghĩa vụ của họ; mở rộng diện người bào chữa, bổ sung quyền cho họ nhằm tạo sự cân bằng với bên buộc tội trong quá trình chuẩn bị và thực hiện việc tranh tụng; bổ sung một số nguồn chứng cứ mới; sửa đổi, bổ sung các quy định về biện pháp ngăn chặn để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả áp dụng các biện pháp này trong thực tiễn.
1. Phạm vi điều chỉnh, nhiệm vụ, hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (từ Điều 1 đến Điều 6)
Nhằm tránh sự trùng lặp với Luật Thi hành án hình sự năm 2010, BLTTHS năm 2015 xác định rõ chỉ điều chỉnh “một số thủ tục thi hành án hình sự”. Bên cạnh đó, để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Một điều luật mới (Điều 4) giải thích các từ ngữ trong BLTTHS năm 2015 cũng được xây dựng nhằm tạo sự thống nhất trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật.
Hai điều luật quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; phát hiện và khắc phục nguyên nhân, điều kiện phạm tội trước đây được đặt trong Chương những nguyên tắc cơ bản là chưa phù hợp vì nội dung của chúng chỉ quy định về trách nhiệm của các chủ thể chứ không mang tính chất là nguyên tắc cơ bản của luật TTHS. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã chuyển hai điều luật trên về Chương I, đồng thời bổ sung cơ quan Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phát hiện và xử lý tội phạm để phù hợp với vị trí và trách nhiệm của cơ quan này;[1] bổ sung quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan phải thực hiện, trả lời việc thực hiện yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
2. Những nguyên tắc cơ bản (từ Điều 7 đến Điều 33)
Để bảo đảm các quy định về nguyên tắc cơ bản đúng nghĩa là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng và áp dụng BLTTHS, tạo cơ sở cho việc hình thành những chuẩn mực pháp lý về nhận thức, thái độ và hành vi của các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự (VAHS), BLTTHS năm 2015 đã loại bỏ những quy định không mang tính nguyên tắc, bổ sung một số nguyên tắc mới, chỉnh sửa nội dung một số nguyên tắc hiện hành nhằm phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và những điều ước quốc tế có liên quan đến tố tụng hình sự mà Việt Nam đã tham gia.
2.1. Các nguyên tắc mới được bổ sung
Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản trong lĩnh vực tư pháp hình sự đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc.[2] Hiến pháp năm 2013 (khoản 3 Điều 31) cũng đã xác định quyền này là một trong những quyền cơ bản của công dân. Việc BLTTHS năm 2015 bổ sung nguyên tắc trên là rất cần thiết, phù hợp với luật pháp quốc tế và Hiến pháp – đạo luật gốc của nước ta.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Nguyên tắc này được xây dựng trong BLTTHS năm 2015 là hoàn toàn đúng đắn bởi vì tranh tụng là một cách thức công bằng, hiệu quả nhằm làm sáng tỏ những mâu thuẫn giữa hai bên buộc tội và gỡ tội, từ đó tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Đây là một trong những định hướng của chiến lược cải cách tư pháp đã được Đảng và Nhà nước ta xác định;[3] là nguyên tắc hoạt động cơ bản của Tòa án (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014).
2.2. Các nguyên tắc được sửa đổi
Nguyên tắc suy đoán vô tội: Nguyên tắc này được sửa đổi về tên gọi và bổ sung về nội dung cho phù hợp với yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 và quy định của Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Điều 13 BLTTHS năm 2015 khẳng định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.Việc bổ sung này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, giúp các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng “mạnh dạn” kết luận bị can, bị cáo không có tội trong những trường hợp không chứng minh được một cách chắc chắn về sự có tội của họ, qua đó gián tiếp hạn chế trình trạng xét xử oan, sai.
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. BLTTHS năm 2015 quy định chính xác hơn về những chủ thể có trách nhiệm chứng minh tội phạm, đó là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 34, 35). Trước đây BLTTHS năm 2003 (Điều 10) đã thiếu sót khi không quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm cho các cơ quan như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển… Đây không phải là những cơ quan chuyên trách được thành lập để giải quyết các vụ án hình sự (VAHS) nhưng do lĩnh vực và địa bàn quản lý của họ thường xuyên xảy ra một số tội phạm nên được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để kịp thời phát hiện, thu thập chứng cứ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án sau này. Một khi pháp luật đã giao cho họ quyền tiến hành một số hoạt động điều tra thì bắt buộc các cơ quan trên phải có nghĩa vụ chứng minh tội phạm. Do đó, việc sửa đổi của BLTTHS năm 2015 là hợp lý, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan trên trong quá trình giải quyết những VAHS thuộc thẩm quyền.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Theo cách giải thích được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội không chỉ bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn cả người bị bắt. Như vậy, đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa đã được mở rộng hơn so với BLTTHS năm 2003. Việc mở rộng này là hợp lý, không chỉ tạo cơ hội để người bị bắt biện minh cho hành vi có dấu hiệu tội phạm của mình mà còn giúp các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhìn nhận sự việc một cách toàn diện, phát hiện và khắc phục sai lầm có thể xảy ra ở bước đầu tiên của quá trình tố tụng. Ngoài ra, để tạo sự bình đẳng giữa người bị buộc tội và bị hại, đương sự, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ như là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS.
3. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (từ Điều 34 đến Điều 54)
3.1. Mở rộng phạm vi cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự
Việc đặt tên Chương III của BLTTHS năm 2003 là “Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng” có thể dẫn đến suy nghĩ không chính xác là chỉ các cơ quan, người tiến hành tố tụng mới có quyền giải quyết VAHS. Để khắc phục thiếu sót trên, BLTTHS năm 2015 đã đổi tên chương thành “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” và trực tiếp khẳng định các cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng là những chủ thể có quyền giải quyết VAHS. BLTTHS năm 2015 bổ sung kiểm ngư là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bên cạnh các cơ quan hiện hành. Việc bổ sung này nhằm phản ứng kịp thời với tình hình tội phạm xảy ra trên một số lĩnh vực, phát huy nghiệp vụ của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc phát hiện, xử lý tội phạm.
3.2. Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với nhiệm vụ, quyền hạn khi tiến hành tố tụng hình sự; tăng quyền hạn và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán
BLTTHS năm 2015 phân định rõ hơn thẩm quyền giữa Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) với người trực tiếp tiến hành tố tụng. Thủ trưởng CQTHTT được trao những quyền hạn có ý nghĩa quyết định việc kết thúc hoặc bắt đầu một giai đoạn tố tụng, những quyền hạn liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân. Trong khi đó, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (đặc biệt là thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa) được trực tiếp ra những quyết định có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án và được trao nhiều quyền hạn hơn so với BLTTHS năm 2003.[4] Những sửa đổi, bổ sung liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nói chung, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán nói riêng trong Bộ luật mới tương đối đầy đủ, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính đồng bộ với những quy định khác; qua đó tạo cơ sở pháp lý rõ ràng giúp người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kịp thời quyết định và thực hiện các biện pháp, hoạt động cần thiết để giải quyết VAHS.
3.3. Mở rộng phạm vi những người tiến hành tố tụng
BLTTHS năm 2015 bổ sung những người tiến hành tố tụng mới như: Cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên; đồng thời quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của họ khi được phân công giúp việc cho điều tra viên, kiểm sát viên, Chánh án Tòa án. Điều này phù hợp với quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua. Việc bổ sung những đối tượng trên không làm tăng biên chế của các CQTHTT vì lực lượng này đã và đang giúp việc cho những người tiến hành tố tụng.[5] Ngược lại trực tiếp ghi nhận đầy đủ, rõ ràng hơn vai trò, vị trí của cán bộ điều tra, kiểm tra viên và thẩm tra viên trong thực tiễn giải quyết VAHS; giúp những người tham gia tố tụng nhận biết đầy đủ các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong vụ án, qua đó thực hiện tốt hơn các quyền được pháp luật ghi nhận để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, ví dụ quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
4. Người tham gia tố tụng (từ Điều 55 đến Điều 84)
4.1. Bổ sung chủ thể tham gia tố tụng
Nhằm khắc phục những thiếu sót của BLTTHS năm 2003, xuất phát từ thực tiễn giải quyết VAHS thời gian qua, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số đối tượng có thể trở thành người tham gia tố tụng;đồng thời xác định rõ quyền và nghĩa vụ của họ. Những người này bao gồm:
– Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
– Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
– Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
– Người bị bắt;
– Người định giá tài sản;
– Người dịch thuật;
– Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố;
– Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của BLTTHS.
Bổ sung trên cho thấy các cá nhân, cơ quan, tổ chức ít nhiều có liên quan đến tội phạm, cần thiết cho quá trình làm sáng tỏ sự thật của vụ án, trong việc định tội, lượng hình đều được BLTTHS năm 2015 trao cho một tư cách tố tụng cụ thể với những quyền và nghĩa vụ nhất định. Đây là điều hoàn toàn hợp lý, giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của những chủ thể mới được bổ sung; từ đó thực hiện tốt trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.
4.2. Bổ sung một số quyền cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự và quy định rõ hơn nghĩa vụ của họ
Nhằm tạo điều kiện cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện tốt quyền bào chữa cũng như bảo vệ hiệu quả các lợi ích hợp pháp của mình, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền quan trọng, nổi bật là quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội – nguồn gốc của quyền im lặng;[6] quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; quyền đề nghị giám định, định giá tài sản;[7] quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra. Song song đó, BLTTHS năm 2015 cũng quy định rõ hơn nghĩa vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Những bổ sung trên phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, Hiến pháp năm 2013, các điều ước quốc tế về quyền con người. Qua đó, trang bị cho người bị buộc tội đầy đủ quyền năng pháp lý để tự bảo vệ mình.
Tương tự như người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền cho bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; đồng thời quy định rõ hơn nghĩa vụ của những người này nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng để giải quyết vụ án được nhanh chóng, đúng đắn. Đặc biệt, BLTTHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan” thay thế thuật ngữ “lý do chính đáng” nhằm xác định rõ ràng, cụ thể hơn căn cứ xem xét, xử lý bị hại và đương sự khi họ không có mặt theo giấy triệu tập. Đối với bị hại, BLTTHS năm 2015 quy định không chỉ gồm cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản như hiện nay mà còn bao gồm cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Điều này giúp khắc phục điểm hạn chế của BLTTHS năm 2003, tạo sự công bằng về địa vị pháp lý cho các nhân và cơ quan, tổ chức bị tội phạm gây thiệt hại.[8] BLTTHS năm 2015 bỏ nghĩa vụ khai báo của bị hại để phù hợp với quy định của BLHS năm 2015.[9]
4.3. Sửa đổi một số quy định liên quan đến người làm chứng
BLTTHS năm 2015 bổ sung quyền của người làm chứng được thông báo và giải thích về quyền và nghĩa vụ của họ; gián tiếp cho thấy người làm chứng có thể được triệu tập tham gia tố tụng từ rất sớm – khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm (điểm a khoản 4 Điều 66). BLTTHS năm 2015 cũng xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập phải tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng. Những bổ sung trên cùng với việc ghi nhận các biện pháp bảo vệ (Chương XXXIV) góp phần đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người làm chứng, giúp họ yên tâm, tích cực tham gia tố tụng, góp phần sáng định sự thật vụ án, bảo vệ công bằng xã hội.
4.4. Về việc bào chữa
Như đã đề cập, BLTTHS năm 2015 cho phép người bị bắt cũng được quyền bào chữa. Điều này có nghĩa người bào chữa có quyền tham gia tố tụng sớm nhất là từ khi có người bị bắt chứ không phải từ lúc có quyết định tạm giữ như quy định hiện hành. BLTTHS năm 2015 bổ sung một đối tượng có thể trở thành người bào chữa, đó là Trợ giúp viên pháp lý (trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý). Thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa được thay thế bằng thủ tục đăng ký bào chữa nhằm đảm bảo tính minh bạch của pháp luật, tránh nhận thức không đúng đắn[10] .
Những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa cũng được mở rộng. Theo đó, bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự (BLHS) quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình được chỉ định người bào chữa (nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa). Quy định này góp phần thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước và phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta.[11] Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn khắc phục bất cập của BLTTHS hiện hành bằng quy định người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữamới được quyền có người bào chữa chỉ định.
BLTTHS năm 2015 còn sửa đổi, bổ sung cho người bào chữa một số quyền nhằm tạo sự bình đẳng trong quá trình chuẩn bị và thực hiện việc tranh tụng với Kiểm sát viên thực hành quyền công tố như: được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của BLTTHS; thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản (khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015).
Tất cả những sửa đổi, bổ sung trên cho thấy chế định bào chữa ngày càng được chú trọng và hoàn thiện. Mục đích cuối cùng nhằm nâng cao vị trí, vai trò của người bào chữa trong mô hình tố tụng hỗn hợp thiên về thẩm vấn của Việt Nam và đảm bảo cho họ những quyền năng pháp lý cần thiết để tranh tụng có hiệu quả với bên buộc tội, qua đó góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ công lý.
4.5. Mở rộng đối tượng có thể trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; bổ sung một số quyền cho đối tượng này
Tương tự như người bào chữa, BLTTHS năm 2015 cho phép Trợ giúp viên pháp lý được tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Những người này còn được trao thêm quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản; có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ (khoản 3 Điều 84 BLTTHS năm 2015). Tuy vậy, Bộ luật có một điểm thiếu sót khi không quy định thủ tục để được chấp nhận tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Những điều chỉnh trên nhìn chung thể hiện nhà làm luật đã quan tâm đến việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm, điều mà trước đây hầu như bị lãng quên. Đây là quan điểm rất hợp lý, tạo sự công bằng với bên bị buộc tội, phù hợp với Tuyên bố về Các nguyên tắc cơ bản của tư pháp dành cho nạn nhân của tội phạm và việc lạm dụng quyền lực (Declaration of Basic Principles of Justice for Victims of Crime and Abuse of Power)[12] và Hướng dẫn về tư pháp trong Những vấn đề liên quan đến nạn nhân là trẻ em và nhân chứng của tội phạm (Guidelines on Justice in Matters involving Child Victims and Witnesses of Crime).
5. Chứng cứ và chứng minh (từ Điều 85 đến Điều 108)
Liên quan đến chứng cứ và chứng minh, BLTTHS năm 2015 có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng như: đổi tên chương thành “Chứng minh và chứng cứ” cho phù hợp với phạm vi điều chỉnh của chương; bổ sung quy định về một số nguồn chứng cứ mới bao gồm dữ liệu điện tử, kết luận định giá tài sản, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; quy định về tính hợp pháp của chứng cứ: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”. Bộ luật đồng thời bổ sung quy định “đối với những tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng thì quyết định trả lại ngay cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp các tài sản đó”(điểm a khoản 3 Điều 103 BLTTHS năm 2015) nhằm bảo đảm quyền tài sản của tổ chức, cá nhân.[13] Những sửa đổi, bổ sung này xuất phát từ thực tiễn giải quyết VAHS, nâng cao ý thức trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, để áp dụng được những quy định về nguồn chứng cứ mới (đặc biệt là chứng cứ điện tử) cần phải có văn bản hướng dẫn thi hành.
Nhằm tạo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, tăng cường tính tranh tụng, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về cách thức thu thập chứng cứ của người bào chữa như: gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (khoản 2 Điều 88). Mặc dù chưa thể đánh giá về tính khả thi và hiệu quả của quy định này nhưng rõ ràng đây là một quy định tiến bộ, tạo cơ sở pháp lý cho người bào chữa mạnh dạn tiến hành những biện pháp hợp pháp trong thực tế nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ thân chủ của mình.
6. Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (từ Điều 109 đến Điều 130)
BLTTHS năm 2015 tập hợp tất cả biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự và đưa vào Chương VII với tên gọi “Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế” nhằm đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ trong việc quy định và áp dụng các biện pháp hạn chế hoặc tước bỏ quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.
6.1. Biện pháp ngăn chặn
BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung phần lớn trình tự, thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp của BLTTHS hiện hành và đổi tên thành biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”. Điều này có thể xuất phát từ mục đích hạn chế những trường hợp bắt khẩn cấp không có căn cứ và không cần thiết trong thực tiễn. Bộ luật đồng thời mở rộng phạm vi các cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn (BPNC) này bao gồm một số người làm việc trong Bộ đội biên phòng, Lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư (điểm b khoản 2 Điều 110) nhằm đáp ứng yêu cầu phát hiện, xử lý tội phạm kịp thời, nhanh chóng.
BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về căn cứ tạm giam đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm. Bị can, bị cáo về những tội phạm này chỉ có thể bị tạm giam khi thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ, khoản 2 Điều 119 BLTTHS năm 2015. Quy định này cụ thể hóa căn cứ “cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử” đề cập trong BLTTHS hiện hành, góp phần hạn chế việc tạm giam một cách tùy tiện, không cần thiết.
Đối với những BPNC khác như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, BLTTHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm khắc phục những bất cập của BLTTHS năm 2003, tăng tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp này. Bộ luật quy định cụ thể các nghĩa vụ mà bị can, bị cáo phải cam đoan thực hiện khi được cơ quan có thẩm quyền áp dụng 03 biện pháp trên. BLTTHS năm 2015 quy định rõ nếu bị can, bị cáo được bảo lĩnh, được đặt tiền để bảo đảm vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì bị tạm giam. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. BLTTHS năm 2015 chỉ cho phép đặt tiền (không được đặt tài sản) để bảo đảm để kịp thời áp dụng biện pháp này trong thực tiễn, tháo gỡ vướng mắc hiện nay trong việc định giá, giám định tài sản, dẫn đến chậm trễ trong áp dụng.[14] Thời hạn áp dụng ba biện pháp trên cũng được bổ sung nhằm bảo đảm việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được thực hiện trong những khoảng thời gian hợp lý và ngắn nhất có thể trước khi có bản án, quyết định cuối cùng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát hiện và xử lý tội phạm, phù hợp với Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014,[15] BLTTHS năm 2015 bổ sung một biện pháp ngăn chặn mới đó là biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Biện pháp này có thể áp dụng (khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn) đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; bị can, bị cáo (khoản 1 Điều 124).
6.2. Biện pháp cưỡng chế
Để tạo điều kiện cho các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành nhanh chóng, thuận lợi, BLTTHS năm 2015 cho phép cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (trong phạm vi thẩm quyền của mình) áp dụng các biện pháp cưỡng chế bao gồm áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản. Mặc dù mức độ nghiêm khắc của những biện pháp này không cao như BPNC nhưng vẫn ảnh hưởng đến quyền tự do thân thể và quyền sở hữu của công dân. Vì vậy việc BLTTHS năm 2015 có những quy định cụ thể điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế là rất cần thiết, đảm bảo nguyên tắc “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”(khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2015).
7. Hồ sơ vụ án, văn bản tố tụng, thời hạn và chi phí tố tụng (từ Điều 131 đến Điều 142)
So với BLTTHS hiện hành, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều bổ sung (tăng thêm 07 điều luật) nhằm tạo thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tiễn. Cụ thể, BLTTHS năm 2015:
– Bổ sung và quy định nội dung cơ bản của các văn bản tố tụng (Điều 132) gồm: lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các văn bản tố tụng khác. Những quy định này tạo cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành ban hành các mẫu văn bản tố tụng áp dụng thống nhất. Ngoài ra, về kỹ thuật lập pháp, sẽ không phải nhắc lại những nội dung này trong phần các giai đoạn tố tụng mà chỉ cần trích dẫn điều luật.[16]
– Bổ sung quy định trường hợp người tham gia tố tụng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến (Điều 133);
– Quy định cụ thể các loại chi phí tố tụng và xác định trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng trong từng trường hợp (Điều 135, 136).
BLTTHS năm 2015 còn xây dựng 6 điều luật điều chỉnh phương thức, thủ tục, trách nhiệm cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng nhằm tạo cơ sở pháp lý bắt buộc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuân thủ trong quá trình thực hiện và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan thuận tiện trong việc giám sát.[17]
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Quan điểm này ở một mức độ nhất định đã được cụ thể hóa trong phần Những quy định chung của BLTTHS năm 2015 thông qua việc bổ sung những nguyên tắc tiến bộ của tư pháp hình sự; quyền của những người tham gia tố tụng (đặc biệt là người bào chữa); quy định rõ ràng, đầy đủ hơn về việc áp dụng những biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Dù vẫn còn khá sớm để đánh giá về tính khả thi và hiệu quả, cũng như hạn chế và bất cập của những quy định này, nhưng có thể khẳng định BLTTHS năm 2015 sẽ là một nền tảng pháp lý vững chắc, tiến bộ góp phần xây dựng hệ thống tư pháp hình sự nhân văn, hiện đại của Việt Nam phù hợp với quy tắc, chuẩn mực của luật pháp quốc tế.
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, Giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), 17/04/2015, tr. 3.
[2] Khoản 7 Điều 14 Công ước quy định: “Không ai bị xét xử hoặc bị trừng phạt một lần nữa vì một tội phạm mà anh ta đã bị kết án hoặc được trắng án theo quy định của pháp luật và tố tụng hình sự của mỗi quốc gia”.
[3] Mục 2.2, Phần II Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 yêu cầu phải “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.”
[4] Điều tra viên được quyền quyết định việc dẫn giải bị hại; quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát; thi hành lệnh phong tỏa tài khoản, xử lý vật chứng; tiến hành khai quật tử thi;… (khoản 1 Điều 37). Kiểm sát viên được quyền kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan, người có thẩm quyền; quyết định áp giải người bị bắt, bị can, dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa, người phiên dịch, người dịch thuật;… (khoản 1 Điều 42). Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại; thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản;… (khoản 2 Điều 45).
[5] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 1, tr. 6.
[6] Quyền này được ghi nhận tại điểm g khoản 3 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
[7] Chỉ dành cho bị can, bị cáo (điểm g khoản 2 Điều 60, điểm d khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015).
[8] Theo quy định của BLTTHS năm 2003, cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng với tư cách người bị hại mà chỉ có thể là nguyên đơn dân sự, dẫn đến hệ quả là chủ thể này không được quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần hình phạt.
[9] Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu chỉ áp dụng đối với người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người dịch thuật (Điều 383 BLHS năm 2015).
[10] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 1, tr. 12.
[11] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 1, tr. 13.
[12] Ban hành bởi Nghị quyết 2005/20 của Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên hợp quốc.
[13] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 1, tr. 10.
[14] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 1, tr. 12.
[15] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 1, tr. 12.
[16] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 1, tr. 14.
[17] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chú thích số 1, tr. 15.
Tác giả: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy* –
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2016 (98)/2016 – 2016, Trang 41-48
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời