Thủ tục tố tụng thân thiện đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) phạm tội
Xem thêm bài viết về “Thủ tục tố tụng”
- Một số vướng mắc, bất cập về thủ tục tố tụng được áp dụng trong trường hợp kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 – ThS. Nguyễn Thị Anh Thư
TÓM TẮT
Giới thiệu một số tiêu chuẩn quốc tế về tư pháp người chưa thành niên cũng như khái quát một số thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong vụ án hình sự. Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Qua đó, chỉ ra được những điểm còn bất cập trong pháp luật Việt Nam và đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm tiến tới xây dựng một hệ thống tư pháp thân thiện đối với người chưa thành niên tại Việt Nam.
Các quốc gia trên thế giới đều thống nhất rằng mọi người đều phải được đối xử bình đẳng và chung sống với nhau trong hòa bình và tự do. Điều này dựa trên niềm tin rằng tất cả mọi người đều có các “quyền” bình đẳng như nhau và ai cũng phải thừa nhận và tôn trọng quyền của người khác. Tất cả trẻ em cũng đều có các quyền như vậy và những quyền này đều được thừa nhận trong Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em. Những quyền này nhằm đảm bảo rằng trẻ em được hưởng những gì mà các em cần để lớn lên, phát triển và học tập trong hòa bình, sức khỏe và trở thành người có ích cho xã hội. Tất cả các quyền này đều rất quan trọng và phải được tôn trọng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Một trong những quyền quan trọng mà các em dễ bị xâm phạm nhất đó là “quyền được bảo vệ khỏi những khó khăn trong suốt quá trình tư pháp”. Có nghĩa là các em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức xâm phạm và ngược đãi từ thời điểm hành vi phạm pháp bị phát hiện cho đến suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử hành vi đó.
Kể từ khi NQ 08/NQ-TW được ban hành ngày 02-01-2002, có thể nói rằng mặc dù các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (TTHS) năm 2003 về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo nói chung, trong đó có bị can, bị cáo là người chưa thành niên (CTN) không có sự thay đổi so với trước đây, song trên thực tế, quyền bào chữa của bị can, bị cáo dần dần được tôn trọng hơn. Thực tiễn TTHS Việt Nam những năm qua cho thấy, kể từ khi NQ số 08 và NQ số 49 của Bộ Chính trị được ban hành, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong TTHS, cụ thể quyền bào chữa được mở rộng, được coi trọng hơn rất nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, vấn đề bảo đảm quyền con người nhất là quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng còn hạn chế, sai sót. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố và xét xử, nhất là đối với bị can, bị cáo là người CTN. Pháp luật TTHS đã quy định thủ tục giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện tương đối đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của họ. Tuy nhiên thực tiễn vận dụng do chưa được quan tâm nên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN, còn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế, dẫn đến việc giải quyết những vụ án này không đạt hiệu quả. Bên cạnh đó, không ít cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã không tuân thủ theo những quy định của pháp luật, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN bị xâm hại, chưa đáp ứng đòi hỏi của tiến trình đổi mới tư pháp ở Việt Nam.
Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Nhà nước Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trường hợp người CTN phạm tội. Điều này càng thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với chủ thể đặc biệt này. Bên cạnh những tư tưởng chỉ đạo, quan điểm, nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự với người phạm tội CTN, theo xu hướng chung hiện nay thì nội dung của chính sách hình sự liên quan đến hai lĩnh vực: lĩnh vực luật nội dung (luật hình sự) và lĩnh vực luật hình thức (luật TTHS). Tuy nhiên, để có thể kết luận người CTN là người phạm tội thì cần phải có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan Tòa án. Bản án là kết quả của một quá trình TTHS của các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử người CTN. Tất cả những hoạt động này ảnh hưởng, liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN khi họ tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và đến tính khách quan, tính pháp lý của bản án. Bởi lẽ đó, chính sách hình sự còn có nội dung thứ hai là những nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị can, bị cáo là người CTN. Vấn đề này được quy định ở Chương XXXII BLTTHS năm 2003 quy định về thủ tục TTHS đối với người CTN.
Xuất phát từ cở sở lý luận của chính sách hình sự được ghi nhận trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em[1] “Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 ghi nhận tại Điều 71 “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm…”
Việc tiến hành các hoạt động TTHS bao giờ cũng tiềm ẩn trong nó ít nhất hai loại nguy cơ. Nguy cơ thứ nhất là sự xung đột lợi ích giữa một bên là lợi ích của số đông mà đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng, và bên kia là lợi ích của bị can, bị cáo, những người bị tình nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong mối quan hệ này, đứng bên cạnh các cơ quan tiến hành tố tụng với đầy đủ những công cụ và phương tiện được pháp luật trao cho, cộng với sự ủng hộ của công chúng, bị can, bị cáo bao giờ cũng ở vào thế bất lợi hơn. Nguy cơ thứ hai là nguy cơ lạm dụng quyền lực của những cơ quan và cá nhân được pháp luật giao cho rất nhiều quyền hành và công cụ. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ những quyền con người cơ bản của các đối tượng yếu thế là bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng, trao cho họ những quyền năng tố tụng để họ có thể tự vệ thông qua việc đòi hỏi một sự phán xét công minh từ phía nhà nước là một vấn đề hết sức được chú trọng trong cả các văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền con người cũng như trong pháp luật TTHS của đa số các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, khi tiến hành điều tra đối với bị can, bị cáo là người CTN, điều tra viên phải nắm vững những quy định của pháp luật về những bảo đảm cơ bản trong quá trình tố tụng.
1. Các tiêu chuẩn quốc tế về tư pháp người CTN
Một số văn bản quốc tế chính liên quan đến lĩnh vực này là: Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1989); Các quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người CTN (hay còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh) (1985); Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người CTN bị tước quyền tự do cá nhân (1990); Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa người CTN hư hỏng (hay còn gọi là Hướng dẫn Riyadh); Hướng dẫn hành động vì trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự (1997).
Một số tiêu chuẩn quốc tế khác tuy có thể có hoặc có thể không có tính ràng buộc pháp lý đối với Việt Nam, nhưng lại có vai trò hướng dẫn cho việc giải quyết các vấn đề về trẻ em và người CTN có liên quan tới các vụ án hình sự, bất kể trẻ em, người CTN là nạn nhân, nhân chứng hay người vi phạm trong vụ án đó. Ngoài ra, các quốc gia cần phải ghi nhớ các nguyên tắc được xem là chủ đạo (các nguyên tắc này được rút ra từ những văn kiện quốc tế phù hợp) khi ra một quyết định liên quan đến tư pháp người CTN, đó là các nguyên tắc sau[2]:
– Pháp luật tư pháp người CTN được áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi;
– Tư pháp người CTN là một bộ phận của quá trình phát triển quốc gia của một nước [3].
– Nguyên tắc đối xử bình đẳng và không phân biệt được áp dụng cho tư pháp người CTN và nguyên tắc này bao gồm cả việc nghiêm cấm phân biệt đối xử với trẻ và gia đình trẻ[4] ;
– Nguyên tắc hướng dẫn của bất kỳ chính sách hay hành động nào liên quan đến tư pháp người CTN là những lợi ích tốt nhất của trẻ phải luôn là mối quan tâm hàng đầu [5];
– Mọi trẻ em sẽ được đối xử nhân đạo và với sự tôn trọng phẩm giá cố hữu của con người, theo một cách có tính đến lứa tuổi của các em[6];
– Trẻ em có quyền tự do bày tỏ ý kiến về tư pháp hình sự, và quan điểm của trẻ phải được coi trọng một cách thích ứng với tuổi và độ trưởng thành của các em[7];
– Trẻ em có quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến những thông tin liên quan đến hệ thống tư pháp người CTN dưới hình thức dễ tiếp cận và phù hợp với trẻ em[8];
– Không có trẻ em nào phải chịu sự tra tấn, đối xử, trừng phạt độc ác, vô nhân đạo hay làm mất phẩm giá[9];
– Không có trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tùy tiện ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tư pháp người CTN[10];
– Sự bắt bớ, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất[11];
– Cha mẹ của trẻ em phải được thông báo về bất kỳ sự bắt bớ, giam giữ, di chuyển, đau ốm, thương vong hay chết của trẻ[12];
– Trẻ em, người CTN có quyền được bào chữa và được hưởng sự trợ giúp pháp lý và các hình thức biện hộ khác trong quá trình chuẩn bị và đưa ra lời biện hộ của mình. Trẻ em và người đại diện của chúng có quyền đối chứng và quyền đưa nhân chứng khác đại diện cho chúng. Quyền này buộc cảnh sát phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cho trẻ về những chứng cứ chống lại chúng và các thông tin liên quan khác mà cảnh sát thu thập được trong quá trình điều tra.[13]
Xem thêm bài viết về “Bị can”
- Nội luật hóa các quy định của Công ước quốc tế về chống tra tấn đối với hoạt động hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Lê Thị Thùy Dương
- So sánh “Hỏi cung bị can” và “Lấy lời khai người làm chứng” – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Phân biệt “Khởi tố vụ án hình sự” và “Khởi tố bị can” – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Bị can là gì? Các quyền và nghĩa vụ của bị can theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
2. Pháp luật Việt Nam
Để thể hiện cam kết bảo vệ quyền trẻ em, năm 1990, Việt Nam trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Một năm sau khi Việt Nam trở thành quốc gia thành viên của Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã phê chuẩn Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em ngày 12 tháng 8 năm 1991. Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em sửa đổi bổ sung năm 2004 đã quy định những quyền và nghĩa vụ cơ bản của trẻ em, cũng như những biện pháp có thể thực hiện nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tất cả trẻ em đều được bảo vệ, kể cả những em làm trái pháp luật.
Người CTN vi phạm pháp luật ở Việt Nam có thể được xử lý/giáo dục theo hai con đường – không chính thức hoặc chính thức – tùy thuộc tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm pháp luật, đặc điểm về nhân thân của người CTN và nhu cầu của việc phòng ngừa hành vi vi phạm. Giáo dục / xử lý không chính thức là những biện pháp giáo dục, xử lý dựa vào gia đình, nhà trường, cộng đồng, được áp dụng đối với người CTN vi phạm pháp luật chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự hoặc mặc dù đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự nhưng hành vi vi phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể hoặc thuộc trường hợp có thể xử lý bằng các biện pháp không chính thức theo quy định của pháp luật. Xử lý chính thức đối với người CTN bao gồm xử lý vi phạm hành chính và xử lý hình sự, chỉ áp dụng đối với người CTN vi phạm pháp luật đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính hoặc tuổi chịu trách nhiệm hình sự, trong trường hợp hành vi vi phạm bị coi là vi phạm hành chính hoặc tội phạm theo quy định của pháp luật.
2.1. Thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người CTN phạm tội
Có thể nói, bào chữa là quyền quan trọng nhất của người vi phạm pháp luật hình sự. Quyền bào chữa QBC được xem như là một phương tiện pháp lý cần thiết để bị can, bị cáo nói chung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với đối tượng là người CTN, do những hạn chế nhất định về sự phát triển thể chất cũng như tinh thần, có thể họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn và quyền lợi hợp pháp của họ có thể bị xâm hại nếu không có người bào chữa NBC trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Chính vì vậy, rất cần có sự tham gia của NBC trong những vụ án đối với người CTN. Việc bào chữa trong những vụ án do người CTN thực hiện tội phạm tuân theo những quy định chung của Bộ luật TTHS. Tuy nhiên, do những hạn chế trong sự phát triển về thể chất cũng như tinh thần của người CTN so với người đã thành niên, pháp luật quy định thủ tục bắt buộc phải có sự tham gia của NBC trong những vụ án này. Theo qui định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật TTHS, khi bị can, bị cáo là người CTN, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người CTN, nhưng khi khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc trường hợp qui định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là điểm khác biệt giữa việc bào chữa trong những vụ án do người CTN thực hiện so với vụ án do người đã thành niên thực hiện. Nếu không có sự tham gia của NBC, các vụ án này được xem là vi phạm thủ tục tố tụng một cách nghiêm trọng. Việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện trên thực tế QBC trong TTHS là một biểu hiện sinh động của việc bảo vệ quyền con người. Từ những điểm khác biệt giữa việc bào chữa giữa người CTN và người thành niên, pháp luật TTHS cũng quy định một số yêu cầu sau nhằm đảm bảo một cách tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN khi tham gia vào hoạt động TTHS.
2.1.1. Yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng đối với người CTN phạm tội
Do chưa đủ trưởng thành và thiếu kinh nghiệm sống, người CTN thường phải chịu sức ép tâm lý lớn hơn rất nhiều so với người đã trưởng thành khi phải tiếp xúc với những người tiến hành tố tụng như điều tra viên, kiểm sát viên hay các thành viên của Hội đồng xét xử. Không những thế, trong con mắt của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo CTN, điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán và các cán bộ khác trong các cơ quan tiến hành tố tụng là những người đại diện cho quyền lực nhà nước. Vì thế, thái độ đúng mực, tâm lý, cảm thông của các cán bộ này đối với người CTN có thể khiến cho người CTN có suy nghĩ tích cực về Nhà nước nói chung và hệ thống tư pháp hình sự nói riêng và ngược lại. Và cũng chính ý nghĩ tích cực hay tiêu cực này của người CTN về hành vi và cách xử sự của những người tiến hành tố tụng sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến thái độ và mong muốn cải tạo, phục hồi của người CTN trong tương lai cũng như ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của các em về bộ máy Nhà nước. Vì lý do đó, không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh việc xây dựng hệ thống tòa án gia đình hoặc tòa án người CTN với các thủ tục đặc thù, khác biệt so với thủ tục TTHS chung, đã đào tạo một đội ngũ Điều tra viên, Công tố viên, Thẩm phán chuyên nghiệp để xử lý các vụ án người CTN.
Ở nước ta, mặc dù không có đội ngũ chuyên trách này, pháp luật TTHS có quy định những yêu cầu đặc biệt đối với các điều tra viên, kiểm sát viên và thành phần Hội đồng xét xử trong vụ án người CTN, xuất phát từ nhu cầu bảo vệ đặc biệt đối với các đối tượng này. Ở mỗi giai đoạn tố tụng, pháp luật TTHS quy định thủ tục đặc biệt đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người CTN rất chặt chẽ. Thủ tục xét xử trong vụ án do người CTN thực hiện cũng được tiến hành theo thủ tục chung. Tuy nhiên, đối với những vụ án này thì thủ tục xét xử cũng phải tuân thủ quy định tại Điều 307 Bộ luật TTHS năm 2003. Đây là những quy định mang tính chất khác biệt so với những loại vụ án khác, cụ thể ở những điểm sau: thành phần Hội đồng xét xử phải có một hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Sự tham gia thành viên Hội đồng xét xử với tư cách là Hội thẩm nhân dân của giáo viên hoặc cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một quy định bắt buộc nhằm giúp Hội đồng xét xử hiểu rõ thêm về tâm lý, khả năng nhận thức của bị cáo là người CTN. Bởi vì, thầy, cô giáo cũng như cán bộ Đoàn Thanh niên vừa là người quản lí giáo dục vừa là những nhà tâm lý sư phạm, từ đó có hướng thẩm vấn, giáo dục bị cáo tại phiên toà, đồng thời có thể xác định chính xác việc áp dụng hình phạt để áp dụng cải tạo người đó trở thành công dân có ích cho xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong những vụ án mà bị can, bị cáo CTN nên một số văn bản pháp luật khi hướng dẫn áp dụng BLTTHS đã đề cập vấn đề này. Ví dụ, theo Thông tư số 267/QĐTA hướng dẫn bầu cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của Bộ Tư pháp: “… cần chú ý cơ cấu hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn Thanh niên…để phù hợp với tình hình địa phương và quy định của BLTTHS”, hay Công văn 52/1999/KHXX ngày 15-6-1999 của TANDTC về thực hiện một số quy định của BLTTHS đối với bị cáo là người chưa thành niên.Điều 302 khoản 1 Bộ luật TTHS quy định điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người CTN phạm tội “phải là” người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người CTN. Cần lưu ý rằng, để có thể hiểu biết thấu đáo về “hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người CTN”, người tiến hành tố tụng nói chung và điều tra viên trong các vụ án người CTN nói riêng cần không những hiểu biết về thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của người CTN mà còn cần có đủ kiến thức về các chuẩn mực quốc tế về tư pháp người CTN, các quy định pháp luật về quyền trẻ em của Việt Nam, các quy định về bảo vệ đặc biệt đối với người CTN trong pháp luật hình sự và TTHS. Tất cả những yêu cầu này đều nhằm đảm bảo rằng những người tiến hành tố tụng khi tiếp xúc đối với bị can, bị cáo CTN sẽ có cách thức xử sự đúng mực, tâm lý, cảm thông với các em, tìm được phương thức hợp lý để khơi gợi, thúc đẩy sự hợp tác của các em trong quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, thấu hiểu những diễn biến tâm sinh lý của các em trong quá trình thực hiện hành vi tội phạm cũng như trong quá trình tham gia tố tụng, tìm ra được giải pháp thích hợp nhất để giúp các em nhận thức lỗi lầm, cải tạo và phục hồi.
2.1.2. Áp dụng biện pháp ngăn chặn tước tự do đối với bị can, bị cáo CTN
Mặc dù theo nguyên tắc suy đoán vô tội, không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, bản thân việc một người bị dính líu vào vòng tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo đã đủ để bạn bè, đồng nghiệp và cộng đồng xung quanh nhìn người đó dưới ánh mắt e ngại. Đặc biệt, các biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam còn có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực lớn hơn rất nhiều. Chính vì vậy, Bộ luật TTHS quy định khá chặt chẽ về căn cứ và thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế này. Đồng thời, Bộ luật TTHS 2003 đã tăng cường các biện pháp ngăn chặn không tước tự do khác như bảo lĩnh, đặt tiền, tài sản có giá trị để đảm bảo, để áp dụng thay thế cho biện pháp tạm giam. Về nguyên tắc, theo tinh thần NQ 08-NQ/TW của Bộ Chính trị thì cần hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì không áp dụng những biện pháp này. Do đặc điểm về tâm sinh lý của người CTN, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người CTN phải được xem xét một cách rất thận trọng, nhất là trong những trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam. Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã chỉ ra rằng, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người CTN khi chưa thực sự cần thiết có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình trưởng thành của họ. Chính vì vậy, Điều 303 Bộ luật TTHS quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng…”.
2.1.3. Lấy lời khai của người CTN trong vụ án hình sự
Bộ luật TTHS quy định khi lấy lời khai của người CTN phải bảo đảm các yêu cầu sau:
Trước khi hỏi cung phải đọc quyết định khởi tố, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can;
Trình bày lời khai được xem là quyền của bị can, nghiêm cấm việc dùng nhục hình;
Khi lấy lời khai, hỏi cung người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người CTN có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, “bắt buộc” phải có sự hiện diện của đại diện gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng (Điều 306 Bộ luật TTHS). Khoản 2, Điều 306 BLTTHS quy định: “trong trường hợp cần thiết, việc hỏi cung bị can tại cơ quan Điều tra phải có mặt đại diện gia đình bị can”. Hỏi cung bị can là một hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can. Đối với bị can CTN thì hoạt động điều tra này đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có những hiểu biết cần thiết về đặc điểm tâm sinh lý của các em. Là người gần gũi với bị can, hiểu được tâm lý, thái độ xử sự của họ nên sự có mặt của đại diện gia đình bị can sẽ giúp đỡ cán bộ điều tra tạo được mối quan hệ tin cậy, gần gũi, tín nhiệm đối với bị can, làm cho bị can không còn cảm thấy lo sợ, hoảng hốt và có thể khai báo những tình tiết có liên quan đến vụ án. Bên cạnh đó, thông qua đại diện gia đình, cán bộ hỏi cung sẽ nắm bắt được điều kiện sinh sống, giáo dục; nguyên nhân, điều kiện phạm tội của bị can là người CTN, từ đó có những biện pháp điều tra thích hợp. Việc lấy lời khai của bị can là người CTN nếu như không có sự tham gia của NBC hay đại diện gia đình được xem là vi phạm thủ tục tố tụng hình sự.
2.1.4. Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội
Việc xét xử người CTN phạm tội luôn luôn phù hợp với hoàn cảnh của người phạm tội cũng như tội phạm chứ không chỉ căn cứ vào tính chất và mức độ phạm tội. Để có thể xác định được đầy đủ và chính xác các yếu tố cơ sở để xác định trách nhiệm hình sự của người CTN cũng như quyết định biện pháp xử lý phù hợp nhất đối với họ, cần có sự tham gia của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội để cung cấp thông tin về điều kiện, môi trường sinh sống, giáo dục, vui chơi của người CTN; tính cách, đạo đức, lối sống, thái độ học tập, sinh hoạt của họ; khả năng giám sát, giáo dục của gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội đối với họ v.v… Hơn nữa, do còn non nớt và thiếu kinh nghiệm sống, người CTN cảm thấy căng thẳng, khó khăn, thậm chí sợ hãi khi phải đối diện với cán bộ điều tra. Chính vì vậy, họ cần sự hỗ trợ về mặt tinh thần của cha mẹ, người thân khi được lấy lời khai tại cơ quan điều tra. Việc gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội tham gia vào quá trình tố tụng một mặt xuất phát từ trách nhiệm của ba chủ thể này trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ em mà Hiến pháp và Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đã quy định, mặt khác có ý nghĩa giám sát hoạt động của cơ quan điều tra, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo CTN. Từ những lý do trên, Bộ luật TTHS đã có những quy định cụ thể về việc tham gia của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong hoạt động điều tra.
2.2. Khoảng cách giữa luật pháp và chính sách quốc gia với các chuẩn mực quốc tế
Khi nghiên cứu luật pháp và chính sách quốc gia trong mối tương quan với các chuẩn mực quốc tế, chúng ta nhận thấy các quy chuẩn và tiêu chuẩn hướng dẫn công tác điều tra, truy tố và xét xử hiếm khi được đưa vào các văn bản luật. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Thông thường, sau khi xác định được một số chuẩn mực để áp dụng, các chuẩn mực này được đưa vào các chính sách, chỉ thị hay những hình thức chỉ dẫn khác mang tính chất nội bộ dành cho điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán. Đôi khi trong những chính sách này không có sự phân biệt giữa các phương pháp và thực tiễn hoạt động thích hợp đối với người lớn với những phương pháp và thực tiễn chú trọng đến sự nhận thức, thể chất và tâm lý của trẻ em cũng như hoàn cảnh đặc biệt và tính dễ bị tổn thương của trẻ em.
Mặc dù điều tra viên, kiểm sát viên và Thẩm phán không có thẩm quyền ban hành luật hoặc sửa đổi luật, họ có thể đóng vai trò quan trọng hàng đầu thông qua việc chỉ ra những quy định pháp luật có thể cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo hướng nhạy cảm với trẻ em hoặc thông qua việc ghi chép lại các vụ án mà pháp luật thực định hoặc các yêu cầu về tố tụng đã gây tổn hại cho trẻ em và các quyền của họ.
Quan trọng nhất, không phải là các chính sách luật pháp hiện hành mà chính là thái độ của các điều tra viên, kiểm sát viên và Thẩm phán hoặc chính việc điều tra viên, kiểm sát viên và Thẩm phán không quan tâm đến các nhu cầu và hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em đã làm tổn hại tới các quyền của trẻ. Những người tiến hành tố tụng này cần biết được phải làm gì để thay đổi thái độ của mình và làm quen với một số cách thức thiết thực để làm cho những hoạt động của mình trở nên thích ứng với hoàn cảnh của trẻ. Điều đó có thể sẽ ảnh hưởng nhiều nhất đến cách thức đối xử với trẻ em trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Do vậy, việc nhìn nhận lại kinh nghiệm và thực tiễn hoạt động của người tiến hành tố tụng là khâu quan trọng nhất để bắt đầu quá trình thay đổi.
Xem thêm bài viết về “Bị cáo”
- Một số vấn đề Kiểm sát viên lưu ý khi tham gia xét hỏi bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự về Tội Giết người – ThS. Vũ Đức Hạnh
- Bị cáo là gì? Các quyền và nghĩa vụ của Bị cáo – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
3. Thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử
3.1. Trong hoạt động điều tra
So với trước đây, trình độ hiểu biết của điều tra viên về người CTN đã được nâng lên rõ rệt. Điều tra viên đã quan tâm hơn tới quy cách làm việc, đối xử với người CTN trong quá trình điều tra như đã phân biệt được cách thức hỏi cung người CTN với người thành niên, đã hiểu hơn và tôn trọng hơn các quyền của chủ thể này. Tuy nhiên, trên thực tế việc điều tra loại án này vẫn còn nhiều vi phạm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN. Việc các cơ quan điều tra chấp hành các quy định của pháp luật còn mang nặng tính hình thức và chưa vận dụng triệt để nguyên tắc chung hướng dẫn cho các hành động có liên hệ tới trẻ em vi phạm pháp luật “Mọi trẻ em bị cáo buộc, buộc tội, hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của người khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về sự tái hòa nhập cộng đồng”[14]. Nguyên tắc chung này làm kim chỉ nam cho việc tiến hành điều tra các vụ việc liên quan tới trẻ em và người CTN vi phạm luật pháp. Quyền lợi cơ bản nhất của trẻ nên là một yếu tố trong các quyết định của cảnh sát liên quan tới một cuộc điều tra.
Một số vướng mắc trong hoạt động điều tra là: điều tra viên khi tiến hành tố tụng đối với người CTN phạm tội chưa có đầy đủ những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm người CTN. Hiệu quả của hoạt động tố tụng trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN, hiệu quả của công tác phòng ngừa người CTN phạm tội chỉ có thể đạt được trên cơ sở những người tiến hành tố tụng nắm vững được những đặc điểm tâm lý, khoa học giáo dục người CTN. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một đội ngũ chuyên trách giải quyết những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN. Đây là một nhược điểm rất khó khắc phục do vấn đề biên chế đội ngũ cán bộ hiện nay. Do số lượng án hình sự nói chung, án do người CTN thực hiện nói riêng mỗi năm tăng dẫn đến tình trạng thiếu người hoặc một người phải kiêm giải quyết nhiều loại việc. Do qui định của pháp luật về tiêu chuẩn của những người tiến hành tố tụng giải quyết những vụ án loại này còn quá chung chung cho nên trên thực tế nhiều cơ quan điều tra (CQĐT) hầu như không phân biệt vụ án có người CTN hay không trong việc phân công Điều tra viên điều tra vụ án.
Bên cạnh đó, nhiều điều tra viên chưa chú ý đến việc điều tra về nguyên nhân, điều kiện phạm tội, điều kiện sinh sống, giáo dục của gia đình, nhà trường. Vấn đề mang tính phổ biến vì CQĐT mới chỉ quan tâm đến mặt chứng cứ, xác định có phạm tội hay không, việc bỏ thời gian tìm hiểu, nghiên cứu về điều kiện sinh sống giáo dục của người CTN chưa được chú trọng. Trong quá trình hỏi cung bị can, vẫn còn những điều tra viên chưa chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của người CTN nên vẫn còn xảy ra tình trạng đe dọa, quát mắng, đánh các em gây cho các em tâm lý sợ hãi, căng thẳng. Việc giáo dục, cảm hóa người CTN phạm tội phải được thực hiện ngay trong quá trình khởi tố, điều tra. Tuy nhiên không phải người tiến hành tố tụng nào cũng nhận thức rõ điều đó. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do họ phải giải quyết một lượng án lớn trong một thời gian nhất định nên chưa có sự quan tâm đúng mức đến tầm quan trọng trong việc giáo dục, giúp đỡ tới bị can là người CTN. Mặt khác, do chưa được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng hỏi cung, thẩm vấn bị can là người CTN nên nhiều điều tra viên không có sự phân biệt giữa kỹ năng hỏi cung bị can thành niên và bị can CTN khác nhau như thế nào.
Một trong những hạn chế khác không kém phần quan trọng là cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động điều tra, cụ thể là phòng hỏi cung. Hiện nay, bị can là người CTN vẫn bị hỏi cung tại những nơi lấy cung của người thành niên. Do tuổi còn nhỏ và đặc tính dễ bị tổn thương, tâm lý sợ công an nên trẻ em nhạy cảm với việc ép buộc hơn người thành niên, do đó dễ dẫn đến việc cho lời khai không đúng, gây bất lợi cho mình. Khi điều tra viên vẫn sử dụng các chiến thuật hỏi cung như hỏi cung với bị can là người thành niên, lại không có đại diện gia đình của bị can CTN, sẽ gây nên sự sợ hãi, căng thẳng cho các em. Điều đó không những ảnh hưởng đến quyền lợi của các em mà còn dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
3.2. Trong hoạt động truy tố
Viện kiểm sát các cấp đã thực hiện đúng thẩm quyền của mình trong việc xử lý những vụ án do người CTN thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 và Bộ luật hình sự hiện hành. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực cũng còn nhiều hạn chế, bất cập trong giai đoạn này.
Viện kiểm sát với chức năng, nhiệm vụ vừa là cơ quan trực tiếp tiến hành tố tụng vừa là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng, Viện kiểm sát có vai trò rất lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm việc xử lý nghiêm minh đúng người, đúng tội, nhất là đối với bị can là người CTN. Hiện nay, với chức năng của mình, Viện kiểm sát cũng chưa thực sự quan tâm đến nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội của người CTN trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Có những trường hợp nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có địa chỉ nới cư trú rõ ràng, có sự bảo lãnh của gia đình, cha mẹ, người thân… nhưng vẫn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam và không xem xét cho người CTN phạm tội tại ngoại điều tra. Chính điều này đã vi phạm đến quyền của người CTN, vi phạm vào các nguyên tắc chủ đạo quốc tế “Sự bắt bớ, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”[15].
3.3. Trong hoạt động xét xử
Cũng giống như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án khi xét xử sơ thẩm những vụ án mà bị cáo là người CTN thì ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung của Bộ luật TTHS năm 2003 còn phải đảm bảo cho các quy định đối với người CTN được thực hiện một cách đầy đủ. Mặc dù Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về các thủ tục đặc biệt như sự tham gia của người bào chữa, của gia đình và các tổ chức xã hội, về thành phần Hội đồng xét xử, hình thức xét xử… rất cụ thể, tuy nhiên trong thực tiễn việc thực hiện những quy định này còn thể hiện nhiều sự bất cập. Vẫn còn nhiều thẩm phán thiếu những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với bị cáo là người CTN khi xét xử. Phần lớn thẩm phán khi tiến hành xét xử những vụ án mà bị cáo là người CTN không khác gì với xét xử người đã thành niên, như về thái độ, vẫn la hét, thậm chí dùng những lời không tâm lý đối với bị cáo là người CTN, khiến cho họ cảm thấy sợ sệt và không khai báo. Hậu quả là họ sẽ bị quy vào việc khai báo quanh co, chối tội… Có tình trạng lúng túng này là do một phần lớn thẩm phán được phân công xét xử những vụ án mà bị cáo là người CTN không có những hiểu biết về tâm lý, khoa học giáo dục cũng như hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người CTN. Hội thẩm nhân dân cũng không có những hiểu biết về tâm lý, khoa học giáo dục đối với bị cáo là người CTN nên còn hỏi miên man, thừa thải, lặp lại những gì chủ tọa phiên tòa đã hỏi hoặc hỏi không nhằm mục đích giáo dục mà thiên về hướng hạch tội, mạt sát bị cáo là người CTN. Ngoài ra, không khí trang nghiêm tại phòng xử án, thái độ lạnh lùng quát tháo của thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng khai báo hiệu quả và tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng của bị cáo là người CTN. Nhiều Tòa án đưa ra xét xử lưu động người CTN đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là người CTN. Những nghiên cứu gần đây cho thấy về hình thức phiên tòa hiện chưa có bất kỳ phòng xử nào riêng biệt để tiến hành tố tụng liên quan tới người CTN. Hầu hết các phiên tòa xét xử công khai, có quần chúng nhân dân ngồi xem đã làm tăng tâm lý sợ hãi, căng thẳng và bị kỳ thị trong các em. Việc người CTN bị đưa ra xét xử trong môi trường giống bị cáo đã thành niên hoặc trong cùng vụ án với bị cáo đã thành niên làm cho người CTN bị ảnh hưởng tiêu cực từ phía bị cáo đã thành niên. Có thể họ sẽ liều lĩnh và nguy hiểm hơn sau khi bị đưa ra xét xử.
Xem thêm bài viết về “Người dưới 18 tuổi (Người chưa thành niên)”
- Một số vấn đề pháp lý về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Trần Ngọc Lan Trang & ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Nguyên tắc và căn cứ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Cơ sở khoa học của việc thành lập trại giam dành riêng cho phạm nhân chưa thành niên – ThS. Nguyễn Quang Vũ
4. Những đề xuất, kiến nghị
Hệ thống tư pháp thân thiện với người CTN là một hệ thống được thiết kế phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý của người CTN, chú trọng và đáp ứng được những nhu cầu đặc thù của lứa tuổi. Xây dựng một hệ thống tư pháp thân thiện với người CTN không phải là phủ định hệ thống hiện có của chúng ta, mà là kế thừa chủ trương bảo vệ, chăm sóc đặc biệt đối với người CTN phạm tội và trẻ em là nạn nhân của tội phạm trong hệ thống pháp luật hiện hành và tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp những quy định này sao cho bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền của trẻ em, đáp ứng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Cụ thể là:
– Cách sắp xếp, trang trí phòng điều tra đối với trẻ em, người CTN phạm tội theo hướng thân thiện hơn; khi tiếp xúc với trẻ em, người CTN phạm tội điều tra viên nên mặc thường phục;
– Phòng xử án được trang trí đảm bảo tính thân thiện để tránh cho người CTN bị ám ảnh quá nhiều bởi hành vi trái pháp luật của mình, bố trí các đồ đạc để các bên ngồi ngang bằng nhau xung quanh một cái bàn, bỏ “vành móng ngựa”; tất cả các bên đều mặc quần áo bình thường; cấm không sử dụng còng tay hoặc phương tiện hạn chế khác ở phòng xử án; cho phép người CTN ngồi cạnh cha mẹ hoặc luật sư của mình; yêu cầu các bên ngồi chứ không đứng khi tiến hành thẩm vấn; yêu cầu thẩm phán giải thích quy trình tố tụng cho người CTN ngay khi bắt đầu xét xử và giải thích đầy đủ hành vi phạm tội của bị cáo bằng ngôn ngữ đơn giản; bảo đảm rằng, tại mọi thời điểm, người CTN được hỏi, giải thích, đối đáp bằng ngôn ngữ mà người đó hiểu; bảo đảm việc giải thích thường xuyên cho người CTN trong suốt quá trình xét xử; không cho phép công chúng tham dự khi xét xử, không xử lưu động các vụ án có liên quan đến người CTN phạm tội, hoặc người CTN bị hại… Những quy định này sẽ phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về thủ tục tố tụng đối với người CTN được thể hiện trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn bản có liên quan mà Việt Nam đã tham gia và cam kết thực hiện.
– Cần xây dựng Tòa án chuyên biệt đối với người CTN theo hướng Tòa này có thẩm quyền giải quyết tất cả những vụ việc liên quan đến người CTN (người CTN vi phạm pháp luật; những vấn đề gia đình ảnh hưởng đến người CTN). Điều này sẽ đòi hỏi nỗ lực rất lớn từ phía các cơ quan tư pháp, trong đó có hệ thống Tòa án cũng như đội ngũ cán bộ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, vì những quy định về thủ tục tiến hành tố tụng đối với người CTN mang tính đặc thù, nhất là trong lĩnh vực TTHS.
Trên đây là một số giải pháp, kiến nghị mà chúng tôi đưa ra nhằm từng bước hoàn thiện quy định của pháp luật, thay đổi nhận thức, nâng cao vai trò, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng khi giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện, nhằm tạo cho “mọi trẻ bị cáo buộc, buộc tội, hoặc bị coi là vi phạm pháp luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của người khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về sự tái hòa nhập cộng đồng”.[16]
CHÚ THÍCH
* ThS Luật học, Luật sư.
[1] Việt Nam phê chuẩn Công ước này ngày 20-2-1990.
[2] Xem: Quy tắc tối thiểu vể Quản lý tư pháp người CTN (1985); Bộ quy tắc ứng xử cho các nhân viên thực thi luật pháp (1979); Quy tắc Liên hợp quốc vể Bảo vệ người CTN bị buộc tội và tước đoạt quyền tự do cá nhân (1990); Hướng dẫn cho hành động đối với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự (1997).
[3] Điểm 1.4 của Quy tắc Bắc Kinh quy định “Tư pháp người CTN sẽ được xem như một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phát triển quốc gia của một nước”.
[4] Điều 2 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
[5] Điều 3, mục 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
[6] Điều 37c của Công ước quốc tế về quyền trẻ em
[7] Điều 12 và 13 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
[8] Điều 13 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Hướng dẫn hành động vì trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự.
[9] Điều 37 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Quy tắc số 87a của Liên hợp quốc về bảo vệ người CTN bị tước quyền tự do.
[10] Điều 37b của Công ước quốc tế về quyền trẻ em
[11] Điều 37b của Công ước quốc tế về quyền trẻ em
[12] Điều 9, mục 4 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em và quy tắc số 56 Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người CTN bị tước quyền tự do.
[13] Điều 40 Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
[14] Điều 40.1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
[15] Có một số nguyên tắc cơ bản áp dụng cho mỗi giai đoạn của hệ thống tư pháp người chưa thành niên. Được gọi là các nguyên tắc chủ đạo, các nguyên tắc này được rút ra từ những văn kiện quốc tế phù hợp. Mọi cá nhân cần phải ghi nhớ các nguyên tắc này hằng ngày bất kỳ khi đưa ra một quyết định liên quan đến tư pháp người chưa thành niên.
[16] Điều 40.1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Like fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Tác giả: Nguyễn Hữu Thế Trạch* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2013 (76)/2013 – 2013, Trang 27-36
Trả lời