Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự tiếp theo sau khi định tội danh đối với hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi, thể hiện ở cơ sở hồ sơ của vụ án và kết quả tranh tụng tại Tòa, xác định tình tiết của vụ án, nhận thức đầy đủ các quy định của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử lựa chọn mức hình phạt để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi bị kết tội và ra phán quyết bản án kết tội về hình phạt đó”.
Xem thêm bài viết về “Hình phạt”
- Các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Hoàn thiện chính sách hình phạt trong quy định của Bộ luật Hình sự 2015 theo tinh thần của các Công ước quốc tế về quyền con người – ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
- Hình phạt là gì? Đặc điểm, mục đích và hệ thống các hình phạt? – ThS.LS. Phạm Quang Thanh
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự 1999 về các hình phạt chính không tước tự do – ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
- Một số thành công và hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về các hình phạt chính không tước tự do – TS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ áp dụng một số hình phạt nhất định trong hệ thống hình phạt mà BLHS hiện hành quy định, đó là: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ và Tù có thời hạn.
1. Các yêu cầu áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Quy định các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được pháp luật hình sự Việt Nam xây dựng phải đảm bảo các yêu cầu sau:
1.1. Bảo đảm các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Vì người dưới 18 tuổi phạm tội là chủ thể tội phạm có tính chất đặc thù; do đó, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải tuân theo những nguyên tắc chung và nguyên tắc riêng nhất định. Khi xây dựng quy định các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo các nguyên tắc này.
Có như vậy thì mới thể hiện đúng chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, đảm bảo sự công bằng trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
1.2. Bảo đảm được mục đích của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nghĩa là phải ưu tiên áp dụng các biện pháp có tính chất giáo dục, thuyết phục trước. Việc áp dụng hình phạt chỉ đặt ra khi có đủ căn cứ cho rằng việc áp dụng các biện pháp giáo dục quyết phục không đạt được hiệu quả trong việc cải tạo người phạm tội. Quy định áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo được mục đích chung của hình phạt đó là mục đích phòng ngừa riêng và mục đích phòng ngừa chung.
1.3. Đảm bảo lợi ích tốt nhất người chưa thành niên phạm tội
Yêu cầu này được pháp luật hình sự Việt Nam cụ thể hóa thành một trong các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi pháp tội, là nguyên tắc mới được xác định trong Bộ luật hình sự 2015. Với nguyên tắc này, đòi hỏi mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tiến hành hoạt động xử lý đối với người dưới 18 tuổi pháp tội, hay quyết định áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo rằng quyết định được đưa ra là tốt nhất cho họ, trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác, cũng như bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
1.4. Bảo đảm được yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Quy định hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam ngoài mục đích giáo dục, trừng trị, răn đe thì còn nhằm thực hiện yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm. Và đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng vậy. Khi xây dựng và thực hiện quy định các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đòi hỏi cũng phải đảm bảo được yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Thông qua quy định áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để các cơ quan có thẩm quyền sử dụng chúng làm công cụ đấu tranh chống tội phạm, đồng thời cũng là công cụ để sử dụng trong hoạt động phòng ngừa tội phạm.
2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được thực hiện tuân theo các nguyên tắc chung và riêng quy định trong pháp luật hình sự.
Khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cần phải tuân theo các nguyên tắc chung sau:
2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc này được thể hiện trong quy định tại Điều 2, Điều 30 và Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015.
Việc áp dụng hình phạt là chức năng, thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước tuyên hình phạt sau khi kết luận về hành vi của bị náo nếu hành vi đó thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của một tội danh cụ thể.
“Khi áp dụng hình phạt Tòa án phải tuân thủ các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng các loại hình phạt”.
2.2. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc này được thể hiện thông qua việc xem xét đánh giá một số tình tiết giảm nhẹ được quy định và còn được thể hiện thông qua các quy định áp dụng hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt”.
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm.
Mặc dù hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhưng trong hệ thống hình phạt vẫn mang tính nhân đạo sâu sắc, thể hiện sự khoan hồng. Có nhiều hình phạt không cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội, không tước đoạt tự do của người phạm tội và hệ thống hình phạt cũng không quy định những hình phạt gây đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp phẩm giá của con người.
Mặt khác, bên cạnh tính nhân đạo thể hiện trong hệ thống hình phạt thì pháp luật hình sự Việt Nam còn còn quy định hệ thống miễn giảm hình phạt.
2.3. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Hình phạt được áp dụng khi người nào thực hiện hành vi phạm tội “ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Ngoài ra nguyên tắc này còn được thể hiện khi áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm.
2.4. Nguyên tắc công bằng.
Nguyên tắc này được thể hiện trong nhiều quy định của pháp luật hình sự và không chỉ được đặt ra khi xét xử một người phạm tội cụ thể mà còn được xem xét, đánh giá khi áp dụng hình phạt đối với các tội phạm khác nhau. Việc quyết định áp dụng hình phạt được căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các yếu tố, đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tinh thần của nguyên tắc công bằng ở đây chính là khi xem xét quyết định hình phạt thì cần đặt tội phạm và hình phạt trong một thể thống nhất và biện chứng với nhau, xem xét toàn bộ tình tiết vụ án để có quyết định áp dụng một hình phạt thích đáng và hợp lý.
Ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc trên khi xem xét quyết định áp dụng hình phạt thì đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải tuân thủ thêm một số nguyên tắc đặc thù:
2.5. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
“Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suất trong quá trình xây dựng cũng như áp dụng các quy định của pháp luật hình sự pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản có liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội”
Đây là nguyên tắc mới được xác định trong Bộ luật hình sự 2015.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi áp dụng quy định các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải đảm bảo đó là quyết định tốt nhất đối với họ, trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác, đồng thời đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Quy định này cũng phù hợp với quy định tại Điều 3 Công ước về quyền trẻ em. Nguyên tắc này là một trong nhưng cơ sở pháp lý định hướng cho người tiến hành tố tụng 20 khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm tìm ra biện pháp xử lý phù hợp nhất đối với họ.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. (Điều 91 Bộ luật hình sự 2015). Quy định này nhằm cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bởi lẽ người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển và hoàn thiện đầy đủ về cả tâm, sinh lý, họ không có khả năng nhận thức đầy đủ về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi của mình gây ra. Mặt khác với mục đích giáo dục, giúp người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm nên Bộ luật hình sự Việt Nam đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải xác định chính xác mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện, nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Chỉ khi làm rõ được các điều đó thì các cơ quan có thẩm quyền mới có thể giúp người dưới 18 tuổi phạm tội nhận thức được sai lầm của mình, để từ đó giao dục họ hoặc giúp họ có ý thức tự giác sửa chữa sai lầm để trở thành công dân tốt.
2.6. Nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội vào những đặc điểm của nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm
Người dưới 18 tuổi có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả và được gia đình, cơ quan tổ chức nhận giám sát giáo dục.
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện:
2.6.1. Chỉ truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp cần thiết
Khi người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi cấu thành một tội phạm cụ thể thì không phải mọi trường hợp đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ truy cứu trong trường hợp cần thiết. Nghĩa là nếu xét thấy không cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc đình chỉ điều tra đồng thời ra quyết định áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với họ.
2.6.2. Xem xét nhân thân người dưới 18 tuổi khi quyết định hình phạt
Cơ quan có thẩm quyền cân nhắc, đánh giá đặc điểm nhân thân của người dưới 18 tuổi phạm tội, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu phòng chống tội phạm. Ngay cả khi hành vi đã cấu thành một tội phạm cụ thể nhưng xét thấy đặc điểm nhân thân là không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hinh sự thì sẽ được áp dụng các biện pháp có tính chất giám sát, giáo dục. Ngược lại đối với trường hợp tái phạm nhiều lần, trước đó đã từng bị áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục hoặc cố ý phạm tội đến cùng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.6.3. Ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp nếu đảm bảo hiệu quả giáo dục, phòng ngừa
Khi xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa đủ 18 tuổi phạm tội là đảm bảo hiệu quả giáo dục phòng ngừa, thì Tòa án áp dụng các biện pháp tư pháp, giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc tại địa phương.
Thực tiễn phòng chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện cho thấy, việc áp dụng hình phạt cách ly người dưới 18 tuổi ra khỏi xã hội luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất lợi cho quá trình phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng của đối với người dưới 18 tuổi, đồng thời gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bình thường của họ.
Do đó, khi xem xét quyết định xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự, áp dụng các biện pháp tư pháp, áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không đảm bảo hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
Nguyên tắc này là cơ sở cho việc quyết định áp dụng hình phạt; Riêng đối với hình phạt tù có thời hạn chỉ áp dụng trong trường hợp nhận thấy các hình phạt khác đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không thích hợp, không vì lợi ích tốt nhất của họ và thời hạn tù cần xác định sao cho vừa đủ để giáo dục, phục hồi đối với người dưới 18 tuổiphạm tội trên cơ sở cân nhắc toàn diện điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, đặc điểm nhân thân của họ.
2.6.4. Không áp dụng hình phạt chung thân, tử hình và hình phạt bổ sung
Đối với người chưa đủ 18 tuổi phạm tội thì Tòa án không áp dụng các hình phạt, xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với họ, quyền được hưởng mức án nhẹ nhất mức án khác hơn so với mức án mà Tòa án áp dụng đối với người đã đủ 18 tuổi.
Nguyên tắc này cụ thể hóa nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổiphạm tội nhằm mục đích giáo dục; Để đảm bảo mục đích giáo dục thì cấm áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình vì đây là hai hình phạt đặc biệt nghiêm khắc, tù chung thân là hình phạt có nội dung cách ly người phạm tội khỏi đời sống xã hội không thời hạn, còn tử hình là hình phạt có nội dung loại trừ người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội.
Vì vậy, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, không áp dụng các hình phạt bổ sung và khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
2.6.5. Nghiêm khắc xử lý trường hợp tái phạm và tái phạm nguy hiểm
Tái phạm và tái phạm nguy hiểm thể hiện thái độ chấp hành pháp luật không tốt của người phạm tội. Pháp luật hình sự Việt Nam luôn xem tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng của nhiều tội phạm và là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nếu thuộc trường hợp phạm tội có tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì Tòa án phải quyết định mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với trường hợp không phải là tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
3. Các căn cứ áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Theo quy định tại Điều 50 của Bộ luật hình sự thì:
“Khi quyết định hình phạt Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
“Khi áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án còn căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội”.
3.1. Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự 2015
Khi quyết định hình phạt trước hết phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, tức là phải dựa vào các quy định của Phần chung và Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Các quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự bao gồm:
- Quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Bộ luật hình sự 2015;
- Quy định về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự 2015;
- Các quy định về hình phạt đối với người phạm tội từ Điều 30 đến Điều 45 Bộ luật hình sự;
- Các quy định về biện pháp tư pháp đối với người phạm tội từ Điều 46 đến Điều 49;
- Các quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội (Điều 50), các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 51, 52), về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53).
- Các quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể (Điều 54 đến Điều 59).
3.2. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là đặc tính về chất, đặc trưng cho một loại tội phạm, thể hiện sự khác biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác ở các điều luật khác nhau và ở khoản này với khoản khác trong cùng một điều luật quy định ở phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Khi xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để quyết định hình phạt, cần xem xét tổng hợp các tình tiết gồm:
- Tính chất, tầm quan trọng và giá trị của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại;
- Công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm;
- Mức độ, hậu quả thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra;
- Mức độ thực hiện ý định phạm tội như chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt…
- Hình thức lỗi, mức độ lỗi, động cơ và mục đích phạm tội;
- Hoàn cảnh chính trị – xã hội lúc và nơi tội phạm xảy ra.
Khi quyết định hình phạt sẽ bảo đảm được tính thống nhất và sự công bằng trong quyết định hình phạt đối với các trường hợp phạm tội khác nhau của cùng tội phạm.
3.3. Căn cứ nhân thân người phạm tội
Khi xem xét quyết định hình phạt thì thông thường sẽ xem xét các đặc điểm nhân thân sau:
- Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội liên quan trực tiếp với việc thực hiện tội phạm, thể hiện mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như của người phạm tội và khả năng tiếp thu giáo dục, cải tạo của họ như phạm tội lần đầu, phạm tội do trình độ lạc hậu, phạm tội nhiều lần, có tiền án, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
- Những đặc điểm liên quan đến thái độ của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội như tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công chuộc tội, không thành khẩn khai báo, người dưới 18 tuổi…
- Những đặc điểm nhân thân liên quan đến các chính sách của Đảng và Nhà nước như chính sách tôn giáo, dân tộc, chính sách đối với người có công…
3.4. Căn cứ những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
Được quy định tại Điều 51, 52 Bộ luật hình sự 2015, có thể được phân thành 3 nhóm như sau:
Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, làm mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm hoặc tăng lên đáng kể.
Tuy các tình tiết này thuộc nội dung của căn cứ thứ hai và thứ ba ở trên nhưng Pháp luật hình sự Việt Nam vẫn xem đây là một trong những căn cứ mang tính độc lập xem xét, quyết định hình phạt.
Thẩm phán, người tiến hành tố tụng phải xem xét cân nhắc riêng các tình tiết và giữa mối liên hệ toàn bộ của vụ án để quyết định giảm nhẹ hay tăng nặng trách nhiệm hình sự khi áp dụng hình phạt./.
Xem thêm bài viết về “Người dưới 18 tuổi (Người chưa thành niên)”
- Các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Cơ sở khoa học của việc thành lập trại giam dành riêng cho phạm nhân chưa thành niên – ThS. Nguyễn Quang Vũ
- Bảo đảm quyền của người chưa thành niên là con của phạm nhân trong pháp Luật Thi hành án hình sự Việt Nam – ThS. Vũ Thị Thúy & ThS. Nguyễn Thị Kiều Oanh
- Chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền ưu tiên tư pháp của trẻ em phạm tội và tính tương thích trong Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. Vũ Thị Phượng
Trả lời