Mục lục
Nội luật hóa các quy định của Công ước quốc tế về chống tra tấn đối với hoạt động hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
- So sánh “Hỏi cung bị can” và “Lấy lời khai người làm chứng”
- Phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình ở Việt Nam khi gia nhập Công ước chống tra tấn
- Nội luật hóa Công ước chống tra tấn về bảo đảm quyền của người bị buộc tội
- Thực hiện nghĩa vụ của quốc gia trong Nội luật hóa Công ước chống tra tấn
- Hoàn thiện một số quy định của BLHS theo Công ước về chống tra tấn
TỪ KHÓA: Nội luật hóa, Công ước chống tra tấn, Hỏi cung, Bị can, Tạp chí Khoa học pháp lý
TÓM TẮT
Ngày 7-11-2013, Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và đang triển khai các bước tiếp theo để phê chuẩn Công ước này. Vấn đề nội luật hóa các nội dung của Công ước là một yêu cầu tất yếu hiện nay và phải được tiến hành trên một diện rộng, gồm nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự nói chung và hoạt động hỏi cung bị can nói riêng. Các quy định của pháp luật hiện hành về hỏi cung bị can cơ bản đã đảm bảo được vấn đề “chống tra tấn”. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả quá trình nội luật hóa Công ước cũng như nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người của bị can khi bị hỏi cung, pháp luật tố tụng hình sự nước ta cần hoàn thiện hơn các quy định về hỏi cung cũng như có những cơ chế cần thiết để đảm bảo hiệu quả của hoạt động này. Cụ thể: – Hoàn thiện các quy định tại Điều 131, Điều 306 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về hỏi cung bị can; – Hoàn thiện quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về quyền của người bào chữa; – Ghi nhận quyền im lặng của bị can; – Luật hóa các biện pháp nghiệp vụ khi hỏi cung bị can.
1. Đặt vấn đề
Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về “Chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hoặc đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc làm hạ nhục khác” (sau đây gọi tắt là “Công ước Chống tra tấn”) được Đại hội đồng LHQ thông qua vào 10/12/1984 và có hiệu lực từ 26/6/1987. Công ước Chống tra tấn có vai trò loại bỏ các hành vi đối xử tàn bạo, vô nhân đạo ra khỏi đời sống xã hội các quốc gia. Các quốc gia là thành viên đã ký và thông qua Công ước phải thực hiện các nghĩa vụ như ngăn ngừa hành vi tra tấn, điều tra các cáo buộc tra tấn, đưa thủ phạm tra tấn ra trước công lý và thực hiện quyền bồi thường thỏa đáng cho nạn nhân bị tra tấn…
Công ước đã đặt ra một yêu cầu đối với các nước thành viên nói chung là “phải thực hiện các biện pháp cụ thể về lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các biện pháp hiệu quả khác nhằm ngăn chặn mọi hành vi tra tấn,”[1] thông qua các biện pháp phổ biến thông tin, đào tạo các lực lượng thực thi pháp luật, thường xuyên rà soát các quy định về thẩm vấn và giam giữ.
Với vai trò là thành viên Hội đồng Nhân quyền và là nước đã phê chuẩn, gia nhập nhiều điều ước quốc tế về quyền con người, trong đó có Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị nên có thể khẳng định vấn đề phòng chống tra tấn là trách nhiệm pháp lý quốc tế của Nhà nước Việt Nam. Ngày 7/11/2013, Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký Công ước của LHQ về chống tra tấn và đang triển khai các bước tiếp theo để phê chuẩn công ước này.
Khi tham gia Công ước đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện quá trình nội luật hóa các nội dung của Công ước vào hệ thống pháp luật quốc gia để đảm bảo tính thống nhất. Việc nội luật hóa phải được thực hiện trên diện rộng, gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như hình sự, tố tụng hình sự (TTHS) cũng như các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả chỉ đề cập đến vấn đề “Nội luật hóa các quy định của Công ước quốc tế về chống tra tấn đối với hoạt động hỏi cung bị can trong Tố tụng hình sự Việt Nam”
2. Nội dung
2.1. Quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam về vấn đề chống tra tấn
“Tra tấn” có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe doạ hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và khổ đau đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức.[2]
Do tính chất và hậu quả nghiêm trọng của hành vi tra tấn, Công ước đã yêu cầu mỗi quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các biện pháp hiệu quả khác để ngăn chặn các hành vi tra tấn trên bất cứ khu vực lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình. Việc ngăn cấm hành vi tra tấn được áp dụng trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là trong tình trạng chiến tranh hoặc đang bị đe dọa bởi chiến tranh, mất ổn định chính trị trong nước hoặc bất kỳ tình trạng khẩn cấp nào. [3]
Liên quan đến hoạt động điều tra, đặc biệt là hoạt động hỏi cung bị can, Công ước Chống tra tấn đã yêu cầu các nước thành viên phải “Bảo đảm rằng bất kỳ phát ngôn nào được đưa ra như là kết quả của tra tấn sẽ không được sử dụng làm bằng chứng trong bất kỳ tiến trình tố tụng nào, trừ khi để làm bằng chứng chống lại một người bị cáo buộc là đã thực hiện hành động tra tấn để có lời khai người đó”[4] và “đảm bảo rằng mọi hành vi tra tấn đều cấu thành tội phạm theo luật hình sự của nước mình….Mỗi quốc gia thành viên phải trừng trị những tội phạm này bằng những hình phạt thích đáng tương ứng với tính chất nghiêm trọng của chúng”[5]
Với tư cách là một nước thành viên của Công ước, các yêu cầu trên phải được nội luật hóa vào hệ thống pháp luật trong nước sao cho phù hợp với yêu cầu chung và phù hợp với điều kiện kinh tế – chính trị cụ thể của nước ta.
Hiến pháp năm 2013 chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 là sự kiện chính trị – pháp lý quan trọng đánh dấu bước phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sự bảo vệ quyền con người, quyền công dân mạnh mẽ hơn, đặc biệt là vấn đề chống lại những hành vi tra tấn nhằm đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người. Thuật ngữ “tra tấn” đã được chính thức ghi nhận tại Điều 20 Hiến pháp, theo đó: “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Thuật ngữ “tra tấn”dù chỉ mới được ghi nhận một cách chính thức từ sau khi Việt Nam tham gia ký kết Công ước Chống tra tấn, thể hiện qua nội dung bản Hiến pháp năm 2013 nhưng vấn đề bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự… thì đã được Nhà nước ta quan tâm và ghi nhận như là một trong những quyền cơ bản nhất của con người từ rất lâu thông qua các quy định tại các bản Hiến pháp trước đó[6] (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992) và được pháp luật bảo vệ bằng nhiều cách thức khác nhau. Chính vì vậy, việc “chống tra tấn” và các hành vi khác dẫn đến sự xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín là một yêu cầu khách quan nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người.
Như vậy, Việt Nam chỉ mới tham gia ký kết từ năm 2013 nhưng qua nội dung của các bản Hiến pháp như đã đề cập có thể khẳng định rằng vấn đề chống tra tấn đã được Nhà nước ta quan tâm từ rất lâu và đã có những cơ chế hữu hiệu để đảm bảo vấn đề này. Những quy định trên không những thể hiện sự tôn trọng một cách tuyệt đối quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con người; mà còn thể hiện sự quyết tâm sâu sắc của nước ta trong việc nội luật hóa công ước chống tra tấn. Đây sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành, nhằm chống lại những hành vi tra tấn hay những hành vi tương tự khác như hành vi “bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
2.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về vấn đề chống tra tấn trong hoạt động hỏi cung bị can.
Theo quan điểm của một số nhà khoa học, mô hình TTHS của nước ta là mô hình tố tụng có sự giao thoa giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng nhưng mang đậm chất tố tụng thẩm vấn. Vì vậy, trách nhiệm kiểm soát tội phạm được giao cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT). Các cơ quan này sẽ sử dụng chứng cứ để chứng minh, xác định sự thật vụ án. Và phải khẳng định một điều rằng, trong các giai đoạn tố tụng, giai đoạn điều tra đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập chứng cứ. Hệ thống các chứng cứ thu thập được sẽ là “công cụ” được sử dụng trong suốt quá trình chứng minh vụ án. Tiến hành hoạt động điều tra là cách thức để cơ quan có thẩm quyền thu thập chứng cứ, trong đó hoạt động hỏi cung bị can đóng vai trò quan trọng bởi bị can là người có thể biết nhiều nhất các thông tin về tội phạm. Nếu hoạt động hỏi cung đạt được hiệu quả cao, bị can thành thật khai báo thì việc chứng minh tội phạm, xác định sự thật sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
Hỏi cung bị can là một hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can. Mục đích cơ bản của hỏi cung là thu được lời khai đúng, đầy đủ về sự thật của vụ án và những tin tức cần thiết khác phục vụ cho công tác điều tra và xử lý đối với vụ án. Hỏi cung bị can còn nhằm mục đích tìm ra nguyên nhân và điều kiện của hành vi phạm tội, động cơ dẫn đến hành vi phạm tội, cách thức mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở đó, các cơ quan điều tra có thể khắc phục và phòng ngừa việc thực hiện các hành vi phạm tội đã hoặc đang sắp diễn ra trên thực tế.
Hoạt động hỏi cung bị can là một hoạt động đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên đây lại là một hoạt động khá phức tạp và nhạy cảm bởi để hỏi cung bị can mang lại hiệu quả, thu được chứng cứ có giá trị chứng minh cao thì ngoài việc được tiến hành theo trình tự do BLTTHS qui định còn cần phải có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá trình hỏi cung. Tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm lý bị can giúp cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được lời khai đúng và đầy đủ. Tuy nhiên, cũng chính điều này, nếu được thực hiện bằng cách thức không phù hợp thì lại dễ dẫn đến những hành vi tiêu cực, trái pháp luật ví dụ như hành vi bức cung, hoặc dùng nhục hình trong quá trình hỏi cung. Vì vậy, vấn đề chống bức cung, dùng nhục hình hoặc các hành vi tra tấn khác cần phải được ngăn chặn bằng nhiều cách thức.
Để thực thi Hiến pháp về vấn đề đảm bảo quyền“bất khả xâm phạm về thân thể”, pháp luật chuyên ngành đã có những quy định nhằm ngăn chặn những hành vi trái pháp luật từ phía những cơ quan có thẩm quyền, đảm bảo được quyền và lợi ích của bị can trong quá trình tham gia tố tụng nói chung và tham gia vào quá trình hoạt động hỏi cung bị can nói riêng. Nếu phân tích kỹ và đối chiếu với nội dung Công ước Chống tra tấn thì đây cũng có thể xem là những cách thức để “chống tra tấn” trong hoạt động TTHS cũng như hoạt động hỏi cung bị can. Vấn đề này được thể hiện thông qua một số các quy định cụ thể về các nguyên tắc TTHS; về trình tự, thủ tục hỏi cung bị can:
Thứ nhất,vấn đề “chống tra tấn” được thể hiện thông qua hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, đặc biệt là các nguyên tắc được thể hiện ở Điều 6 “Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân”[7] ; Điều 7 “Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân”[8] ; hay Điều 8 “Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân”[9] .Đây là những nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền khi tham gia giải quyết vụ án hình sự. Đặc biệt, đối với hoạt động hỏi cung bị can, những nguyên tắc này càng phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh. Bởi hoạt động hỏi cung bị can là một hoạt động mà khi tiến hành sẽ có sự tiếp xúc trực tiếp giữa điều tra viên (ĐTV) và bị can. Giữa hai bên có thể không có cùng mục tiêu nên dễ dẫn đến có những hành vi “tra tấn” nhằm buộc bị can nhận tội, nhanh chóng kết thúc vụ án. Như vậy, nội dung của các nguyên tắc trên cũng đã thể hiện được sự quan tâm sâu sắc của nhà nước ta trong vấn đề đảm bảo quyền con người, cũng như vấn đề “chống tra tấn” trong hoạt động TTHS mặc dù vào thời điểm ban hành những quy định này, Nhà nước ta chưa tham gia ký kết công ước.
Thứ hai, vấn đề chống tra tấn trong hoạt động hỏi cung bị can được thể hiện thông qua các quy định trong pháp luật TTHS hiện hành. Cụ thể như sau:
– Theo Điều 131 BLTTHS năm 2003 quy định về hoạt động hỏi cung bị can:
“1. Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó.
Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ. Việc này phải được ghi vào biên bản.
Nếu vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can tự viết lời khai của mình.
2. Không hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
3. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể hỏi cung bị can.
4. Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 299 hoặc Điều 298 của Bộ luật Hình sự.”
– Khi hỏi cung bị can, người có thẩm quyền hỏi cung ngoài việc phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS còn phải tuân thủ các nguyên tắc như: nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật; thận trọng khách quan; coi trọng chứng cứ; không dễ dàng tin vào lời khai của bị can nếu lời khai đó chưa được kiểm tra, xác minh theo quy định pháp luật. Nghiêm cấm việc bức cung (bức ép bị can phải khai báo, khai không đúng sự thật, khai theo ý muốn chủ quan của người hỏi cung…), dùng nhục hình (tra tấn, đánh đập hoặc dùng các thủ đoạn thô bạo làm cho bị can đau đớn về thể xác, hoảng loạn về tinh thần mà phải khai báo không đúng sự thật). Người hỏi cung có hành vi bức cung, dùng nhục hình phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 298, 299 BLHS. Đây là nội dung thể hiện rất rõ việc nghiêm cấm hành vi tra tấn trong hoạt động hỏi cung bị can bởi “bức cung”, dùng “nhục hình” là một dạng của tra tấn.
– Khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị can, người bào chữa được quyền có mặt và được đặt những câu hỏi khi được ĐTV đồng ý[10] . Chính sự có mặt của người bào chữa trong hoạt động hỏi cung bị can sẽ giám sát được các hành vi của các ĐTV, tránh trường hợp có những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
– Việc hỏi cung được tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can nhưng “ngay” là vào thời điểm nào không được xác định rõ. Vì vậy, hỏi cung vào lúc nào tùy thuộc vào từng đối tượng cụ thể, các chiến thuật cụ thể và yêu cầu của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Người hỏi cung có thể lựa chọn những thời điểm thích hợp, có thể tiến hành liền ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can nhưng cũng có thể qua một thời gian nhất định. Việc hỏi cung không được tiến hành vào ban đêm (từ 22 giờ ngày hôm trước đến trước 6 giờ sáng ngày hôm sau) trừ trường hợp không thể trì hoãn được.
Với quy định không cho phép hỏi cung vào ban đêm, pháp luật TTHS Việt Nam về hỏi cung cũng đã thể hiện nội dung “chống tra tấn” khi tiến hành hoạt động này. Bởi lẽ việc hỏi cung vào ban đêm có thể sẽ gây nên một sự ức chế về mặt tâm lý đối với bị can. Đây cũng có thể xem là một dạng của hành vi tra tấn vì tra tấn không chỉ hiểu theo một nghĩa hẹp là những hành vi gây đau đớn về thể xác mà còn là những hành vi gây ảnh hưởng về tinh thần, về tâm lý. Mặc khác, khi tiến hành hỏi cung vào ban đêm, có thể có những hành vi rất khó được kiểm soát từ phía những người có quyền hỏi cung.
– Vấn đề chống tra tấn trong hoạt động hỏi cung bị can còn thể hiện thông qua quy định về thủ tục hỏi cung bị can là người chưa thành niên:
“Trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Đại diện gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được Điều tra viên đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra”. (Điều 306 BLTTHS năm 2003).
Người chưa thành niên (NCTN) là đối tượng rất dễ bị tổn thương; tâm, sinh lý phát triển chưa hoàn thiện. Do đó, bị can trong trường hợp này có thể sẽ gặp khó khăn nhất định khi làm việc với cơ quan có thẩm quyền. Việc quy định phải có mặt đại diện của gia đìnhkhi tiến hành hỏi cung bị can sẽ giúp bị can bình tĩnh, ổn định hơn về mặt tâm lý và giúp ngăn chặn được những hành vì trái luật từ phía những người hỏi cung.
Như vậy, nhìn chung các quy định của luật đã thể hiện trình tự, thủ tục hỏi cung tương đối chặt chẽ, hợp lý đảm bảo tính khách quan trong thu thập chứng cứ từ hoạt động hỏi cung bị can; đồng thời cũng đã cho thấy pháp luật nước ta quan tâm rất nhiều về vấn đề “chống tra tấn” trong khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị can. Pháp luật TTHS nước ta đã có những quy định nhằm nghiêm cấm hành vi tra tấn, hay có những cách thức cụ thể nhằm ngăn chặn hành vi tra tấn trong quá trình hỏi cung bị can. Tuy nhiên, với thực tiễn hiện nay về vấn đề hỏi cung bị can, đồng thời đối chiếu với các yêu cầu của Công ước Chống tra tấn, nhóm tác giả nhận thấy rằng hệ thống các quy định của pháp luật về hỏi cung bị can hiện nay có nhiều điểm còn hạn chế cần phải tiếp tục được hoàn thiện. Đây cũng chính là nguyên nhân dễ dẫn đến hành vi “tra tấn” khi hỏi cung bị can.
Thứ nhất, Điều 131 BLTTHS năm 2003 quy định “Không hỏi cung vào ban đêm”nhưng điều luật vẫn còn một quy định mở “trừ trường hợp không thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản”, như vậy, ĐTV vẫn có còn cơ hội tiến hành hoạt động này vào ban đêm. Việc không quy định cụ thể những trường hợp nào có thể hỏi cung vào thời điểm này mà chỉ quy định chung chung như trên rất có thể dẫn đến việc tùy tiện trong việc áp dụng quy định này trên thực tế, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý của bị can. Mặt khác, pháp luật hiện hành không quy định giới hạn thời gian cho mỗi lần hỏi cung và việc hỏi cung có thể được tiến hành bất cứ thời điểm nào từ sau 6 giờ đến trước 22 giờ cùng ngày nên dễ dẫn đến thời gian hỏi cung mỗi lần kéo dài từ 10 tiếng đến 12 tiếng, gây ảnh hưởng đến đến sức khỏe cũng như tinh thần của bị can. Đây cũng là một biểu hiện của hành vi tra tấn và cần phải quy định chặt chẽ hơn.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam vẫn chưa ghi nhận quyền im lặng cho bị can, bị cáo, người bị tạm giữ. Quyền im lặng là quyền không khai báo khi không có sự tư vấn, chứng kiến của luật sư để tránh việc người bị bắt tự buộc tội mình, gây thiệt hại cho bản thân. Mặc dù pháp luật hiện hành ghi nhận “trình bày lời khai” là quyền của người bị tạm giữ, bị can nhưng việc không chính thức thừa nhận quyền im lặng của bị can, người bị tạm giữ dễ dẫn đến những hành vi tiêu cực trong quá trình chứng minh (bức cung, nhục hình) bởi lẽ việc người bị tạm giữ, bị can chỉ khai báo khi có luật sư bào chữa sẽ giúp cho bị can ổn đinh về mặt tâm lý, đồng thời với sự có mặt của người bào chữa khi bị can, người bị tạm giữ cung cấp lời khai sẽ hạn chế được hành vi bức cung, dùng nhục hình và những hành vi trái luật khác.
Thứ ba,trong quá trình hỏi cung bị can, các ĐTV, KSV đã áp dụng những biện pháp mang tính nghiệp vụ nhằm tác động về mặt tâm lý đối với bị can. Tuy nhiên, việc không luật hóa những biện pháp nghiệp vụ này là cơ hội để các hành vi trái luật, các hành vi “tra tấn” có thể xảy ra đối với bị can.
Thứ tư, việc cùng tham gia vào hoạt động hỏi cung bị can là một cách thức để người bào chữa có thể đảm bảo thực hiện quyền bào chữa của mình, cũng như kiểm sát quá trình hỏi cung, tránh những hành vi trái pháp luật từ phía ĐTV. Mặc dù luật đã ghi nhận cho phép người bào chữa có quyền “có mặt khi hỏi cung bị can”[11] nhưng cơ chế để thực hiện quyền này không được đảm bảo khi lại quy định người bào chữa chỉ được “Đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can”. Người bào chữa chỉ có quyền “đề nghị”, còn chấp nhận đề nghị hay không lại là quyền của ĐTV. Và khi ĐTV không chấp nhận “đề nghị” thì người bào chữa không thể biết và không thể tham gia vào hoạt động hỏi cung bị can. Quy định như vậy còn mang tính tùy nghi, phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của ĐTV.
Thứ năm,cơ chế giám sát hoạt động hỏi cung bị can hiện nay còn thiếu chặt chẽ. Việc hỏi cung bị can được thực hiện bởi ĐTV và chưa có bất cứ quy định cụ thể nào về việc buộc phải có một cá nhân cùng có mặt để giám sát hoạt động đó hoặc có phương tiện hỗ trợ nào như máy ghi âm, ghi hình để đảm bảo việc chống tra tấn.
Thứ sáu,bị can là người chưa thành niên là đối tượng rất dễ bị tổn thương nhưng so sánh giữa thủ tục hỏi cung bị can đối với đối tượng này và thủ tục hỏi cung bị can giành cho người đã thành niên thì không quá khác biệt. Chính điều này có thể dẫn đến sự “tra tấn” về mặt tâm lý của bị can thông qua một số biểu hiện như: tiến hành hỏi cung bị can là người chưa thành niên ở chính địa điểm dành cho bị can đã thành niên… Mặt khác, với quy định tại Điều 306 BLTTHS, yêu cầu “phải có mặt đại diện của gia đình” khi hỏi cung bị can chỉ áp dụng đối với bị can “là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác”. Như vậy, quy định này không áp dụng đối với bị can là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Điều này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của họ.
Tóm lại
Với việc ký kết Công ước Chống tra tấn, việc nội luật hóa các nội dung của Công ước là một yêu cầu tất yếu. Quá trình nội luật hóa phải được tiến hành trên một diện rộng, gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó hoạt động hỏi cung bị can trong TTHS là một lĩnh vực chịu sự chi phối của Công ước. Đây là một hoạt động có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cũng là một hoạt động khá nhạy cảm, dễ xảy những hành vi xâm hại từ phía những người có thẩm quyền. Các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề hỏi cung bị can đã cơ bản đảm bảo được việc “chống tra tấn”. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế mà nhóm tác giả đã đưa ra, đồng thời để nội luật hóa một cách hiệu quả các quy định của Công ước Chống tra tấn mà Việt Nam vừa ký kết, nhóm tác giả xin đưa ra một số đề xuất sau:
*Hoàn thiện các quy định của BLTTHS liên quan hoạt động hỏi cung bị can:
– Quy định rõ những trường hợp được hỏi cung vào ban đêm để tránh sự tùy tiện từ phía người có thẩm quyền khi tiến hành hoạt động này;
– Quy định cụ thể thời gian hỏi cung tối đa cho mỗi lần hỏi cung và thời gian hỏi cung tối đa trong một ngày. Quy định theo hướng một lần hỏi cung không quá 4 tiếng; có thể hỏi cung một lần hoặc nhiều lần trong ngày nhưng tổng thời gian hỏi cung tối đa là 6 tiếng.
– Chính thức ghi nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị can, bị cáo; quyền được từ chối khai báo khi chưa có người bào chữa để bảo vệ tốt hơn quyền của bị can, bị cáo và để phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế;
– Chính thức luật hóa các biện pháp nghiệp vụ được áp dụng trong quá trình hỏi cung bị can để tránh trường hợp sử dụng một cách tùy tiện, hay vượt quá yêu cầu cho phép của hoạt động điều tra từ phía người có thẩm quyền.
– Ghi nhận người bào chữa có quyền được cơ quan điều tra thông báo về địa điểm, thời gian lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can; được quyền tham gia vào hoạt động hỏi cung bị can. Đây là quyền đương nhiên của người bào chữa mà không cần đến việc họ phải đề nghị hay có sự cho phép từ phía cơ quan điều tra.
– Tăng cường, phát huy cơ chế giám sát của VKS đối với hoạt động điều tra, đặc biệt là trong hoạt động hỏi cung bị can. Quy định theo hướng VKS phải cử Kiểm sát viên tham gia vào hoạt động hỏi cung bị can và đây là thành phần bắt buộc.
– Quy định việc tham gia của người chứng kiến trong hoạt động hỏi cung bị can là một yêu cầu bắt buộc, nhằm đảm bảo sự kiểm sát từ người thứ ba – chủ thể không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
* Hoàn thiện quy định về thủ tục hỏi cung bị can đối với người chưa thành niên
– Hoàn thiện Điều 306 BLTTHS năm 2003 theo hướng yêu cầu bắt buộc phải có mặt của đại diện gia đình khi hỏi cung bị can đối với người chưa thành niên, bao gồm người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
– Xây dựng hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên nói chung và hệ thống điều tra thân thiện nói riêng. Hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên được thiết kế phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên, chú trọng và đáp ứng được những nhu cầu đặc thù của lứa tuổi.Cụ thể là, cần nội luật hóa những nội dung sau, tạo hành lang pháp lý cho việc đảm bảo không tra tấn trong quá trình hỏi cung bị can là người chưa thành niên: Tiến hành hoạt động hỏi cung bị can là người chưa thành niên tại các phòng hỏi cung giành riêng cho đối tượng này hoặc có thể hỏi cung bị can tại nhà bị can thay cho trụ sở người chưa thành niên; ĐTV khi lấy lời khai của người chưa thành niên mặc thường phục để bị can khỏi cảm thấy sợ hãi khi tiếp xúc.
CHÚ THÍCH
* TS. Luật học, Trưởng Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
* Giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Khoản 1 Điều 2 Công ước Chống tra tấn
[2] Điều 1 Công ước Chống tra tấn
[3] Điều 2 Công ước Chống tra tấn
[4] Điều 15 Công ước Chống tra tấn.
[5] Điều 4 Công ước Chống tra tấn.
[6] Điều 11, Hiến Pháp năm 1946: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”
– Điều 27 Hiến pháp 1959:“Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được bảo đảm”
– Điều 69 Hiến pháp 1980:“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.
Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”
Điều 71, Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.
[7] Điều 6. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
“ Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật này.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.”
[8] Điều 7. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân
“ Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.”
[9] Điều 8. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân
“Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân.
Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải theo đúng quy định của Bộ luật này.”
[10] Khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003.
[11] Điều 58 BLTTHS năm 2003.
Tác giả: Võ Thị Kim Oanh*, Lê Thị Thùy Dương** – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 03/2014 – 2014, Trang 61-68
Trả lời