• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Đánh giá quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003 về quyền bào chữa của người chưa thành niên trên cơ sở các tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc

Đánh giá quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003 về quyền bào chữa của người chưa thành niên trên cơ sở các tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc

19/05/2020 17/04/2021 TS. Lê Huỳnh Tấn Duy Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Quy định của pháp luật quốc tế về quyền bào chữa của người chưa thành niên
  • 2. Những quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên – Phân tích và đánh giá
    • a. Ưu điểm
    • b. Hạn chế
  • 3. Một số kiến nghị
  • CHÚ THÍCH

Đánh giá quy định của LTTHS Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên trên cơ sở các tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc

Đánh giá quy định của LTTHS Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên trên cơ sở các tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc

  • Người chưa thành niên là gì? Khái niệm và đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội
  • Quyền bào chữa trong Hiến pháp 2013 và việc triển khai thực hiện – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Lê Thị Thùy Dương
  • Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong TTHS nhằm đảm bảo quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng – TS. Lê Nguyên Thanh
  • Những quy định mới của Hiến pháp 2013 về quyền bào chữa và việc hoàn thiện BLTTHS – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
  • Bàn về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi – ThS. Trần Ngọc Lan Trang – ThS. Nguyễn Phương Thảo
  • Thủ tục tố tụng thân thiện đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 – TS. Nguyễn Hữu Thế Trạch
  • Bàn về “Xử lý chuyển hướng” đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – TS. Phan Anh Tuấn
  • Quyền được bảo vệ thông tin cá nhân của người dưới 18 bị buộc tội – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
  • Bảo đảm quyền của người chưa thành niên là con của phạm nhân – ThS. Vũ Thị Thúy & ThS. Nguyễn Thị Kiều Oanh
  • Mô hình tư pháp người dưới 18 theo định hướng của Liên hợp quốc – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
  • Quyền của người dưới 18 tuổi có sự tham gia của gia đình, nhà trường – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
  • Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong BLTTHS 2015 – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
  • Các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
  • Nguyên tắc và căn cứ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi

TỪ KHÓA: Quyền bào chữa, Người dưới 18 tuổi (Người chưa thành niên),

TÓM TẮT

Quyền bào chữa là một trong những quyền tố tụng quan trọng của người chưa thành niên bị buộc tội được ghi nhận bởi nhiều điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bài viết sử dụng quy định của những điều ước này và các hướng dẫn của Liên hợp quốc làm tiêu chuẩn để đánh giá sự phù hợp của luật tố tụng hình sự Việt Nam trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người chưa thành niên. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm nổi bật là Việt Nam đã xây dựng được những quy định riêng hỗ trợ người chưa thành niên trong quá trình chuẩn bị và thực hiện quyền bào chữa. Tuy nhiên, một số hạn chế vẫn còn tồn tại liên quan đến đối tượng có thể trở thành người bào chữa, tiêu chuẩn của người bào chữa, việc đảm bảo tính bí mật của những trao đổi giữa người bào chữa và người chưa thành niên. Bài viết bao gồm ba phần: Quy định của pháp luật quốc tế về quyền bào chữa của người chưa thành niên; Những quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên – Phân tích và đánh giá; Một số kiến nghị.

1. Quy định của pháp luật quốc tế về quyền bào chữa của người chưa thành niên

Quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và người chưa thành niên nói riêng được quy định tại nhiều văn bản pháp luật quốc tế như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (các điểm b, d khoản 3 Điều 14); Công ước về các quyền của trẻ em (điểm b(ii) khoản 2 Điều 40); Quy tắc Bắc Kinh (khoản 1 Điều 7) và Quy chế tòa án hình sự quốc tế (điểm b khoản 1 Điều 67).[1] Về cơ bản, quyền bào chữa bao gồm quyền của người bị buộc tội tự bào chữa hoặc lựa chọn người khác để giúp đỡ họ và quyền có đầy đủ thời gian, điều kiện để chuẩn bị việc bào chữa.

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội trong Luật Quốc tế và Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
  • Quyền của người chưa thành niên có sự tham gia của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức trong quá trình tố tụng hình sự
  • Mô hình tư pháp người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) theo định hướng của Liên hợp quốc
  • Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
  • Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại
  • Những quy định mới của Hiến pháp 2013 về quyền bào chữa và việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
  • Những nội dung mới của Bộ luật Hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 của Việt Nam về người chưa thành niên phạm tội
  • Bảo đảm quyền của người chưa thành niên là con của phạm nhân trong pháp Luật Thi hành án hình sự Việt Nam 2010
  • Bàn về quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp 2013 và vấn đề sửa đổi một số quy định liên quan trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
  • Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi

Công ước về các quyền của trẻ em quy định những sự trợ giúp về mặt pháp lý hoặc những trợ giúp khác phải được cung cấp cho người chưa thành niên trong việc chuẩn bị và trình bày sự bào chữa của họ.[2] Ủy ban quyền trẻ em (Committee on the Rights of the Child) hướng dẫn rằng các quốc gia thành viên của Công ước trên được tự do xác định các hình thức trợ giúp pháp lý nhưng phải miễn phí.[3]

Về nội dung thứ hai của quyền bào chữa, điểm b khoản 1 Điều 67 Luật tòa án hình sự quốc tế quy định: “Trong việc xác định bất kỳ sự buộc tội nào, bị can phải được có những đảm bảo tối thiểu sau, (trong sự công bằng đầy đủ): có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị cho việc bào chữa và được tự do liên lạc với người bào chữa do bị can lựa chọn trong sự bí mật;…”

Ủy ban quyền con người (Human Rights Committee) giải thích rằng để xác định yêu cầu thứ nhất (đầy đủ thời gian), thì phải xem xét đặc điểm của từng vụ án cụ thể. Ngoài ra, người bào chữa có quyền yêu cầu Tòa án hoãn việc xét xử nếu cho rằng thời gian chuẩn bị bào chữa là không đủ, đặc biệt đối với những vụ án về các tội nghiêm trọng.[4] Liên quan đến yêu cầu thứ hai (đầy đủ điều kiện), Ủy ban quyền con người cho rằng người bị buộc tội nên được quyền tiếp cận những tài liệu và bằng chứng cần thiết cho việc chuẩn bị bào chữa; nên được trao cơ hội để tự do liên hệ với người bào chữa. Cơ quan này cũng nhấn mạnh tính bí mật của sự liên hệ giữa người bị buộc tội và người bào chữa phải được tôn trọng đầy đủ.[5] Các cơ quan có thẩm quyền không được tạo ra bất kỳ sự hạn chế, ảnh hưởng, áp lực hoặc những sự can thiệp không đúng đắn đối với người bào chữa trong việc tham gia vào quá trình tố tụng hình sự.[6]

2. Những quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên – Phân tích và đánh giá

a. Ưu điểm

Quyền bào chữa đã được ghi nhận từ rất sớm trong lịch sử tư pháp hình sự Việt Nam.[7] Đây còn là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (TTHS).[8] So sánh với những quy định của luật quốc tế về quyền bào chữa, Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 có những nội dung tương đồng: người bị buộc tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; các cơ quan thực hiện tố tụng (CQTHTT) có trách nhiệm tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa; bị can, bị cáo là người chưa thành niên đặc biệt được quyền có người bào chữa do các CQTHTT chỉ định.

BLTTHS năm 2003 đã mở rộng quyền này cho người bị tạm giữ.[9] Người bào chữa hiện nay có thể tham gia vào quá trình tố tụng từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự để nhanh chóng thực hiện việc hỗ trợ về pháp lý cho người bị tạm giữ.[10] Sự bổ sung này của BLTHS năm 2003 góp phần bảo vệ toàn diện các quyền con người trong TTHS. [11]

Luật TTHS Việt Nam có những quy định cụ thể, rõ ràng để để tạo điều kiện thuận lợi cho người bị buộc tội thực hiện việc bào chữa. Tương ứng với từng tư cách tố tụng, BLTTHS năm 2003 quy định các quyền cụ thể cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bao gồm: được giải thích về quyền và nghĩa vụ; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa…[12] Đây là những phương tiện hữu hiệu, cần thiết cho việc  thực hiện quyền bào chữa. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền của người bị buộc tội, luật TTHS đồng thời quy định trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng phải tôn trọng, đảm bảo và tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện các quyền của họ.

Người bào chữa đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp đỡ người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa. BLTTHS năm 2003 do đó cũng quy định rất nhiều quyền cho người bào chữa. Ví dụ: có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa…[13]

Trước đây, những người thân thích[14] với người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong cùng một vụ án không được phép làm người bào chữa. Đây là một quy định không hợp lý. Ví dụ: trường hợp người bào chữa đã tham gia tố tụng từ giai đoạn khởi tố đến khi xét xử sơ thẩm thì một Thẩm phán có quan hệ thân thích với người bào chữa này được phân công xét xử vụ án. Trong trường hợp này, sẽ là không công bằng cho chính bản thân người bào chữa và cho bị can khi bắt buộc phải thay thế người bào chữa. Nhận thấy điểm bất hợp lý này, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn rằng trong những trường hợp trên cần phải phân công một Thẩm phán khác không có quan hệ thân thích với người bào chữa để tiếp tục xét xử.[15]

Đặc biệt BLTTHS năm 2003 còn có những quy định riêng về quyền bào chữa của người chưa thành niên.[16] Khoản 2 Điều 57 quy định CQTHTT có trách nhiệm cử người bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên. Quy định này phù hợp với yêu cầu đặt ra tại điểm b(i) khoản 2 Điều 40 Công ước về các quyền của trẻ em và khoản 1 Điều 15 Quy tắc Bắc Kinh. Luật tố tụng hình sự Việt Nam còn cho phép người chưa thành niên và cả người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền lựa chọn người bào chữa.[17]

Bởi vì bào chữa là quyền, cho nên người chưa thành niên bị buộc tội có thể sử dụng hoặc từ bỏ quyền này. Bị can, bị cáo là người chưa thành niên và đại diện hợp pháp của họ có quyền từ chối người bào chữa do các CQTHTT chỉ định. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa người chưa thành niên và đại diện hợp pháp về vấn đề có từ chối người bào chữa chỉ định hay không, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP đã hướng dẫn cụ thể cách thức giải quyết.[18] Về nguyên tắc, chỉ cần người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không từ chối thì phiên tòa xét xử phải có mặt người bào chữa chỉ định.

b. Hạn chế

So sánh với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Công ước về các quyền của trẻ em và Quy tắc Bắc Kinh, kết hợp với hướng dẫn, giải thích của Ủy ban quyền con người và Ủy ban quyền trẻ em cho thấy những quy định của luật TTHS Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên có một số điểm hạn chế sau:

Thứ nhất, trợ giúp về pháp lý và những sự trợ giúp khác đối với người chưa thành niên trong quá trình chuẩn bị và trình bày quyền bào chữa còn khá hạn chế. Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003, các CQTHTT có thể yêu cầu luật sư hoặc bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo chưa thành niên. Tuy nhiên, bào chữa viên nhân dân chỉ bào chữa cho các đối tượng là thành viên của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam hoặc các tổ chức thành viên của Mặt trận. Khoản 4 Điều 9 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT[19] quy định các CQTHTT còn có thể đề nghị các tổ chức khác thực hiện trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong khi Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 chỉ quy định đối tượng được trợ giúp là trẻ em (người dưới 16 tuổi) không nơi nương tựa.[20] Ngoài ra, luật không bắt buộc người bào chữa cho người chưa thành niên phải có đầy đủ kiến thức và hiểu biết về nhiều phương diện của tư pháp người chưa thành niên và đã được đào tạo về kỹ năng làm việc với người chưa thành niên phạm tội[21] (như đề nghị trong Bình luận chung số 10 của Ủy ban quyền trẻ em). Thiếu sót này có thể sẽ làm giảm hiệu quả của hoạt động bào chữa cho người chưa thành niên trong thực tiễn.

Bên cạnh đó, việc BLTTHS năm 2003 không quy định quyền được có người bào chữa chỉ định cho người chưa thành niên bị tạm giữ là một thiếu sót nghiêm trọng. Nếu đã cho phép người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ thì không có lý do gì quy định việc bào chữa bắt buộc chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Thời điểm người chưa thành niên bị bắt, bị tạm giữ là thời điểm họ bắt đầu tiếp xúc với quá trình tố tụng, bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế, lấy lời khai… với nhiều khó khăn, lo lắng và sợ hãi. Do đó, việc tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn này có rất nhiều tác dụng tích cực. Ví dụ: họ thông báo và giải thích cho người chưa thành niên về các quyền cơ bản, giúp người bị tạm giữ giảm bớt căng thẳng; góp phần đảm bảo việc lấy lời khai được tiến hành khách quan, theo đúng quy định của pháp luật.[22]

Thứ hai, một số quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa không hợp lý. Điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 cho phép người bào chữa có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, nhưng chỉ được hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu Điều tra viên đồng ý. Rõ ràng người bào chữa đóng một vai trò bị động trong quá trình tiến hành những hoạt động điều tra này. Làm thế nào để họ có thể bảo vệ hiệu quả lợi ích của thân chủ khi Điều tra viên không cho phép họ được phát biểu? Sẽ là một điều bất hợp lý khi bắt buộc người bào chữa phải im lặng khi chứng kiến Điều tra viên sử dụng những biện pháp trái pháp luật trong quá trình lấy lời khai hoặc hỏi cung.

Liên quan đến nghĩa vụ của người bào chữa, điểm a khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa phải giao tất cả tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án cho các CQTHTT. Quy định này đã người bào chữa vào một vị thế bất lợi khi tranh luận với Kiểm sát viên tại phiên tòa. Có rất ít cơ hội cho người bào chữa để bác bỏ lại sự buộc tội của Kiểm sát viên. Vấn đề đặt ra là trong BLTTHS năm 2003 có quy định nào bắt buộc Kiểm sát viên phải “chia sẻ” chứng cứ của họ cho người bào chữa hay không? Rõ ràng là không có một điều luật nào trực tiếp quy định nghĩa vụ này. Thay vào đó, điểm g khoản 2 Điều 58 và điểm c khoản 1 Điều 166 cho phép người bào chữa được quyền tiếp cận hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra và khi có bản cáo trạng. Đây có thể được xem là những quy định gián tiếp tạo cơ hội cho người bào chữa biết được các chứng cứ thu thập bởi Điều tra viên và Kiểm sát viên chứa đựng trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, những quy định này không xác định rõ việc “chia sẻ” chứng cứ với người bào chữa là trách nhiệm của Điều tra viên và Kiểm sát viên, dẫn đến thực tế người bào chữa gặp rất nhiều cản trở trong quá trình tiếp cận hồ sơ vụ án.

Hơn thế nữa, BLTTHS năm 2003 chưa quy định cơ chế đảm bảo những đồ vật, tài liệu do người bào chữa thu thập được xem xét, đánh giá và chấp nhận là chứng cứ của vụ án bởi các CQTHTT. Đây là hạn chế chung khi bào chữa cho người chưa thành niên và đã thành niên. Quy định tại Điều 64 BLTTHS năm 2003 trực tiếp cho thấy chỉ những đồ vật, tài liệu do CQTHTT thu thập theo trình tự, thủ tục luật định mới có thể được xem là chứng cứ. Người bào chữa chỉ được quyền cung cấp đồ vật, tài liệu cho CQTHTT còn việc các cơ quan này có trách nhiệm phải xem xét, đánh giá và có chấp nhận là chứng cứ của vụ án hay không thì luật không quy định. Điều này đã tạo nên sự bất công cho người bào chữa và trong nhiều trường hợp thực tế, chứng cứ do họ thu thập được thường bị các CQTHTT xem thường hoặc không chấp nhận.[23]

Thứ ba, tính bí mật của việc trao đổi giữa người bào chữa và người chưa thành niên không được đảm bảo. Trong Bình luận chung số 10 (2007), Ủy ban quyền trẻ em giải thích mục b khoản 3 Điều 14 của Công ước về các quyền dân sự và chính trị như sau: “Những sự liên lạc giữa trẻ em và người trợ giúp, dưới hình thức trò chuyện hoặc văn bản, nên được thực hiện trong điều kiện được tôn trọng đầy đủ về tính bí mật theo như đảm bảo được quy định tại điểm b(vii) khoản 2 Điều 40 Công ước về các quyền của trẻ em và quyền được bảo vệ về đời tư và thư tín (Điều 16 Công ước về các quyền của trẻ em).”[24]

Luật tố tụng hình sự Việt Nam hoàn toàn không có quy định tương tự như trên. Về cơ bản người bị tạm giữ hoặc tạm giam được quyền gặp người bào chữa nếu CQTHTT đồng ý với điều kiện thời gian gặp không được quá một giờ.[25] Những quy định này áp dụng như nhau cho cả người chưa thành niên và người đã thành niên. Vì vậy có thể nhận thấy về vấn đề này Việt Nam đã không tuân thủ những quy định của các công ước quốc tế mà mình đã tham gia cũng như chưa chú trọng đến những hướng dẫn, giải thích của các cơ quan quyền con người và quyền trẻ em của Liên hợp quốc.

Đánh giá quy định của LTTHS Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên trên cơ sở các tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc

3. Một số kiến nghị

Quyền bào chữa là một quyền tố tụng rất quan trọng của người chưa thành niên bị buộc tội, là một đảm bảo pháp lý giúp người bị buộc tội đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong việc cải cách khung pháp lý, huy động nhiều nguồn lực xã hội nhằm hỗ trợ người chưa thành niên trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, phần phân tích trên cho thấy để đạt đến những tiêu chuẩn của Liên hợp quốc về đảm bảo quyền bào chữa cho người chưa thành niên, Việt Nam cần phải chú ý đến một số vấn đề sau:

a- Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 theo hướng các CQTHTT có thể yêu cầu các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử trợ giúp viên pháp lý để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Điều này phù hợp với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 21 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006.[26] Ngoài ra, cần bổ sung người chưa thành niên là một trong những đối tượng được trợ giúp pháp lý vào Luật trợ giúp pháp lý năm 2006.

b- Bổ sung quyền có người bào chữa bắt buộc cho người chưa thành niên bị tạm giữ.

c- Quy định người bào chữa cho người chưa thành niên phải có kiến thức về các ngành khoa học có liên quan đến tội phạm chưa thành niên và được đào tạo về kỹ năng làm việc với người chưa thành niên.

d- Quy định việc trao đổi giữa người bào chữa và người chưa thành niên đang bị tạm giữ, tạm giam phải được đảm bảo bí mật, tuân thủ nguyên tắc việc tư vấn có thể nhìn thấy nhưng không thể nghe thấy bởi cán bộ có trách nhiệm giám sát.[27]

e- Quy định những người tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để người bào chữa tiếp cận, tìm hiểu hồ sơ vụ án; nếu từ chối thì phải có lý do chính đáng được quy định cụ thể bởi pháp luật.

f- Ban hành Luật chứng cứ trên cơ sở sửa đổi, bổ sung những quy định tại Chương V của BLTTHS hiện hành, trong đó quy định rõ cơ chế đảm bảo quyền thu thập đồ vật, tài liệu của người bào chữa và các CQTHTT có nghĩa vụ việc xem xét và đánh giá tất cả những đồ vật, tài liệu do người bào chữa cung cấp.

g- Liên đoàn luật sư Việt Nam nên thành lập Ủy ban bảo vệ người chưa thành niên[28] với tư cách là một trong những ủy ban chuyên môn có trách nhiệm tổ chức đào tạo, tập huấn cho các luật sư của địa phương về kiến thức và kỹ năng khi bào chữa cho người chưa thành niên; tạo mối liên kết với các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan nhà nước có liên quan đến việc bảo vệ người chưa thành niên. Đoàn luật sư của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải đảm bảo có tối thiểu 02 luật sư chuyên trách thực hiện những hoạt động liên quan đến việc bào chữa cho người chưa thành niên.[29]

CHÚ THÍCH

* ThS Luật học, giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.

[1] Quy chế này được gọi là Quy chế Rome của tòa án hình sự quốc tế (Rome Statute of the International Criminal Court), thông qua ngày 17/07/1998, sửa đổi vào các ngày 10/11/1998, 12/07/1999, 30/11/1999, 08/05/2000, 17/01/2001, 16/01/2002, có hiệu lực vào ngày 01/07/2002.

[2] Công ước về các quyền của trẻ em (điểm b(ii) khoản 2 Điều 40).

[3] Ủy ban quyền trẻ em, Bình luận chung số 10 (2007): Các quyền của trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên, đoạn 49.

[4] Ủy ban quyền con người, Bình luận chung số 32 (2007): Điều 14: Quyền bình đẳng trước Tòa án và được xét xử công bằng, đoạn 31.

[5] Như trên, đoạn 34. Tham khảo thêm Bình luận chung số 10, chú thích số 1, đoạn 50.

[6] Ủy ban quyền con người, Bình luận chung số 13 (1984): Bình đẳng trước các Tòa án và quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập được thành lập bằng pháp luật, đoạn 9. Tham khảo thêm Ủy ban quyền con người, Bình luận chung số 32, chú thích số 3, các đoạn 32 và 33.

[7] Quyền bào chữa đã được ghi nhận tại Điều 46 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/06/1949 về việc bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư để bào chữa cho mình trước các Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ Tòa án binh tại mặt trận; Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 sửa đổi Điều 1 Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/06/1949; BLTTHS năm 1988; tất cả các Hiến pháp.

[8] Điều 11 BLTTHS năm 2003.

[9] Điểm d khoản 2 Điều 48 BLTTHS năm 2003.

[10] Trước khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực, người bào chữa chỉ có thể tham gia tố tụng để bảo vệ cho bị can từ giai đoạn điều tra.

[11] Phạm Thao, Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự (Luận văn thạc sĩ, Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2009) tr. 41.

[12] Điều 48-50 BLTTHS năm 2003.

[13] Khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003.

[14] Xem mục 4(b) Phần I Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 02 tháng 10 năm 2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS năm 2003.

[15] Xem mục 1, Phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP.

[16] Những quy định này được giải thích chi tiết bởi Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP.

[17] Điểm a mục 2 Phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP.

[18] Xem điểm d.2 mục 3 Phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP.

[19] Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12 tháng 07 năm 2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên.

[20] Khoản 3 Điều 10 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006.

[21] Ủy ban quyền trẻ em, Bình luận chung số 10, chú thích số 1, đoạn 49.

[22] Tổ chức Terre Des Hommes (tổ chức thành viên của Ban hợp tác liên ngành về tư pháp người chưa thành niên – Hội đồng kinh tế, xã hội của Liên hợp quốc) thậm chí còn giúp đỡ một số quốc gia như Romania, Mauritania, Lebanon và Guinea nhằm đảm bảo sự có mặt của luật sư tại thời điểm người chưa thành niên bị bắt. Bởi vì ngoài những tác dụng trên, luật sư còn có thể giúp người chưa thành niên không bị áp dụng những biện pháp tước bỏ tự do: xem Ban hợp tác liên ngành về tư pháp người chưa thành niên, Protecting the Rights of Children in Conflict with the Law [Bảo vệ các quyền của trẻ em vi phạm pháp luật] (2005) tr. 41.

[23] Hoàng Yến, “Chứng cứ luật sư thu thập thường bị xem nhẹ”, Tạp chí pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh Online (30/05/2012) <http://phapluattp.vn/20120530103210635p0c1063/chung-cu-luat-su-thu-thap-thuong-bi-xem-nhe.htm>.

[24] Ủy ban quyền trẻ em, Bình luận chung số 10, chú thích số 1, đoạn 50.

[25] Điều 22 Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ ban hành Quy chế tạm giữ, tạm giam.

[26] Điều luật này quy định trợ giúp viên pháp lý của các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước được quyền tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

[27] Basic Principles on the Role of Lawyers [Những nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư], ban hành bởi Hội nghị lần thứ 8 của Liên hợp quốc về Phòng chống tội phạm và Xử lý người phạm tội, Havana, Cuba, 27/08 – 7/9/1990, Điều 8.

[28] Vào tháng 5 năm 2000, UNICEF đã hỗ trợ việc thành lập một cơ quan tương tự tại Cambodia và đạt được một số kết quả trong quá trình hoạt động như: tăng số lượng người chưa thành niên được đại diện về pháp lý, được trắng án, giảm thời hạn giam giữ trước khi xét xử, một vài vụ án được xử lý chuyển hướng. Xem Ban hợp tác liên ngành về tư pháp người chưa thành niên, Protecting the Rights of Children in Conflict with the Law [Bảo vệ các quyền của trẻ em vi phạm pháp luật] (2005) tr. 35-37.

[29] Tuy nhiên, những luật sư khác khi được Đoàn luật sư phân công bào chữa cho người chưa thành niên thì phải thực hiện nghĩa vụ này trừ trường hợp có lý do chính đáng.

Tác giả: Lê Huỳnh Tấn Duy* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2013 (77)/2013 – 2013, Trang 11-16

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Cơ sở pháp lý về hoạt động bào chữa của Luật sư trong quá trình tham gia giải quyết các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
Cơ sở pháp lý về hoạt động bào chữa của Luật sư trong quá trình tham gia giải quyết các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
Đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên trong giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động công chứng
Đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên trong giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động công chứng
Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi phạm tội - Một số bất cập và hướng hoàn thiện
Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – Một số bất cập và hướng hoàn thiện
Bàn về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLTTHS 2015
Bàn về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLTTHS 2015
Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
Chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền ưu tiên tư pháp của trẻ em phạm tội và tính tương thích trong BLHS 2015
Chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền ưu tiên tư pháp của trẻ em phạm tội và tính tương thích trong BLHS 2015

Chuyên mục: Hình sự/ Tố tụng hình sự Từ khóa: Bộ luật Tố tụng hình sự 2003/ Người dưới 18 tuổi (Người chưa thành niên)/ Quyền bào chữa/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2013

Previous Post: « Một số vấn đề về giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với phạm nhân
Next Post: Vài bình luận ngắn các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng