Mục lục
Quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội trong Luật Quốc tế và Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003
Xem thêm bài viết về “Người dưới 18 tuổi (Người chưa thành niên)”
- Thủ tục tố tụng thân thiện đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội – TS. Nguyễn Hữu Thế Trạch
- Một số vấn đề pháp lý về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Trần Ngọc Lan Trang & ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Nguyên tắc và căn cứ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về tư pháp phục hồi – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
TÓM TẮT
Quyền được đảm bảo bí mật về thông tin cá nhân là một trong những quyền đặc trưng của người chưa thành niên bị buộc tội đã được ghi nhận tại Công ước về các quyền của trẻ em. Tuy nhiên, sau hơn 20 năm ký kết Công ước, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được khung pháp lý cơ bản để điều chỉnh vấn đề trên gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích, tâm lý và việc tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên. Trên cơ sở những quy định có liên quan của Công ước và hướng dẫn, giải thích của Ủy ban quyền trẻ em, bài viết phân tích những ưu điểm và hạn chế trong luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội và kết luận rằng Việt Nam có nghĩa vụ phải ban hành các nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo quyền tố tụng đặc thù trên của người chưa thành niên.
1. Quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội trong luật quốc tế
Quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội là một trong những nội dung của quyền về đời tư (the right to privacy) nói chung[1], được quy định tại Điều 8 Quy tắc Bắc Kinh [2] và mục (vii) điểm (b) khoản 2 Điều 40 Công ước về các quyền của trẻ em[3]. Nội dung cơ bản của những quy định này là các thông tin cá nhân của người chưa thành niên phải được tôn trọng đầy đủ trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng[4]. Ủy ban quyền trẻ em của Liên hợp quốc giải thích rằng các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền:
– Không được công khai những thông tin có thể dẫn đến việc xác định danh tính người chưa thành niên bị buộc tội bởi vì điều này sẽ bêu xấu và có thể ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận sự giáo dục, việc làm, nhà ở hoặc sự an toàn của họ;
– Phải thận trọng với những ấn phẩm báo chí phát hành liên quan đến những tội phạm được cho là thực hiện bởi người chưa thành niên và phải giới hạn các trường hợp ngoại lệ; phải có những biện pháp để bảo đảm rằng người chưa thành niên sẽ không bị xác định thông qua những ấn phẩm báo chí này;
– Các phóng viên vi phạm đời tư của người chưa thành niên nên bị xử lý kỷ luật và khi cần thiết (ví dụ trong trường hợp tái phạm) bằng những hình phạt của luật hình sự[5].
Để bảo vệ thông tin cá nhân của người chưa thành niên, hầu hết các quốc gia thành viên của Công ước về các quyền của trẻ em ghi nhận một nguyên tắc (có thể có những ngoại lệ) là phiên tòa xét xử người chưa thành niên vi phạm luật hình sự nên được thực hiện kín[6]. Nguyên tắc này cho phép sự tham gia của những chuyên gia hoặc người có chuyên môn khác với sự đồng ý đặc biệt của Tòa án[7].Việc xét xử công khai trong tư pháp người chưa thành niên chỉ nên thực hiện trong các trường hợp được quy định rõ ràng, theo quyết định bằng văn bản của tòa án và người chưa thành niên có quyền kháng cáo quyết định này[8]. Ủy ban quyền trẻ em của Liên hợp quốc ủng hộ việc xét xử kín các phiên tòa của người chưa thành niên và nhấn mạnh rằng những trường hợp ngoại lệ nên rất hạn chế và phải được pháp luật quy định rõ ràng[9]. Phán quyết hay bản án nên được tuyên bố công khai tại phiên tòa theo cách thức không làm tiết lộ thông tin cá nhân của người chưa thành niên phạm tội[10]. Ngoài ra, quyền này yêu cầu những người có liên quan đến việc thi hành các biện pháp do tòa án hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác áp dụng phải giữ bí mật tất cả những thông tin có thể xác định người chưa thành niên phạm tội trong tất cả mối quan hệ bên ngoài của họ[11].
Theo Ủy ban quyền trẻ em của Liên hợp quốc, quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân còn yêu cầu án tích của người chưa thành niên phạm tội phải được giữa bí mật nghiêm ngặt và bên thứ ba không được tiếp cận ngoại trừ những người trực tiếp liên quan đến việc điều tra, xét xử và quyết định vụ án[12]. Với quan điểm tránh sự bêu xấu và định kiến, án tích của người chưa thành niên phạm tội không nên được sử dụng trong những vụ án sau này có liên quan đến họ khi đã là người thành niên hoặc để củng cố những bản án tương lai[13].
Ủy ban quyền trẻ em cũng kiến nghị các quốc gia thành viên quy định sự đương nhiên xóa bỏ án tích của người chưa thành niên phạm tội khi đủ 18 tuổi, hoặc trong những giới hạn nhất định, nếu xét thấy cần thiết trong những điều kiện nhất định (ví dụ như không thực hiện tội phạm trong thời hạn hai năm kể từ thời điểm kết án cuối cùng), án tích của những tội phạm nghiêm trọng có thể được xóa bỏ theo yêu cầu của người chưa thành niên phạm tội[14].
2. Quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam – Khung pháp lý, thực tiễn áp dụng và nguyên nhân
a. Khung pháp lý
Hệ thống pháp luật Việt Nam chỉ có những quy định chung bảo vệ thân thể, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, chỗ ở, thư tín, điện thoại và điện tín của công dân[15]. Những quy định này được ghi nhận lại dưới hình thức là các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự tại các Điều 4, 7 và 8 của BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, nội dung của các điều luật này hoàn toàn không đề cập yêu cầu bảo vệ những thông tin có thể dẫn đến việc xác định danh tính của người chưa thành niên phạm tội trong quá trình tố tụng.
Để khắc phục thiếu sót trên, khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH (Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT)[16] quy định các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm: “Bảo đảm giữ bí mật thông tin cá nhân của người chưa thành niên. Mọi hoạt động tố tụng liên quan đến người chưa thành niên phải được tiến hành trong môi trường thuận tiện cho việc bảo đảm bí mật đời tư và danh dự, nhân phẩm của người chưa thành niên.” Ngoài ra, trên cơ sở khoản 1 Điều 307 BLTTHS năm 2003, khoản 2 Điều 11 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT hướng dẫn ngoài các trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ (Điều 18 BLTTHS năm 2003), Tòa án có thể quyết định xét xử kín vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra để tạo thuận lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ. Thông tư này còn quy định không được tiến hành xét xử lưu động vụ án do người chưa thành niên gây ra, trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
b. Thực tiễn áp dụng
Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, những người nghiên cứu về pháp luật, luật sư và lãnh đạo của một số cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) đã bắt đầu chú ý đến việc bảo vệ những thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội. Việc xét xử lưu động những bị cáo chưa thành niên đang được xem xét lại và đã có những quan điểm tiến bộ kiến nghị nên loại bỏ hình thức xét xử này[17]. Một số phóng viên đã có ý thức bảo vệ quyền về đời tư của người chưa thành niên, thể hiện qua việc không đăng tải những thông tin có thể dẫn đến sự xác định danh tính của những bị cáo chưa thành niên trong các bài viết của họ. Đặc biệt, một phóng viên còn mạnh dạn phê bình những đồng nghiệp khác khi sử dụng các tên gọi mang tính miệt thị đối với người chưa thành niên phạm tội[18].
Tuy nhiên, có thể khẳng định quyền về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội chưa được bảo vệ trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự tại Việt Nam. Những thông tin dẫn đến việc xác định danh tính của người chưa thành niên được đăng tải thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, sách báo, tạp chí và internet. Hầu hết những thông tin này liên quan đến những người chưa thành niên đã bị kết án, bao gồm họ tên, tuổi, nơi cư trú, những tình tiết chính của vụ án, tội danh và mức hình phạt cụ thể[19]. Thậm chí có trường hợp một người chưa thành niên chỉ mới bị bắt giữ thì những thông tin trên đã được đăng tải[20]. Mặc dù mục đích của những sự đăng tải này là nhằm cảnh báo với xã hội về tình hình gia tăng và nguyên nhân của tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, cũng như góp phần phát hiện ra những trường hợp oan, sai trong quá trình tố tụng, những thông tin cá nhân của họ theo đó bị biết đến bởi công chúng. Thực tế này rõ ràng mâu thuẫn với những quy định tại Điều 16; mục vii điểm b khoản 2 Điều 40 Công ước về các quyền của trẻ em.
Các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam trong một số trường hợp đã vội vàng đổ tội cho bị can, bị cáo (bao gồm cả người chưa thành niên) trước khi Tòa án có thẩm quyền đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ án. Điều này góp phần làm cho mọi người có những suy nghĩ phiến diện về tội lỗi của người chưa thành niên; ảnh hưởng đến các Thẩm phán trong quá trình ra các quyết định. Dưới sức ép của dư luận, Thẩm phán có thể không can đảm để tuyên bị cáo vô tội mặc dù chứng cứ của vụ án đã chứng minh điều đó. Hoặc nếu Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội thì công chúng vẫn còn nghi ngờ bởi vì họ đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi những sự buộc tội tùy tiện từ các phương tiện thông tin đại chúng.
Bên cạnh đó, một số phóng viên đã sử dụng những tên gọi mang tính miệt thị khi đề cập người chưa thành niên phạm tội[21]. Một số khác còn đăng tải cả hình ảnh của những bị can, bị cáo chưa thành niên trong các bài viết của họ. Điều này có thể giúp cho độc giả dễ dàng nhận ra những bị can, bị cáo này và như vậy tạo nên nhiều rào cản hơn cho người chưa thành niên trong quá trình cải tạo, tái hòa nhập cộng đồng. Việc quyết định xét xử kín hay xét xử công khai liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm và tương lai của người chưa thành niên[22]. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được nhận thức và thực hiện đúng đắn ở nước ta. Hầu hết các phiên tòa xét xử người chưa thành niên được tiến hành công khai với sự tham gia của công chúng và phóng viên, thậm chí đối với những vụ án hiếp dâm mà cả bị cáo và người bị hại đều là người chưa thành niên[23]. Việc xét xử kín thường chỉ được áp dụng khi bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác yêu cầu hoặc đối với trường hợp người chưa thành niên thực hiện các tội xâm phạm tình dục trẻ em, dựa trên quan điểm người bị hại là trẻ em mới cần được bảo vệ còn bị cáo là người phạm tội nên việc bảo vệ là không cần thiết [24]. Đây là một quan niệm không đúng, không công bằng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của các bị cáo chưa thành niên, làm cho họ mặc cảm, xấu hổ và từ đó ngăn cản cơ hội tái hòa nhập cộng đồng.
Hơn thế nữa, hình thức xét xử lưu động vẫn còn được áp dụng đối với nhiều vụ án do người chưa thành niên thực hiện[25]. Xét xử lưu động làm tăng thêm sự sợ hãi và căng thẳng cho bị cáo là người chưa thành niên. Xét xử lưu động thường đưa ra mức hình phạt nặng hơn so với mức hình phạt được xác định thông qua việc xét xử tại phòng xử án[26]. Ngoài ra, theo hình thức xét xử này, bị cáo không chỉ chịu trách nhiệm hình sự được quy định bởi pháp luật mà còn chịu sự buộc tội từ xã hội. Người thân của bị cáo cũng phải gánh chịu áp lực rất lớn từ dư luận và vì thế những mối quan hệ xã hội của họ có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng[27]. Những bị cáo bị xét xử lưu động còn có thể gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng sau khi đã thi hành án.
c. Nguyên nhân
Nguyên nhân của những hạn chế trên chủ yếu xuất phát từ thiếu sót trong khung pháp lý của Việt Nam. Như đã đề cập, BLTTHS năm 2003 không có một quy định nào bảo vệ quyền về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội. Vì vậy, trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, những người có thẩm quyền không có nghĩa vụ đảm bảo tính bí mật của những thông tin đó và không phải gánh chịu bất kỳ hình thức chế tài nào khi công bố những thông tin cá nhân của người chưa thành niên.
Việc Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT (khoản 3 Điều 3) chỉ quy định trách nhiệm bảo đảm bí mật đời tư của người chưa thành niên cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là chưa đầy đủ. Quá trình giải quyết các vụ án hình sự do người chưa thành niên gây ra có thể liên quan đến những cơ quan, tổ chức và cá nhân khác như: các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội, Đoàn thanh niên, người bào chữa… Tất cả những chủ thể này đều có khả năng biết được các thông tin cá nhân của người chưa thành niên và do đó họ cũng phải có nghĩa vụ giữ bí mật những thông tin này. Ngoài ra, những quy định tại khoản 3 Điều 3 của Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT không cụ thể, rõ ràng và thiếu tính khả thi trong việc bảo vệ bí mật đời tư của người chưa thành niên trong thực tiễn. Ví dụ: Những thông tin nào được cho là thông tin cá nhân và có khả năng dẫn đến việc xác định danh tính của người chưa thành niên? Môi trường thuận tiện cho việc bảo đảm bí mật đời tư và danh dự, nhân phẩm của người chưa thành niên được hiểu như thế nào? Nếu việc bảo đảm giữ bí mật thông tin cá nhân của người chưa thành niên là trách nhiệm thì khi vi phạm các chủ thể phải chịu biện pháp chế tài gì?
Mặc dù Điều 307 BLTTHS năm 2003 cho phép Tòa án trong những trường hợp cần thiết có thể tiến hành xét xử kín đối với những bị cáo chưa thành niên, không có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn rõ ràng những trường hợp nào được xem là cần thiết. Vì thế Tòa án có thể tùy tiện quyết định về việc có xét xử kín hay không. Trong thực tiễn, các Thẩm phán thường xét xử công khai nhằm chứng minh sự vô tư và khách quan của họ, còn các Hội thẩm thường không đủ khả năng để quyết định những vụ án cụ thể nào thì nên được xét xử kín[28]. Điều này mâu thuẫn với Bình luận chung số 10 và số 12 của Ủy ban quyền trẻ em. Bình luận chung số 12 kiến nghị: “Phiên tòa của Tòa án và những cơ quan khác xét xử một trẻ em vi phạm pháp luật nên được tiến hành kín. Những trường hợp ngoại lệ của quy tắc này nên rất hạn chế và phải được quy định rõ ràng trong pháp luật quốc gia dựa trên cơ sở vì những lợi ích tốt nhất của trẻ em”[29].
Khoản 2 Điều 11 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT cho phép Tòa án ngoài các trường hợp quy định tại Điều 18 BLTTHS năm 2003 có thể quyết định xét xử kín các vụ án do người chưa thành niên thực hiện với lý do để tạo thuận lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Đây vẫn là một quy định mang tính tùy nghi và có thể sẽ dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật giữa các Tòa án. Nếu đã xác định việc xét xử kín các vụ án do người chưa thành niên gây ra sẽ tạo thuận lợi cho quá trình tái hòa nhập xã hội của họ thì Tòa án có nghĩa vụ phải áp dụng hình thức xét xử này. Chuyên gia của các nước theo hệ thống án lệ (common law) cho rằng đây là một nguyên tắc nền tảng đảm bảo quyền được xét xử công bằng của người chưa thành niên, một trường hợp ngoại lệ được thừa nhận của nguyên tắc xét xử công khai[30].
Đặc biệt điều luật còn cho phép Tòa án được quyền xét xử lưu động những vụ án do người chưa thành niên thực hiện nhằm giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm. Điều này hoàn toàn trái ngược với đề xuất được nêu trong các Báo cáo của VUFO-NGO Resource Centre, UNICEF và Viện nghiên cứu pháp luật của Bộ tư pháp[31] Việc xét xử công khai những bị cáo chưa thành niên tại trụ sở Tòa án đã là một vấn đề nên rất hạn chế. Do đó, việc xét xử lưu động những bị cáo này là điều không thể chấp nhận, đi ngược lại với nguyên tắc vì những lợi ích tốt nhất của trẻ em – một trong những nguyên tắc cơ bản của Công ước về các quyền của trẻ em (Điều 3) và quyền được đối xử theo một cách thức phù hợp với độ tuổi và ước muốn thúc đẩy sự tái hòa nhập, vai trò xây dựng xã hội của trẻ em (khoản 1 Điều 40). Ngoài ra, chưa có một nghiên cứu khoa học nào cho thấy xét xử lưu động là biện pháp tốt nhất và duy nhất để giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
Điều 18 BLTTHS 2003 quy định rằng tất cả các bản án, bao gồm cả trường hợp đối với người chưa thành niên phạm tội, phải được tuyên công khai và không có bất kỳ ngoại lệ nào. Quy định này của luật tố tụng hình sự Việt Nam mâu thuẫn với luật quốc tế, cụ thể là câu thứ hai trong khoản 1 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị[32]: “Báo chí và công chúng có thể bị cấm tham dự toàn bộ hoặc một phần phiên tòa vì những lý do đạo đức, trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hoặc khi lợi ích đời sống cá nhân của các bên yêu cầu, hoặc đến phạm vi thật sự cần thiết theo quan điểm của Tòa án trong những trường hợp đặc biệt mà sự công khai sẽ gây tổn hại đến những lợi ích tư pháp; nhưng bất kỳ phán quyết nào được đưa ra trong một vụ án hình sự hoặc vụ án dân sự phải được tuyên công khai ngoại trừ trường hợp do lợi ích của những người chưa thành niên có đòi hỏi khác…”
Bên cạnh những hạn chế về mặt lập pháp, việc đăng tải phổ biến những thông tin về người chưa thành niên phạm tội xuất phát từ thực tế một số phóng viên ở Việt Nam không nhận thức đầy đủ về các quyền và nghĩa vụ của họ được quy định bởi pháp luật. Họ không biết được các yêu cầu của luật pháp quốc tế, cụ thể là Công ước về các quyền của trẻ em, đối với việc bảo vệ các thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội. Các phóng viên thường chỉ tìm kiếm thông tin liên quan đến vụ án và nhanh chóng chuyển tải đến độc giả mà quên đi những ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của người chưa thành niên.
3. Một số kiến nghị
Cải cách tư pháp nói chung và tư pháp người chưa thành niên nói riêng ở nước ta là một yêu cầu tất yếu nhằm góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Một hệ thống tư pháp người chưa thành niên toàn diện phải đảm bảo được những lợi ích tốt nhất và những quyền tố tụng cơ bản của người chưa thành niên bị buộc tội, bao gồm cả quyền được bảo vệ về những thông tin cá nhân. Với tư cách là một quốc gia thành viên của Công ước về các quyền của trẻ em, Việt Nam có nghĩa vụ phải xây dựng một hệ thống tư pháp người chưa thành niên phù hợp với những nguyên tắc cơ bản và những quy định cụ thể của điều ước quốc tế này. Nhằm bảo vệ những thông tin cá nhân của người chưa thành niên trong quá trình tố tụng, những kiến nghị sau có thể được tham khảo:
a- Bổ sung quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân của người chưa thành niên bị buộc tội là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự;
b- Ban hành những quy định cụ thể hạn chế việc đăng tải những thông tin có thể dẫn đến sự xác nhận danh tính của người chưa thành niên phạm tội trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng[33];
c- Quy định hình thức xét xử kín được áp dụng cho các phiên tòa xét xử người chưa thành niên phạm tội, trừ những trường hợp đặc biệt (liệt kê cụ thể và rất hạn chế);
d- Tuyệt đối không được xét xử lưu động những vụ án do người chưa thành niên thực hiện;
e- Quy định phán quyết hoặc bản án của người chưa thành niên nên được tuyên công khai tại phòng xử án theo cách thức không làm bộc lộ danh tính của họ[34];
f- Quy định trách nhiệm bảo đảm bí mật thông tin cá nhân của người chưa thành niên đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến quá trình giải quyết vụ án do người chưa thành niên gây ra; xây dựng các biện pháp chế tài áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ này./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2003”
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Đinh Văn Đoàn
- Bàn về một số vướng mắc trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về quyền kháng cáo – ThS. Lê Thị Thùy Dương
- Bàn về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 – ThS. Đinh Văn Đoàn
- Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo yêu cầu cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp 2013 – GS.TSKH. Đào Trí Úc
- Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
CHÚ THÍCH
* ThS Luật học, giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Quyền về đời tư được quy định tại Điều 16 Công ước về các quyền của trẻ em: ‘(1) Không trẻ em nào là đối tượng của sự can thiệp bất hợp pháp và tùy tiện đối với đời tư, gia đình, nhà ở hoặc thư tín cũng như sự xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và danh tiếng. (2) Trẻ em có quyền được bảo vệ bởi pháp luật trước những sự can thiệp và xâm phạm nêu trên.
[2] Những quy tắc tối thiểu mang tính tiêu chuẩn của Liên hợp quốc đối với việc quản lý tư pháp người chưa thành niên được thông qua ngày 29/11/1985 bởi Nghị quyết số 40/33 của Đại hội đồng Liên hợp quốc .
[3] Công ước được thông qua ngày 20/11/1989 bởi Nghị quyết số 44/25 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, có hiệu lực từ ngày 02/9/1990.
[4] Tại bản Bình luận chung số 10 (2007) về các quyền của trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên, Ủy ban quyền trẻ em của Liên hợp quốc giải thích rằng tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng bắt đầu từ sự liên lạc đầu tiên với việc thực thi pháp luật (ví dụ như một yêu cầu cung cấp thông tin và sự nhận dạng) cho đến khi có quyết định cuối cùng của một cơ quan có thẩm quyền, hoặc miễn sự giám sát, giam giữ hoặc tước bỏ tự do: Xem Ủy ban quyền trẻ em, Bbình luận chung số 10 (2007): Các quyền của trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên, 44th sess, UN Doc CRC/C/GC/10 (25/04/2007), đoạn 64 <http://www2.ohchr.org/english/bodies/crc/docs/CRC.C.GC.10.pdf>.
[5] Bình luận chung số 10, chú thích số 4.
[6] Như trên, đoạn 65.
[7] Như trên.
[8] Như trên.
[9] Như trên, đoạn 66.
[10] Như trên.
[11] Như trên.
[12] Bình luận chung số 10, chú thích số 4, đoạn 66.
[13] Như trên.
[14] Như trên, đoạn 67.
[15] Điều 71 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm”. Ngoài ra, Điều 73 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật”.
[16] Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12 tháng 07 năm 2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên.
[17] Đây là ý kiến của Thẩm phán Vũ Phi Long (Phó Chánh tòa Hình sự, TAND Tp. Hồ Chí Minh), Thẩm phán Phạm Công Hùng (Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Tp. Hồ Chí Minh), Luật sư Trần Công Ly Tao và Luật sư Trương Thị Hòa: xem Vũ Phi Long, “Tố tụng với người chưa thành niên: Quy định và thực thi: Còn khoảng cách!” Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh Online (26/03/2010) <http://www.baomoi.com/Home/PhapLuat/www.phapluattp.vn/Quy-dinh-va-thuc-thi-Con-khoang-cach/4037967.epi>; Thanh Tùng và Phan Thương, ‘Tố tụng với người chưa thành niên – Bài 3: Có nên xử lưu động?’ Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh Online (24/03/2010) <http://phapluattp.vn/20100324011953237p1063c1016/co-nen-xu-luu-dong.htm>.
[18] Lư Quang Vinh, ‘Vụ án “My Sói” nhìn từ góc độ xã hội học tội phạm: Đừng vội quy kết trách nhiệm cho ngành giáo dục’ Thư viện pháp luật online (15/06/2011) <http://danluat.thuvienphapluat.vn/vu-an-%E2%80%9Cmy-soi%E2%80%9D-nhin-tu-goc-do-xa-hoi-hoc-toi-pham-dung-voi-quy-ket-trach-nhiem-cho-nganh-giao-duc-49570.aspx>.
[19] Ví dụ: vụ án Trần Tuấn Huy (16 tuổi) bị kết án 17 năm tù vì tội giết người <http://tinanninh.com/giet-nguoi/linh-17-nam-tu-vi-toi-giet-nguoi-tinh-dang-mang-thai>; vụ án Lê Bảo Trọng (16 tuổi) bị kết án 18 năm tù vì thực hiện hai tội: giết người và cướp tài sản <http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Giet-nguoi-cuop-tai-san-thoat-an-tu-hinh/46767>; vụ án Đào Thị Thu Hương (14 tuổi) bị kết án 12 năm tù vì thực hiện ba tội: hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và cướp tài sản <http://www.hoahoctro.vn/metrotin/vu_an_my_soi_va_dong_bon_tong_hinh_phat_len_den_160_nam_tu_my_soi_nhan_an_kich_khung-100-9875.hht>.
[20] Ví dụ: vụ án học sinh Ngô Ngọc Linh bị bắt khẩn cấp vì bị nghi ngờ đã trộm 33 chiếc điện thoại di động <http://www.tinmoi.vn/Mot-hoc-sinh-lop-12-bi-bat-khan-cap-Nganh-Giao-duc-noi-gi-06511555.html>.
[21] Ví dụ: bị cáo Đào Thị Thu Hương bị gọi là “Nữ quái My sói” hay “Sói hoang” <http://us.24h.com.vn/an-ninh-hinh-su/tu-thieu-nu-thanh-soi-hoang-tan-doc-c51a383537.html>.
[22] Bùi Huỳnh Trung, “Bảo vệ người chưa thành niên phạm tội thông qua công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử vụ án hình sự” trong Kỷ yếu tọa đàm “Bảo vệ người chưa thành niên dưới góc độ Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh, Khoa Luật Hình sự, Trung tâm nhân quyền, (2009), tr. 40.
[23] Nguyễn Văn Cảnh, “Bàn về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội” trong Kỷ yếu tọa đàm “Bảo vệ người chưa thành niên dưới góc độ Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật Hình sự, Trung tâm nhân quyền, (2009), tr. 55.
[24] Bùi Huỳnh Trung, chú thích 22.
[25] Ví dụ: tháng 3/2010, tại UBND xã Nam Sơn, TAND tỉnh Bắc Ninh đã xử lưu động, tuyên phạt Trần Văn Quý (17 tuổi) 18 năm tù, Đàm Văn Ngọc (16 tuổi) 14 năm tù về hai tội giết người, cướp tài sản; tháng 1/2010, TAND tỉnh Kon Tum đã xử lưu động tại Trung tâm Văn hóa tỉnh, tuyên phạt ba bị cáo cùng tuổi 17 là Trần Thanh Tùng 17 năm tù, Mai Anh Dũng và Bùi Hữu Nghĩa mỗi người 16 năm tù về tội giết người (một bị cáo khác đã thành niên lãnh án tử hình); tháng 11/2009, TAND thị xã Long Khánh (Đồng Nai) đã xử lưu động tại trụ sở UBND phường Xuân Thanh, tuyên phạt Lăng Quốc Việt (17 tuổi) một năm sáu tháng tù về tội cố ý làm hư hỏng tài sản: xem Thanh Tùng và Phan Thương, “Tố tụng với người chưa thành niên – Bài 3: Có nên xử lưu động?” Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh Online (24/03/2010) <http://phapluattp.vn/20100324011953237p1063c1016/co-nen-xu-luu-dong.htm>.
[26] Phạm Thái Quý, “Xét xử lưu động – Cần nhìn nhận từ hai phía” Báo Tuổi trẻ Online (18/03/2011) <http://tuoitre.vn/Chinh-tri-xa-hoi/Phap-luat/429494/Xet-xu-luu-dong—can-nhin-nhan-tu-hai-phia.html>.
[27] Đinh Thế Hưng, ‘Không nên xét xử lưu động’ Tạp Chí Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh Online (05/07/2010) <http://phapluattp.vn/20100704113853487p0c1063/khong-nen-xet-xu-luu-dong.htm>.
[28] Nguyễn Văn Cảnh, Tài liệu đã dẫn, chú thích 23, tr. 56.
[29] Ủy ban quyền trẻ em, Bình luận chung số 12 (2009): Quyền được lắng nghe của trẻ em, 51st sess, UN Doc CRC/C/GC/12 (20/07/2009), đoạn 61.
[30] Luật mẫu về tư pháp người chưa thành niên <http://web.up.ac.za/sitefiles/file/47/15338/PDF%20Files/Ann,%20Iyabo%20and%20Voilet.pdf>.
[31] VUFO-NGO Resource Centre, Báo cáo bổ sung cho báo cáo định kỳ số 3 và 4 về việc thực thi của Việt Nam đối với Công ước Liên Hợp Quốc về các quyền của trẻ em 2002 – 2007, trang 23; UNICEF và Viện nghiên cứu pháp luật, Bộ Tư pháp, Báo cáo phân tích tình hình tư pháp người chưa thành niên ở Việt Nam và đánh giá hệ thống tư pháp người chưa thành niên hiện hành (2005), tr. 99.
[32] Công ước được thông qua ngày 16/12/1966 bởi Nghị quyết số 2200A(XXI) của Đại Hội Đồng Liên hợp quốc, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976.
[33] Đối với vấn đề này Việt Nam có thể tham khảo những quy định tại Phần 7.5 – Hạn chế việc đăng tải thông tin về vụ án của Luật về trẻ em, thanh niên và gia đình năm 2005 của bang Victoria, Úc.
[34] Bình luận chung số 10, chú thích số 4, đoạn 66. Bản án nên dùng từ viết tắt thay thế cho họ tên của bị cáo chưa thành niên./.
Tác giả: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02/2013 (75)/2013 – 2013, Trang 22-28
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời