Hiến pháp năm 2013 và hoàn thiện nguyên tắc tố tụng hình sự (TTHS)
- Trực tiếp ghi nhận “Quyền im lặng” cho người bị buộc tội trong BLTTHS
- Quyền được “Miễn trừ nghĩa vụ khai báo” trong TTHS
- Hiến pháp năm 2013 và nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong TTHS
- Quyền được “Suy đoán vô tội” trong Hiến pháp 2013 và sửa đổi TTHS
- Quy định về “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”
- Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng và công khai theo điều 25 BLTTHS năm 2015
TỪ KHÓA: Nguyên tắc, Hiến pháp Việt Nam, Tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2015, Tạp chí Khoa học pháp lý
TÓM TẮT
Hiến pháp năm 2013 là Hiến pháp của công cuộc đổi mới, Hiến pháp của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Cũng có thể nói, đây cũng là Hiến pháp của Cải cách tư pháp đang được thực hiện sâu rộng ở nước ta nói chung, trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng. Hoàn thiện các nguyên tắc tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 một mặt thể hiện đầy đủ đướng lối đổi mới tư pháp hình sự, quán triệt quy định của Hiến pháp năm 2013, mặt khác là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng các chế định khác của BLTTHS năm 2003 và kim chỉ nam cho các hoạt động tố tụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trong phạm vi bài viết này, trên cơ sở tinh thần của Hiến pháp mới, tư tưởng Cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, chúng tôi phân tích các bất cập, hạn chế của BLTTHS năm 2003 hiện hành và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các nguyên tắc tố tụng hình sự.
1. Tinh thần của Hiến pháp năm 2013 liên quan đến tố tụng hình sự
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Hiến pháp năm 2013 là Hiến pháp của công cuộc đổi mới, Hiến pháp của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Cũng có thể nói, đây cũng là Hiến pháp của Cải cách tư pháp đang được thực hiện sâu rộng ở nước ta nói chung, trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng.
Theo chúng tôi, khi phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và việc thực hiện các quy định đó trong thực tiễn, không thể không quán triệt các tư tưởng đổi mới, cải cách sau đây của Hiến pháp:
– Một là, quyền con người được quan niệm chính xác, được tôn trọng và bảo vệ một cách tuyệt đối. Hiến pháp phân định một cách rõ ràng quyền con người và quyền công dân. Quyền con người là quyền vốn có của mỗi người khi sinh ra và được tôn trọng, bảo vệ. Quyền con người chỉ có thể bị hạn chế bằng luật trong những trường hợp xác định. Các quyền con người được Hiến pháp ghi nhận như quyền sống, các quyền tự do, quyền bào chữa và được trợ giúp pháp lý, quyền được suy đoán vô tội, quyền được tiếp cận công lý và xét xử công bằng… có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tố tụng tư pháp hình sự;
– Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về Nhân dân, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tư tưởng mới về kiểm soát việc thực hiện quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp bảo đảm hiệu quả của việc thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm cho hoạt động tư pháp, nhất là hoạt động xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
– Ba là, Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, quyền phán quyết về tội phạm và áp dụng hình phạt thông qua thủ tục tố tụng hình sự chặt chẽ, dân chủ, khách quan. Các cơ quan khác của Nhà nước không thực hiện quyền tư pháp, không có thẩm quyền phán quyết về tội phạm và hình phạt, cho nên chỉ là các cơ quan được phân công thực hiện các hoạt động tư pháp, chứ không phải là cơ quan tư pháp;
– Bốn là, Hiến pháp đã quy định những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp. Trong Cải cách tư pháp và nguyên lý tổ chức hệ thống tư pháp, Tòa án là trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm; cho nên các nguyên tắc hiến định liên quan đến Tòa án như xét xử tập thể, xét xử công khai, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, hai cấp xét xử, tranh tụng trong xét xử được bảo đảm… liên quan rất chặt chẽ với các nguyên tắc tố tụng tư pháp nói chung, tố tụng tư pháp hình sự nói riêng.
Các tinh thần cơ bản trên của Hiến pháp 2013 là cơ sở hiến định quan trọng chỉ đạo toàn bộ hoạt động lập pháp cũng như thực tiễn tố tụng hình sự. Các tinh thần đó cần được quán triệt trong xây dựng hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự; đặc biệt là hoàn thiện các nguyên tắc tố tụng hình sự.
2. Các nguyên tắc tố tụng hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành quy định 30 nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Trong lý luận, các nguyên tắc này được phân thành 4 nhóm khác nhau: 1/ Các nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa; 2/ Các nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền công dân; 3/ Các nguyên tắc bảo đảm vô tư, khách quan trong giải quyết vụ án hình sự; 4/ Các nguyên tắc bảo đảm kiểm soát và giám sát hoạt động tố tụng hình sự.
Nhìn chung, các quy định của BLTTHS năm 2003 đã thể hiện tương đối đầy đủ tinh thần Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), thể hiện được các quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Nhà nước ta trong hoạt động tố tụng hình sự – một lĩnh vực hoạt động nhạy cảm, thể hiện bản chất nhất hệ thống tư pháp của mỗi quốc gia. Các tư tưởng chính về thượng tôn pháp luật; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo đảm hoạt động tố tụng hình sự kịp thời, chính xác, khách quan; bảo đảm các quan hệ phối hợp và chế ước trong tố tụng hình sự được thực hiện và có sự giám sát đối với hoạt động đó.
Các nguyên tắc tố tụng hình sự đã được quán triệt và thể hiện trong các chế định khác nhau của BLTTHS như quy định về các chủ thể tố tụng hình sự; các quy định về chứng cứ, chứng minh; các quy định về biện pháp cưỡng chế tố tụng cũng như các trình tự, thủ tục tố tụng trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án… tạo nên những bảo đảm pháp lý quan trọng cho hoạt động tố tụng dân chủ, chính xác, khách quan, hiệu quả. Các nguyên tắc tố tụng hình sự được quy định cũng chỉ đạo toàn bộ hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng, nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, BLTTHS năm 2003 nói chung, các nguyên tắc tố tụng nói riêng, còn có những điểm hạn chế nhất định. Đó là:
– Về nội dung, chưa thể hiện đầy đủ tinh thần Cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền và nhất là các nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 2003. Các tư tưởng cơ bản của Hiến pháp về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; về vai trò, vị trí, chức năng của Tòa án, về hội nhập quốc tế; đặc biệt là về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chưa được quán triệt, thể hiện đầy đủ trong Bộ luật nói chung, trong các nguyên tắc tố tụng nói riêng;
– Về hình thức, kỹ thuật lập pháp vẫn còn nhiều hạn chế, dẫn đến các quy định của BLTTHS năm 2003 chưa thể hiện được chính xác các tư tưởng hiến định, các quy định trong các công ước quốc tế liên quan đến tố tụng hình sự mà Việt Nam tham gia.
Từ những nhận định trên, chúng tôi cho rằng hiện nay việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2003 về các nguyên tắc tố tụng là rất cấp thiết
3. Hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Trên cơ sở tinh thần của Hiến pháp mới, tư tưởng Cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, phân tích các bất cập, hạn chế của BLTTHS hiện hành, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các nguyên tắc tố tụng hình sự.
3.1. Bổ sung một số nguyên tắc mới, hủy bỏ một số nguyên tắc không còn phù hợp hoặc không phải là nguyên tắc tố tụng như nhận thức chung
a. Bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”:
Tranh tụng là tư tưởng cơ bản, xuyên suốt trong Cải cách tư pháp ở nước ta được khẳng định và phát triển trong các Nghị quyết 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ cấp bách của Công tác tư pháp trong thời gian tới” (2002) và Nghị quyết 49-NQ/TW “Về Cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị và được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 của nước ta.
Tư tưởng tranh tụng trong mô hình tố tụng thẩm vấn ở nước ta được phát triển và hoàn thiện nhanh chóng. Từ chỗ coi tranh tụng như chủ yếu là tranh luận tại phiên tòa (Nghị quyết 08-NQ/TW), chưa coi tranh tụng là nguyên tắc tố tụng hình sự (BLTTHS năm 2003), dần dần nguyên tắc tranh tụng được khẳng định đầy đủ hơn tại Nghị quyết 49-NQ/TW và đỉnh cao là tại Hiến pháp năm 2013.
Tranh tụng là bản chất của hoạt động tư pháp hình sự. Tranh tụng chỉ phát huy đầy đủ tác dụng khi phân biệt các chức năng cơ bản buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự và phân biệt các chủ thể tố tụng thực hiện các chức năng cơ bản đó. Xét xử là giai đoạn trọng tâm của hoạt động tư pháp, ở đó các chức năng tố tụng được vận hành tối đa. Để có được tranh tụng trong xét xử, các chủ thể tố tụng, nhất là chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội phải thực hiện việc tranh tụng trong cả quá trình tố tụng; không có tranh tụng trong các giai đoạn trước đó, thì không thể có tranh tụng hoàn chỉnh trong xét xử.
Như vậy, theo tinh thần của Hiến pháp, tranh tụng trong xét xử phải được bảo đảm bằng cả quá trình tố tụng, từ khi một người bị tình nghi phạm tội cho đến khi phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật và tập trung nhất ở phiên tòa xét xử. Vì vậy, tinh thần tranh tụng phải được thể hiện trong quy định địa vị tố tụng của các chủ thể; trong chứng minh; trong thực hiện các trình tự, thủ tục tố tụng… mà không chỉ bó hẹp trong giai đoạn xét xử vụ án.
Hiến pháp đã quy định đó là một nguyên tắc, thì trong BLTTHS năm 2003 cũng cần ghi nhận lại nguyên văn nguyên tắc đó. Nguyên tắc này có các nội dung cơ bản sau: 1/ Phân định rõ các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự; 2/ Bảo đảm cho các bên tham gia tố tụng các quyền, nghĩa vụ tố tụng bình đẳng và quy định thủ tục tố tụng hợp lý để các bên chứng minh, thực hiện quyền tranh tụng trong quá trình tố tụng, nhất là trong xét xử; 3/ Bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra trên cơ sở xem xét tài liệu, chứng cứ đã được xác định và các ý kiến của các bên tranh luận tại phiên toà.
b. Bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm”:
Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm là tư tưởng phổ cập được quy định trong nhiều công ước quốc tế. Tinh thần này cũng được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 như là một quyền thiêng liêng của con người.
Mặc dù trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, nguyên tắc này chưa được quy định, nhưng tinh thần của nguyên tắc đã được ghi nhận trong nhiều quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Ví dụ, điểm 4 Điều 107 BLTTHS năm 2003 quy định “Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật” là một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự.
Tuy nhiên, nội dung của nguyên tắc lại đang được hiểu theo những cách khác nhau trong tố tụng hình sự Việt Nam. Nội dung các công ước quốc tế và khoản 3 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 chỉ khẳng định một người không bị kết án hai lần về một tội phạm chứ không quy định một người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai lần…, mà Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền kết án (tuyên có tội hoặc không có tội); các cơ quan tiến hành tố tụng khác không có quyền này. Vì vậy, liệu có thể hiểu, vì một lý do nào đó mà vụ án được đình chỉ trước khi Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật, thì người có hành vi phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự lại?
Không bị kết án hai lần về một tội phạm là quyền con người được Hiến pháp ghi nhận. Vấn đề của pháp luật tố tụng hình sự không phải chép lại Hiến pháp, mà là có những quy định cụ thể tạo cơ sở pháp lý chủ đạo, xuyên suốt để quyền con người này được thực hiện trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy, có thể quy định trong BLTTHS nguyên tắc “Bảo đảm quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm” cho phù hợp.
– Hủy bỏ hoặc chuyển sang các chế định khác một số nguyên tắc được quy định trong BLTTHS hiện hành như trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều12); trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều13); thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự (Điều 23); nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời và liên tục (Điều184); trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều25); sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 26); các quy định liên quan đến bồi thường (Điều 29, 30)…
3.2. Sửa đổi, bổ sung nội dung một số nguyên tắc
a. Sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc liên quan đến quyền con người trong tố tụng hình sự
Quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Trong tố tụng hình sự, các quyền con người, quyền công dân có nguy cơ bị xâm phạm nhiều nhất. Vì vậy, nhiệm vụ của BLTTHS không phải là chép lại các quyền hiến định đó, mà là có hệ thống bảo đảm để các quyền đó không bị xâm phạm trong tố tụng hình sự.
Theo chúng tôi, các nguyên tắc quy định tại các Điều 4, Điều 6, Điều 7, Điều 8… nên được nhập lại thành một nguyên tắc chung “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự” là đủ.
b. Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm quyền được suy đoán vô tội”
Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Tinh thần này đã được thể hiện tại Điều 9 BLTTHS hiện hành nhưng không chính xác về tên gọi cũng như nội dung.
Theo chúng tôi, trong BLTTHS phải thể hiện được đầy đủ các tinh thần của Hiến pháp: 1/ Chỉ người bị buộc tội mới có quyền suy đoán vô tội. Đây là quyền chủ động của người đó. Mọi con người khác đương nhiên là người vô tội; 2/ Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền kết tội bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật; 3/ Việc kết tội của Tòa án được chứng minh theo trình tự luật định; và 4/ Khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án được chứng minh theo trình tự luật định, người bị buộc tội là người không có tội.
Như vậy, cần thay đổi nguyên tắc quy định ở Điều 9 BLTTHS hiện hành bằng nguyên tắc “Bảo đảm quyền được suy đoán vô tội” và bảo đảm cho bốn nội dung trên của nguyên tắc được thực hiện.
c. Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án”
Khác với mô hình tranh tụng, trong mô hình tố tụng xét hỏi, sự thật vụ án phải được xác định chính xác, khách quan, đầy đủ trong quá trình giải quyết vụ án. Sự thật khách quan của vụ án đảm bảo cho Cơ quan điều tra quyết định đình chỉ vụ án hay đề nghị truy tố; cho Viện kiểm sát quyết định đình chỉ hay truy tố; cho Tòa án phán quyết đúng đắn về vụ án.
Tuy nhiên, tùy theo chức năng tố tụng mà trách nhiệm chứng minh, xác định sự thật khách quan của vụ án cũng khác nhau đối với mỗi chủ thể tố tụng hình sự: Trong trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người, chủ thể buộc tội (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát) có trách nhiệm chứng minh tội phạm, chứng minh sự buộc tội; chủ thể gỡ tội (người bào chữa) có trách nhiệm chứng minh sự vô tội hoặc các tình tiết giảm nhẹ; Tòa án xác định sự thật trên cơ sở kiểm tra chứng cứ của bên buộc tội, bên bào chữa và chứng cứ mà mình thu thập được.
Một yếu tố đặc biệt trong tố tụng hình sự là việc chứng minh nhằm xác định sự việc phạm tội xảy ra trong quá khứ; vì vậy, sẽ có những trường hợp mà tình tiết của vụ án sẽ không được xác định dứt khoát, rõ ràng, còn tồn tại nghi ngờ trong nhận thức người áp dụng pháp luật. Trong những trường hợp này, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, cần ghi nhận tình tiết vụ án theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Như vậy, nội dung cơ bản của nguyên tắc xác định sự thật vụ án bao gồm ba điểm sau:
(1) Sự thật vụ án cần được xác định khách quan, toàn diện, đầy đủ trong quá trình giải quyết vụ án;
(2) Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trách nhiệm gỡ tội thuộc người bào chữa. Phán quyết của Tòa án được đưa ra trên cơ sở các chứng cứ được Tòa án trực tiếp kiểm tra, xác minh và thu thập tại phiên tòa;
(3) Mọi nghi ngờ trong việc chứng minh tình tiết của vụ án được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Kết luận
Là những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt quá trình lập pháp cũng như thực thi pháp luật tố tụng hình sự, các nguyên tắc tố tụng hình sự cơ bản cần được nghiên cứu, xem xét thấu đáo từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn. Hoàn thiện các nguyên tắc tố tụng trong BLTTHS một mặt thể hiện đầy đủ đường lối đổi mới tư pháp hình sự, quán triệt quy định của Hiến pháp năm 2013, mặt khác là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng các chế định khác của BLTTHS và kim chỉ nam cho các hoạt động tố tụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Tác giả: Trần Văn Độ* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2015 (93)/2015 – 2015, Trang 12-16
Trả lời