Sửa đổi BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp năm 2013
Chiến lược cải cách tư pháp coi một trong những mục tiêu cơ bản của cải cách là bảo đảm để Tòa án có vị trí trung tâm trong hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp và xét xử là hoạt động trọng tâm trong cả quá trình tố tụng. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã quy định rõ thiên chức trọng yếu của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; xác định nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử. Yêu cầu về tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi một quá trình tố tụng công bằng, đề cao tranh tụng, tự do trình bày chứng cứ, chứng minh; triệt để áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc về quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Xem thêm:
- Quyền con người của người chấp hành án phạt tù theo cải cách tư pháp – ThS. Lê Hữu Trí
- Quy định về Viện kiểm sát trong Hiến pháp 2013 và cải cách tư pháp – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 2013 – GS.TSKH. Đào Trí Úc
- Khái niệm và sự cần thiết kiểm soát của tư pháp đối với quyền hành pháp – ThS. Lê Thị Thu Thảo
TỪ KHÓA: Góp ý sửa đổi Luật, Cải cách tư pháp,
1. Định hướng cải cách tư pháp và tư tưởng cơ bản của Hiến pháp năm 2013 đối với việc xác định mục đích và nhiệm vụ của Tố tụng hình sự
Cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam đã được phát động từ năm 2005 từ Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và đã gặt hái được những kết quả nhất định về nhận thức và về tổ chức thực hiện. Chiến lược cải cách tư pháp xác định rõ những tư tưởng có giá trị định hướng quan trọng về đổi mới mục đích hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của những cơ quan trong hệ thống tư pháp; cải cách căn bản các thủ tục tố tụng tư pháp mà trước hết là thủ tục tố tụng hình sự.
Bằng cả lời văn và tinh thần của nó, Hiến pháp năm 2013 có sứ mệnh tạo nền tảng pháp lý vững chắc và động lực mạnh mẽ cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội và sinh hoạt quốc gia trên nền tảng dân chủ, pháp quyền, thể chế hóa quan điểm về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; khẳng định các nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
Có thể nêu những nội dung tư tưởng cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp và của Hiến pháp năm 2013 như sau:
a) Xác định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao, các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.” (Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005).
b) Quy định: “Nhà nước (…) công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” (Điều 3; khoản 1 Điều 14 Hiến pháp).
c) Quy định: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (khoản 3 Điều 102 Hiến pháp).
d) Quy định: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân…” (khoản 3 Điều 107 Hiến pháp).
Những yêu cầu, những quy định được nêu trên đây trước hết cho thấy quan điểm tiếp cận mới về mục đích và nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Mục đích của tố tụng quyết định hệ thống các nguyên tắc làm nền tảng xác lập các bước tiếp theo của tố tụng và từ đó quyết định giới hạn chức năng, thẩm quyền, địa vị pháp lý của các chủ thể tố tụng và có thể nói là của toàn bộ quá trình đi tìm sự thật của vụ án.
Nếu nhìn nhận Tố tụng hình sự (TTHS) từ góc độ bản chất đích thực của nó thì đó là sự tranh chấp về vấn đề có tội hay không có tội, tội nặng hay tội nhẹ giữa Nhà nước – người đặt ra điều cấm và người bị buộc tội bị coi là đã vi phạm điều cấm đó, cũng như quan hệ giữa người bị buộc tội và người bị hại. Trong mối quan hệ phức tạp đó cần đến “người thứ ba” công minh, đáng tin cậy, vì nếu không thì chân lý – cái đang được TTHS của ta coi là mục đích sẽ không đạt được, chiến lược cải cách tư pháp đã xác định “các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý” và việc Hiến pháp đặt ra cho Tòa án và chỉ cho Tòa án nhiệm vụ “bảo vệ công lý” chính là nhằm để hoạt động tố tụng vừa đảm bảo đạt được sự thật, vừa không để có được cái không phải là sự thật lấn lướt.
Nhìn vào các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành có thể nhận thấy điều gì, khi nói đến mục đích của TTHS?
Điều 1: “BLTTHS quy định (…) nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội …” góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.
Có thể thấy rằng, quy định trên đây của BLTTHS đã xác định hai nhóm mục đích của TTHS: nhóm các mục đích cụ thể, trực tiếp và nhóm các mục đích chung, gián tiếp. “Ngăn chặn tội phạm”, “phát hiện chính xác và nhanh chóng tội phạm”; “xử lý công minh, kịp thời tội phạm”, “không để lọt tội phạm”, “không làm oan người vô tội” là những mục đích thuộc nhóm thứ nhất. Nhóm các mục đích thứ hai gồm mục đích: “phòng ngừa tội phạm”, “bảo vệ chế độ XHCN”, “bảo vệ lợi ích của Nhà nước”, “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức”, “bảo vệ trật tự pháp luật XHCN”, “giáo dục ý thức pháp luật”.
Các mục đích chung hay cụ thể, gần hay xa được nêu trên đây của TTHS Việt Nam đều thể hiện một định hướng về ưu thế vượt trội của Nhà nước mà người đại diện là những cơ quan và cá nhân được pháp luật TTHS xác định là “cơ quan tiến hành tố tụng” và “người tiến hành tố tụng”. Những khái niệm này cũng đã đủ để nói lên vị thế đó của các cơ quan công quyền. Mục đích hoạt động của các cơ quan đó đều xuất phát từ quyền lực của Nhà nước để “phát hiện”, “xử lý”, để “không để lọt tội phạm” và “không làm oan người vô tội”; để bảo vệ chế độ XHCN, các lợi ích của Nhà nước, “trật tự pháp luật”, “ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức”. Tại Điều 10 của BLTTHS Việt Nam năm 2003, các mục đích nêu trên đã được cụ thể hóa hơn nữa thông qua việc quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải “xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”, trong đó có trách nhiệm “làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”. Một lần nữa, trách nhiệm đó chỉ thuộc về Nhà nước.
Dự thảo BLTTHS đang được Quốc hội thảo luận đã cố gắng phản ánh được quy định của Hiến pháp tại các Điều 102 (khoản 3) và Điều 107 (khoản 3) đã nêu ở trên, theo đó, trong hai nhóm mục đích mà TTHS theo đuổi thì nhóm mục đích “Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” đã được đưa lên trước. Sự thay đổi này có ý nghĩa hết sức quan trọng với việc xác định tính chất của mô hình TTHS, có khả năng làm thay đổi tất cả những phần còn lại trong cấu trúc cơ bản của TTHS như vị trí của các chủ thể TTHS, chứng cứ và quá trình chứng minh thời hạn trong tố tụng hình sự.
Các mục đích được đặt ra cho TTHS mà thực chất là mục đích hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nặng về bảo vệ lợi ích công và coi nhẹ lợi ích của cá nhân, những con người cụ thể trong vụ án hình sự. BLTTHS chỉ nhắc đến mục đích “bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” một cách chung chung mà không chỉ rõ là bảo vệ quyền và lợi ích của những nguời ở vào vị thế bị động và yếu hơn so với bộ máy công quyền hiện diện trong TTHS, vả lại, cũng chỉ được nhắc đến sau cùng. Vì vậy, ai sẽ là người quan tâm nhiều hơn đến họ: Luật sư? Bản thân những cá nhân đó (bị can, bị cáo, bị đơn dân sự)? Chắc chắn là như vậy! Thế nhưng, ở đây họ chỉ là những người không có quyền chủ động trong tiến trình TTHS, họ được xếp vào thể loại “người tham gia tố tụng” vì đúng là tố tụng này không phải của họ. Mặt khác, giả sử họ là chủ thể đi tìm sự thật thì liệu họ có đi tìm và tìm ra những gì chống lại họ (nếu là bị can, bị cáo), hay thân chủ của họ (nếu là luật sư)? Trong trường hợp này, mục đích hợp pháp của những chủ thể này chỉ có thể là đi tìm những gì chống lại cái không phải là sự thật đang có nguy cơ được thừa nhận là sự thật. Muốn vậy, cần tạo cho bị can, bị cáo, người bào chữa của họ có được khả năng và vị thế ngang với khả năng và vị thế của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc đi tìm sự thật cũng như chống lại những gì phi sự thật, phản sự thật. Cách duy nhất để thỏa mãn được yêu cầu đó là đổi mới cách nhìn về mục đích của TTHS theo hướng bình đẳng đối với các giá trị, lợi ích cần đạt được của TTHS, lợi ích của trật tự pháp luật và lợi ích của cá nhân những con nguời nằm trong vòng tố tụng. Từ đó, hai mục đích khác nhau của TTHS cần được đặt ở vị trí ngang bằng nhau là: 1) xác định sự thật của vụ án và 2) loại trừ những gì không phải là sự thật trong vụ án. Với logic đó, việc xác định mục đích của TTHS cần được thực hiện theo hướng bảo đảm lợi ích của trật tự pháp luật và lợi ích, quyền và tự do của công dân.
1.1. Tố tụng công bằng và tư duy về phân loại chủ thể
Dự thảo BLTTHS vẫn tiếp tục thể hiện tư duy của BLTTHS năm 2003 trong việc phân biệt các nhóm chủ thể các quan hệ TTHS: nhóm “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” (chỉ bổ sung hai từ “có thẩm quyền”) và nhóm “người tham gia tố tụng”. Đáng chú ý là nhóm thứ hai này không chỉ bao gồm những chủ thể có lợi ích tố tụng thiết thân như người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự mà còn bao gồm những chủ thể không có lợi ích tố tụng riêng của mình như người làm chứng, người chứng kiến; người giám định, người định giá tài sản; người phiên dịch, người dịch thuật. Có thể thấy rằng, những người này đương nhiên cũng là những người tham gia quan trọng của TTHS, nhưng không thể đặt họ bên cạnh những người có lợi ích tố tụng liên quan.
Yêu cầu về tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi một quá trình tố tụng công bằng, đề cao tranh tụng, tự do trình bày chứng cứ, chứng minh; triệt để áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc về quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Vì lẽ đó, tố tụng tranh tụng triệt để áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội với đủ các yếu tố cơ bản đã được hiến định tại Điều 31 của Hiến pháp năm 2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
– Người bị buộc tội không buộc phải chứng minh lỗi của mình; trách nhiệm chứng minh cho sự buộc tội và bác bỏ các chứng lý của phía bào chữa của bị can, bị cáo hoàn toàn thuộc về phía buộc tội;
– Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội nếu không được loại bỏ theo một trình tự được pháp luật quy định đều cần phải được hiểu theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
1.2. Về trường hợp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự
Đề cao nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14 Hiến pháp năm 2013).
Trong TTHS , những hạn chế quyền con người, quyền công dân trước hết liên quan đến vấn đề tạm giam và gia hạn tạm giam. Dự thảo BLTTHS đã có những đổi mới ấn tượng trong việc xác định một cách chặt chẽ hơn và cụ thể hơn các căn cứ tạm giam, nhất là trong trường hợp được coi là hành vi cản trở điều tra, truy tố được quy định tại Điều 88 BLTTHS hiện hành, Dự thảo BLTTHS cũng đã rút ngắn khả năng gia hạn tạm giam.
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân trong TTHS cũng phát sinh trong những trường hợp được cho là đặc biệt như ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Những trường hợp này cho đến nay chưa được điều chỉnh bởi pháp luật với tính cách là biện pháp tố tụng thì nay, Dự thảo BLTTHS đã đưa vào đối tượng điều chỉnh của nó tại chương XVI: “Những biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt” với những quy định chặt chẽ về trường hợp áp dụng là: đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; có đề nghị của người tố giác tội phạm, người bị hại áp dụng đối với chính họ. Dự thảo BLTTHS cũng quy định rõ thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp tố tụng đặc biệt nêu trên, thời hạn áp dụng và điều kiện sử dụng các thông tin thu thập được từ việc áp dụng các biện pháp tố tụng đặc biệt đó.
1.3. Tố tụng công bằng và quyền tiếp cận công lý
Tiếp cận công lý vừa là mục tiêu của hoạt động tư pháp, vừa là điều kiện bảo đảm tăng cường trách nhiệm tư pháp và mức độ liêm chính của nó.
Nguyên tắc về quyền tiếp cận công lý đặt ra vấn đề về thời hạn hợp lý của một vụ án. Thực tế cho thấy rằng, rất khó có thể có quy định mặc định về thời hạn điều tra và xét xử một vụ án hình sự hoặc dân sự. Cho nên, ở vấn đề này chỉ có thể nói đến yêu cầu về một thời hạn hợp lý để không cho phép tình trạng kéo dài vô định một vụ án. Độ kéo dài được coi là “hợp lý” được căn cứ vào hai yếu tố chính: mức độ phức tạp của vụ án và mức độ thực thi trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Xuất phát từ yêu cầu đó, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ở Việt Nam đã đặt vào tầm hiến định quyền của người bị buộc tội được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai (khoản 2 Điều 31 Hiến pháp). Đặt ra thời hạn tố tụng chính là xác định giới hạn các thẩm quyền của các cơ quan tố tụng bởi kéo dài vô cớ tình trạng “người bị buộc tội” đối với con người chính là sự hạn chế quyền con người và xóa bỏ công lý.
Nhìn vào các quy định của BLTTHS hiện hành có thể thấy những hạn chế, bất cập xét từ quan điểm về quyền tiếp cận công lý. Dự thảo BLTTHS đã có bước thay đổi quan trọng nhằm vào hướng khắc phục những hạn chế này. Các sửa đổi đó đã rút ngắn đáng kể thời hạn tạm giam và số lần gia hạn tạm giam: chỉ quy định gia hạn 1 lần thay vì 2 lần đối với tội nghiêm trọng và rất nghiêm trọng; 2 lần đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng (so với 3 lần trước đây). Tinh thần chung là mọi hoạt động tố tụng đều phải được xác định giới hạn thời gian và phải được thực hiện nghiêm ngặt nhằm loại trừ sự tùy tiện, lạm dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử.
2. Quan điểm về vị trí trung tâm của Tòa án, coi xét xử là hoạt động trọng tâm; về thực hiện nguyên tắc tranh tụng: Ý nghĩa đối với việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự
Chiến lược cải cách tư pháp coi một trong những mục tiêu cơ bản của cải cách là bảo đảm để Tòa án có vị trí trung tâm trong hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp và xét xử là hoạt động trọng tâm trong cả quá trình tố tụng.
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã quy định rõ thiên chức trọng yếu của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; xác định nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử.
Chiến lược cải cách tư pháp còn đặt ra yêu cầu tổ chức lại các cơ quan điều tra, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng sau đó còn đặt ra yêu cầu “thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra”.[1]
Thoạt nhìn có thể không rõ lắm về mối liên hệ của những định hướng quan điểm trên đây, nhưng nếu xem xét kỹ có thể thấy sự nhất quán của cải cách tư pháp và sự gắn kết của các quan điểm cải cách tư pháp và ý tưởng quan trọng của Hiến pháp năm 2013.
Trên thế giới có hai quan điểm chủ yếu về mục đích của TTHS: mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án và mục đích công nhận sự thật pháp lý theo cách diễn đạt của các luật gia La Mã “quod non est in actua non in mundo” (“Cái không có trong hồ sơ là cái không tồn tại”). Mục đích nào sẽ đặt ra các nguyên tắc ấy. Nếu vì mục đích thứ nhất, TTHS phải tuân theo các nguyên tắc của mô hình tố tụng thẩm vấn, theo đó mục đích của tố tụng hình sự là đấu tranh chống tội phạm, TTHS thiên về hướng sử dụng quyền lực và uy thế của các cơ quan Nhà nước; coi trọng vai trò chứng minh của Tòa án, nguyên tắc bắt buộc khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Nếu vì mục đích thứ hai, TTHS phải tuân theo các nguyên tắc của TTHS tranh tụng, theo đó, TTHS không được coi chủ yếu là hoạt động quyền lực. Ở đây điều đáng quan tâm không chỉ là áp dụng luật nội dung mà trước hết là thủ tục pháp lý (“due process of law”), thủ tục TTHS, là một quá trình chứng minh để bảo vệ các lợi ích tố tụng và quan điểm tố tụng của các bên. Nói khác đi, mục đích của tố tụng tranh tụng đặt ra yêu cầu về vị trí trung tâm, vô tư, khách quan của Tòa án – biểu tượng cho công lý, đòi hỏi có vị trí bình đẳng của các bên tranh tụng, xác định trách nhiệm và khả năng chứng minh trong vụ án hình sự, khuyến khích cả hai phía: người buộc tội và bị cáo tìm kiếm những hình thức và khả năng khác nhau để giải quyết vụ án.
Trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc khu biệt ba chức năng tố tụng cho từng chủ thể tố tụng. Nếu có, thì đó cũng chỉ là sự phân biệt tương đối. Ngoài ra, Điều 13 của BLTTHS Việt Nam còn quy định rõ: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý nguời pham tội”. Theo quy định này, không chỉ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà Tòa án cũng có chức năng khởi tố vụ án hình sự. Điều này được bổ sung bởi một số quy định khác trong BLTTHS năm 2003, chẳng hạn như quy định Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án khi tại phiên tòa, nếu sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn (Điều 195); quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố (Điều 196). Các quy định này vẫn tiếp tục được duy trì trong Dự thảo BLTTHS.
Việc không phân biệt thật rõ ràng mục đích của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng về chức năng của các chủ thể đó và trong tổng thể điều đó không tạo ra được động cơ và động lực thúc đẩy hiệu quả của TTHS, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và của công dân.
Cần đổi mới BLTTHS năm 2003 theo hướng làm rõ hơn vị trí trung tâm của Tòa án. Tại giai đoạn xét xử, Tòa án là chủ thể có toàn quyền điều hành, kiểm soát quá trình tố tụng. Tính chất “trung tâm”, “trọng tâm” của hoạt động xét xử cần được thể hiện qua vai trò duy nhất và không thể thiếu được là điều hành phiên tòa theo hướng để bên công tố và phía bị cáo thực hiện được đầy đủ chức năng, thẩm quyền và các quyền tố tụng một cách bình đẳng. Nhất thiết cần bỏ quy định ở Điều 179 BLTTHS năm 2003: “Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”. Cũng cần thiết phải bỏ quy định tại Điều 195 và Điều 221 BLTTHS năm 2003, theo đó, mặc dù tại phiên tòa, sau khi xét hỏi hoặc sau khi tranh luận, Kiểm sát viên rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử toàn bộ vụ án. Quy định này cũng đã chuyển vào tay Tòa án chức năng buộc tội vốn phải là của Viện kiểm sát và làm yếu đi vị trí và vai trò vô tư, khách quan trong việc thực hiện chức năng xét xử của Tòa án.
Thiết nghĩ, đã đến lúc cần thay đổi toàn bộ quy trình của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được quy định tại Chương XX BLTTHS hiện hành. Bởi lẽ, những quy định này không thể hiện đúng logic của vụ án hình sự, theo đó, sự buộc tội của Viện kiểm sát là yếu tố làm khởi động vụ án, làm phát sinh nhu cầu gỡ tội của phía bị cáo và vai trò xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, quy định mới của Dự thảo BLTTHS năm 2003 theo hướng này đã không được chấp nhận tại phương án mới nhất của Dự thảo. Nội dung mới của Dự thảo vẫn tiếp tục giữ lại quy định của Chương XX BLTTHS không cho phép Tòa án (Hội đồng xét xử) đóng vai trò xét xử khách quan, vô tư; vai trò tạo điều kiện để các bên buộc tội và gỡ tội làm hết sức mình để đi đến những kết cục cần thiết (cho họ) trong vụ án.
BLTTHS nước ta cần có quy định nhằm khẳng định lại quy định của Hiến pháp về Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền xét xử. Quyền xét xử với tư cách là một quyền hiến định, khi trở thành nội dung của một quyền tố tụng sẽ được thể hiện thông qua chức năng xét xử với tính cách là chức năng chỉ thuộc về Tòa án.
Nguyên tắc tranh tụng được Hiến pháp khẳng định cần đến sự phân vai rõ ràng giữa các chủ thể và nhờ đó, các chủ thể hình thành ra “hai bên” trong vụ án – bên buộc tội và bên bào chữa với lợi ích tố tụng độc lập và khác nhau, đối lập nhau. Từ đó, các bên sẽ nỗ lực hết mình để bảo vệ lợi ích, bảo vệ quan điểm, trình bày chứng cứ, chủ động chứng minh về các tình tiết của vụ án theo châm ngôn “chân lý chỉ tìm thấy trong tranh luận”. Tố tụng tranh tụng đòi hỏi tự do chứng minh và tự do đánh giá chứng cứ, bảo đảm tính “mở” của chứng cứ với yêu cầu “không một chứng cứ nào có thể được coi là có giá trị chứng minh ưu tiên hay có giá trị pháp lý tiên quyết”.
Căn cứ của việc hình thành và tồn tại hai bên trong tố tụng là sự tồn tại của các lợi ích tố tụng độc lập. Từ đó, việc theo đuổi tố tụng để bảo vệ lợi ích của mình đã làm nên tính tranh tụng của tố tụng, tức là quan hệ tranh tụng giữa các bên có lợi ích khác nhau.
Cũng vì lý do đó mà trong tố tụng tranh tụng, các hoạt động tố tụng không được coi là nhiệm vụ duy nhất của một phía trong việc phát hiện tội phạm, xử lý người phạm tội, để qua đó đấu tranh chống tội phạm, phòng ngừa tội phạm, giáo dục người phạm tội. Tố tụng tranh tụng được coi là địa hạt hành động của cả hai phía: phía Nhà nước mà đại diện là các cơ quan có chức năng buộc tội; phía bị can, bị cáo cùng với người bào chữa hoặc do người bào chữa đại diện.
2.1. Bên công tố
Khái niệm quyền công tố bao hàm trong đó quyền phát hiện những hành vi vi phạm những điều cấm của Nhà nước và việc nhân danh Nhà nước truy tố hành vi vi phạm và người vi phạm đó ra trước Tòa án.
Quyền công tố, chức năng công tố là một hệ thống hoạt động do những cơ quan khác nhau thực hiện, trong đó Viện kiểm sát chịu trách nhiệm chủ đạo. Vì thế, pháp luật của các quốc gia đều giao cho Viện kiểm sát hoặc các thiết chế tương tự vai trò chỉ huy điều tra, chí ít là phối hợp điều tra và phê chuẩn kết luận điều tra, quyết định truy tố hay không truy tố. Tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất giữ quyền công tố, là một bên trong tố tụng tranh tụng với việc một mình chịu trách nhiệm chứng minh lời buộc tội; chịu trách nhiệm về dung lượng và chất lượng buộc tội, truy tố hay rút truy tố (toàn bộ hay từng phần). Hơn thế nữa, Viện kiểm sát còn có nhiệm vụ đưa ra các lập luận trong việc bác bỏ (một phần hay toàn bộ) nội dung bào chữa của bên bị buộc tội. Vì vậy, yêu cầu đối với việc bảo vệ quan điểm truy tố, nội dung, mức độ và phương pháp buộc tội phải được đặt ra ngay từ thời điểm khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc khi chính cơ quan công tố chủ động rút quyết định truy tố. Cơ quan công tố cần có toàn quyền quyết định vấn đề truy tố và buộc tội (quyền công tố) và hoàn toàn chịu trách nhiệm bảo vệ quan điểm buộc tội là những tố chất làm nên tính độc lập của chủ thể quyền công tố và là biểu hiện đầy đủ nhất cho tính chất của bên tranh tụng trong TTHS.
Trên cơ sở khẳng định quyền công tố (truy tố, buộc tội) là hoạt động có mục đích nhất quán kể từ khi khởi tố vụ án hình sự nhằm xác định hành vi tội phạm và truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử, chủ thể của quyền đó cần được hiểu là Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự. Những chủ thể này có mục đích chung là phát hiện tội phạm và đưa người phạm tội ra truy tố. Trong số đó, cần quy định Viện kiểm sát là chủ thể chịu trách nhiệm chính và cuối cùng đối với việc thực hiện chức năng này.
Như đã nói ở trên, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chủ thể duy nhất thực hiện chức năng công tố là Viện kiểm sát và Kiểm sát viên, đối diện với bên gỡ tội bào chữa (người bào chữa, bị cáo, bị đơn dân sự).
Đại diện Viện kiểm sát trước Tòa chịu trách nhiệm về chất lượng, dung lượng, mức độ buộc tội; có quyền thay đổi mức độ buộc tội so với buộc tội ban đầu; có quyền quyết định truy tố nếu thấy không đủ chứng cứ buộc tội hoặc có căn cứ để không áp dụng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Như vậy, chất lượng buộc tội trước Tòa án của Viện kiểm sát phụ thuộc vào chất lượng điều tra, truy tố và cần đặt trách nhiệm đối với việc bảo đảm chất lượng này cho Viện kiểm sát. Vì thế cần xác định thẩm quyền kiểm soát và chỉ huy hoạt động điều tra cho Viện kiểm sát mà không đơn thuần chỉ dừng lại ở những thẩm quyền hiện hành được quy định tại các Điều 36, 37 của BLTTHS năm 2003. Đồng thời, cần quy định thêm rằng, tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo vệ lời buộc tội của mình trước các chứng lý của phía gỡ tội.
2.2. Bên bào chữa
Bào chữa là quyền hiến định của bị can, bị cáo. Nhưng quyền đó chỉ trở thành quyền tố tụng khi có sự thể hiện của quyền đối lập là quyền công tố. Công tố là hoạt động làm khởi động và chuyển động vụ án hình sự. Với nghĩa “đối lập” như vậy, chức năng bào chữa không thể thuộc về cơ quan công tố. Việc BLTTHS năm 2003 hiện hành cũng như Dự thảo BLTTHS mới vẫn tiếp tục quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng “phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” (Điều 10, BLTTHS năm 2003) hoàn toàn không có nghĩa rằng, Tòa án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát bên cạnh chức năng buộc tội và xét xử, cũng thực hiện chức năng bào chữa. Những yêu cầu trên đây thực chất là nội dung của nguyên tắc về tính khách quan của TTHS.
Lợi ích của người bị buộc tội trong vụ án hình sự là bào chữa cho hành vi của mình trước sự buộc tội của cơ quan công tố. So với lợi ích tố tụng của phía công tố thì lợi ích này dễ nhìn nhận hơn vì không ai ngoài người bị buộc tội và người bào chữa của họ quan tâm đầy đủ và triệt để đến lợi ích đó. Đó là lý do và cơ sở quan trọng nhất để xác định rằng, người bị buộc tội và người bào chữa cho họ là một bên trong tố tụng.
Tuy nhiên, để có thể là một bên đích thực, người bị buộc tội và người bào chữa phải thực sự được bình đẳng với bên buộc tội và được bảo đảm có đủ quyền tiếp cận công lý mà cụ thể là tiếp cận hồ sơ, tự do trình bày chứng cứ và chứng minh trong quá trình tố tụng. Có thể nói rằng, đây là vấn đề tưởng chừng như dễ hiểu và đơn giản nhưng rất khó đối với nhận thức và trong quá trình thực hiện.
Trong vấn đề chứng cứ và chứng minh, để có thể bình đẳng, bị can, bị cáo, người bào chữa phải được tự do trình bày chứng cứ, được tự do trong quá trình chứng minh, triệt để áp dụng nguyên tắc “không một chứng cứ nào có hiệu lực tiên quyết hay có giá trị ưu tiên”.
Cần có những quy định đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng, trong đó nội dung quan trọng nhất là quyền được đưa ra bất kỳ chứng cứ nào và vào bất kỳ giai đoạn nào của TTHS, quyền được tiếp cận hồ sơ…
Tố tụng bình đẳng, công bằng đòi hỏi sự đổi mới căn bản các quy định của BLTTHS năm 2003 về chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự. Có thể nhận thấy có hai sự bất công lớn của chế định chứng cứ hiện hành. Thứ nhất, đó là việc BLTTHS năm 2003 không công nhận quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Thứ hai, đó là việc chỉ ghi nhận các nguồn chứng cứ là tài liệu, đồ vật mà chưa cho phép sử dụng các dữ liệu điện tử như một nguồn chứng cứ. Dự thảo BLTTHS đã khắc phục được hai sự bất cập đó nhằm phá bỏ sự độc quyền của các cơ quan tố tụng trọng việc thu thập chứng cứ, tạo khả năng cho người bào chữa và những người tham gia tố tụng có quyền thu thập, cung cấp chứng cứ; đa dạng hóa các loại nguồn chứng cứ. Dự thảo cũng đã trao cho người bào chữa quyền đánh giá chứng cứ do cơ quan tố tụng thu thập. Bị cáo có quyền yêu cầu Tòa án thu thập bổ sung chứng cứ nếu trước đó, trong giai đoạn điều tra, yêu cầu này đã được đưa ra nhưng chưa được chấp nhận, giải quyết.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự chuyển hướng tính chất của TTHS theo hướng tranh tụng mà Hiến pháp và Chiến lược Cải cách tư pháp đã xác định liên quan đến hầu hết các giai đoạn chủ yếu của quá trình tố tụng mà không chỉ là ở khâu xét xử. Nó đòi hỏi sự “phân vai” các chức năng tố tụng, sự gắn kết giữa công tố với điều tra, đòi hỏi sự bình đẳng của các bên và sự tự do trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ, xác định đúng vai trò trung tâm của Tòa án, bởi nguyên tắc tối thượng ở đây là bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Từ đó, một kết luận cần được rút ra nữa là tranh tụng được bắt đầu từ rất sớm kể từ khi có hoạt động buộc tội bởi có buộc tội thì có những nhu cầu liên quan đến chứng cứ như bổ sung chứng cứ, trình bày chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tranh luận và phản biện. Nói khác đi, tranh tụng là một quá trình mà ở đó phải bảo đảm đầy đủ những điều kiện cần thiết để các chủ thể thực hiện được chức năng tố tụng của mình, nhất là trong việc thu thập, trình bày, đánh giá chứng cứ.
3. Nguyên tắc hiến định về kiểm soát quyền lực và yêu cầu thể hiện nguyên tắc đó trong Tố tụng hình sự
Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Trong TTHS, cơ chế kiểm soát nội tại của các cơ quan tố tụng và trong các giai đoạn tố tụng là yếu tố kiểm soát chủ đạo: cơ quan điều tra cấp trên kiểm soát cơ quan điều tra cấp dưới; hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát; giai đoạn tố tụng sau kiểm tra, đánh giá và khắc phục khiếm khuyết của giai đoạn trước; cơ chế giám đốc, kiểm tra của Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và của Tòa án tối cao đối với tất cả các Tòa án; bảo đảm công khai hóa các quyết định tố tụng nhằm tăng cường khả năng giám sát của công luận, của xã hội. Trong số các giải pháp này cần đặc biệt chú trọng tăng cường kiểm soát hoạt động điều tra. Có thể hình dung như sau:
Theo những tài liệu nghiên cứu của các nhà khoa học thì có khoảng 40% bị cáo trước khi bị đưa ra xét xử đã từng bị tạm giữ và tạm giam. Trong khi đó, theo quy định của BLTTHS năm 2003, thời hạn tạm giam để điều tra là không quá 2 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng và không quá 4 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Việc tạm giam còn có thể được gia hạn tương ứng với các loại tội vừa nêu trên là: một lần và không quá 1 tháng đối với với tội phạm ít nghiêm trọng; hai lần với mức độ không quá 2 tháng đối với lần thứ nhất, không quá 1 tháng đối với lần thứ hai. Mức độ gia hạn tiếp theo tương ứng là: 3 tháng + 2 tháng = 5 tháng; 3 lần x 4 tháng = 12 tháng. Nói khác đi, trong một khoảng thời gian dài tạm giam bị can đã phải đối diện một mình với Điều tra viên. Thêm vào đó, theo lẽ thường tình, giai đoạn điều tra, các hoạt động điều tra đặt ra yêu cầu cao về bảo đảm bí mật và khép kín nếu so với giai đoạn xét xử tại Tòa án.
Rõ ràng rằng, với vị trí chủ động và áp đảo của Cơ quan điều tra, với thời gian không ngắn và tính khép kín, bí mật của hoạt động điều tra thì khả năng vi phạm các nguyên tắc tố tụng, các đòi hỏi về quyền con người trong quá trình tố tụng là rất dễ xảy ra và khó bị phát hiện, xử lý. Sự thật đã cho thấy không ít những vi phạm đó.
Điều đó lý giải sự cần thiết phải tăng cường sự giám sát hoạt động điều tra từ phía các thiết chế khác của quyền lực nhà nước. BLTTHS năm 2003 nước ta quy định nhiệm vụ quyền hạn đó của Viện kiểm sát.
CHÚ THÍCH
[1] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 127.
Tác giả: GS.TSKH. Đào Trí Úc – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2015 (93)/2015 – 2015, Trang 03-11
Like Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời