Mục lục
Hiến pháp năm 2013 và nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự (TTHS): Thực tiễn tố tụng hình sự (TTHS) ở Việt Nam đang đối diện với một số vấn đề lớn mà trước hết là vấn đề tiếp cận công lý, vấn đề oan, sai trong các vụ án hình sự…
- Hiến pháp 2013 về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân – TS. Phan Nhật Thanh
- Vai trò của Tòa án quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người – ThS. Đặng Công Cường
- Mối quan hệ: Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
- Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – Steven D. Schwinn
- Quyền con người sống trong môi trường trong lành – ThS. Trần Thị Trúc Minh
- Điểm mới của Hiến pháp 2013 về “quyền con người” và “quyền công dân” – TS. Nguyễn Mạnh Hùng & ThS. Phan Nguyễn Phương Thảo
- Sửa đổi các quy định của BLTTHS theo Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
- Nguyên tắc Paris 1993 và vấn đề thành lập cơ quan quốc gia về quyền con người ở Việt Nam hiện nay – TS. Trần Quang Trung & ThS. Vũ Thị Bích Hường
- Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt Nam – TS. Phan Nhật Thanh
- Xử lý tài sản bảo đảm là nhà ở và vấn đề bảo đảm quyền con người – GS.TS. Mai Hồng Quỳ
- Tổng quan về quyền con người trong pháp luật lao động – ThS. Đào Mộng Điệp
TỪ KHÓA: Hiến pháp 2013, Quyền con người,
TÓM TẮT
Thực tiễn tố tụng hình sự (TTHS) ở Việt Nam đang đối diện với một số vấn đề lớn mà trước hết là vấn đề tiếp cận công lý, vấn đề oan, sai trong các vụ án hình sự. Các bảo đảm để có thể giải quyết tích cực các vấn đề này trước hết nằm trong việc nhìn nhận lại mục đích, tính chất và đặc trưng của TTHS cũng như sự hoàn chỉnh và đầy đủ các quy định của pháp luật mà trung tâm là pháp luật TTHS. Bằng toàn bộ tinh thần và lời văn của nó, Hiến pháp năm 2013 đã cho thấy rằng, vấn đề bảo đảm quyền con người trong TTHS có thể được coi là trục xoay của toàn bộ các hoạt động TTHS. Yếu tố “công bằng”, “công minh” vì thế là biểu tượng chung, bao trùm của một nền tư pháp, là bản tính của nền tư pháp. Theo đó, công bằng được hiểu trên hai bình diện. Ở bình diện thứ nhất, đó là yêu cầu về sự công bằng của các thủ tục tố tụng, của việc tiến hành các thủ tục tố tụng. Ở bình diện thứ hai, đó là yêu cầu về sự đối xử công bằng, có vị trí pháp lý, có các cơ hội pháp lý công bằng giữa các bên trong tố tụng.
1. Những giá trị nhân quyền nền tảng của Hiến pháp năm 2013 đối với tố tụng hình sự
Là luật cơ bản của nước CHXHCN Việt Nam và với vị trí pháp lý cao nhất, bằng cả lời văn và tinh thần của nó, Hiến pháp năm 2013 có sứ mệnh tạo nền tảng pháp lý vững chắc và động lực mạnh mẽ cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội và sinh hoạt quốc gia trên nền tảng dân chủ, pháp quyền. Sự khẳng định tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp đã trở thành một nguyên tắc xuyên suốt của tư tưởng Nhà nước pháp quyền về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, về sự minh bạch của Nhà nước, khẳng định quyền lực của nhân dân như là lá chắn cho việc bảo vệ quyền con người.
Thực tiễn TTHS ở Việt Nam đang đối diện với một số vấn đề lớn mà trước hết là vấn đề tiếp cận công lý, vấn đề oan, sai trong các vụ án hình sự. Theo quan điểm của chúng tôi thì các bảo đảm để có thể giải quyết tích cực các vấn đề này trước hết nằm trong việc nhìn nhận lại mục đích, tính chất và đặc trưng của TTHS cũng như sự hoàn chỉnh và đầy đủ các quy định của pháp luật mà trung tâm là pháp luật TTHS. Cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam đã được phát động từ năm 2005 bằng Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2.6.2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hảnh trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã gặt hái được những kết quả nhất định về nhận thức và về tổ chức thực hiện. Tuy vậy, pháp luật TTHS, trải qua những lần sửa đổi, bổ sung cần thiết, vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế, trong số đó có các vấn đề về những cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội. Giữa những chủ trương đúng đắn của chính sách hình sự và cải cách tư pháp hình sự cho đến thực tiễn TTHS vẫn còn một khoảng cách lớn, trước hết là các vấn đề về chủ trương áp dụng rộng rãi việc tranh tụng tại phiên hòa xét xử hình sự, chủ trương tạo đầy đủ các điều kiện cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa; bảo đảm tính dân chủ, công khai và giám sát các hoạt động tố tụng, tăng cường trách nhiệm trong hoạt động đó từ phía các cơ quan tố tụng.
Hiến pháp năm 2013 đã cho thấy rằng, vấn đề bảo đảm quyền con người trong TTHS có thể được coi là trục xoay của toàn bộ các hoạt động TTHS. Sở dĩ như vậy vì, TTHS phản ánh những mối liên hệ đa chiều và mang trong mình nó nhiều nghịch lý của các mối liên hệ. TTHS của bất kỳ quốc gia và hệ thống pháp lý nào cũng đều phải thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ: vừa phải xác định cho được sự thật của vụ án, bảo đảm để công lý được thực thi, nhưng lại vừa phải làm thế nào để trên con đường đi tìm sự thật và công lý thì quyền của tất cả những ai có liên quan đều phải được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ.
TTHS thực chất là mối quan hệ quyền lực, trong đó bên có quyền lực áp dụng các biện pháp cưỡng chế là nhà nước mà đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo là những người thuộc phía yếu thế. Yếu thế, bởi trong quan hệ này, quyền lực nhằm vào họ, họ phải đối mặt với cả bộ máy các cơ quan nhà nước buộc tội họ với đội ngũ cán bộ được trả lương và cung cấp các trang thiết bị cần thiết, có các kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức pháp luật. Người bị buộc tội có thể bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn và khó có khả năng bình đẳng với bên buộc tội trong việc chứng minh, thu thập chứng cứ và trình bày chứng cứ; không dễ dàng gì trong việc sử dụng quyền tiếp cận công lý như thuê luật sư, tìm và hiểu các quy định của pháp luật, các thủ tục tố tụng. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) năm 2003 thì thời hạn tạm giam để điều tra được quy định là không quá 2 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Việc tạm giam đó còn có thể được gia hạn tương ứng là một lần không quá một tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, hai lần đối với tội phạm nghiêm trọng theo công thức không quá 2 tháng trong lần thứ nhất, không qua 1 tháng trong lần thứ hai, có nghĩa tối đa là 3 tháng; mức độ tương ứng tiếp theo là 3 tháng + 2 tháng = 5 tháng; 3 lần x 4 tháng = 12 tháng. Nói khác đi, trong một khoảng thời gian dài bị cáo đã phải đối diện song phương với điều tra viên và vì vậy số phận, việc bảo đảm quyền và lợi ích của họ hoàn toàn phụ thuộc vào điều tra viên, chưa nói đến tính bí mật khép kín của hoạt động điều tra, bởi hoạt động này thường phải tuân theo những yêu cầu về nghiệp vụ điều tra. Giai đoạn được coi là công khai nhất là giai đoạn xét xử thì trừ những vụ án phức tạp, có nhiều bị cáo, thông thường chỉ diễn ra từ 1 – 2 ngày!
Chính vì vậy, mặc dù không thể coi nhẹ việc bảo đảm quyền con người, mà trước hết là danh dự, nhân phẩm, tính mạng và tài sản của tất cả các bên và những con người trong quá trình tiến hành TTHS, tâm điểm chú ý của cải cách tư pháp vẫn là việc bảo đảm quyền con người đối với “phía” người bị buộc tội tại tất cả các giai đoạn của TTHS, tức là bảo đảm để bảo vệ các quyền do sự cáo buộc phạm tội có thể gây ra.
Trong lịch sử của tư pháp hình sự, TTHS ra đời với tính cách là một sự thỏa mãn nhu cầu của những người có liên quan về sự can thiệp của bên thứ ba: nhà nước, các thiết chế tố tụng. Đó là điều phổ quát đối với cả hai trường hợp: cả trong mô hình TTHS thẩm vấn khi tố tụng được quan niệm như là con đường đi tìm sự thật khách quan của vụ án và trên cơ sở đó Tòa án ra phán quyết về kết cục của vụ án, cả trong trường hợp TTHS tranh tụng, khi tố tụng được coi như một vụ kiện thông thường và nó sẽ dừng lại khi các bên tìm ra giải pháp chung, cùng thỏa mãn với giải pháp đó. Trong cả hai trường hợp, sự hiện diện của “bên thứ ba công minh” – cơ quan điều tra, cơ quan công tố, Tòa án đều là điểm hy vọng của cả hai phía, là chỗ dựa về tâm lý và pháp lý của họ. Xuyên suốt các yếu tố đó là tinh thần và đòi hỏi về công bằng, sự vô tư và khách quan. Mọi thứ chân lý, khi nó được hiểu là chân lý khách quan và cả khi nó là chân lý pháp lý; mọi lẽ công bằng, khi nó đạt được bằng nỗ lực tìm kiếm không mệt mỏi của cả hai phía và khi nó là yếu tố tâm lý sau sự thỏa thuận, sự cùng thỏa mãn thì đều chỉ có thể được xác lập trên tinh thần công bằng, không có độc quyền chân lý, vì thiếu công bằng thì con đường dẫn đến chân lý luôn luôn rất dài và mạo hiểm. Độc quyền chân lý sẽ là mầm mống của một nửa chân lý hoặc đó là sự thật được ngụy tạo. Nói khác đi, điều cần được quan tâm nhất là những đảm bảo để vừa đạt được sự thật, vừa để không được có cái không phải là sự thật!
Với logic đó, các bảo đảm để bảo vệ quyền con người trong TTHS luôn gắn với yêu cầu về thủ tục pháp lý chặt chẽ (due process of law), về tố tụng công bằng (fair trial). Đó là yêu cầu không thể thiếu được đối với tiến trình pháp lý nhằm xác lập sự cân bằng cần thiết giữa các bên khi thực hiện các nỗ lực để bảo vệ quan điểm, quyền và lợi ích của mình. Yếu tố “công bằng”, “công minh” vì thế là biểu tượng chung, bao trùm của một nền tư pháp, là bản tính của nền tư pháp. Theo đó, công bằng được hiểu trên hai bình diện. Ở bình diện thứ nhất đó là yêu cầu về sự công bằng của các thủ tục tố tụng, của việc tiến hành các thủ tục tố tụng. Ở bình diện thứ hai, đó là yêu cầu về sự đối xử công bằng, có vị trí pháp lý, có các cơ hội pháp lý công bằng giữa các bên trong tố tụng.
Yêu cầu về thủ tục pháp lý chặt chẽ, về tố tụng công bằng với tính cách là bảo đảm cốt lõi cho quyền con người trong TTHS được các văn kiện pháp lý quốc tế mô tả và tiếp cận và nhiều góc độ khác nhau nhưng đều tập trung vào đòi hỏi phải bảo đảm những quyền sau đây:
1 – Quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập và công bằng;
2 – Quyền được xét xử kịp thời trong một thời hạn hợp lý;
3 – Quyền được giải thích về sự buộc tội và thông báo kịp thời về sự cáo buộc;
4 – Quyền được suy đoán vô tội, không phải đưa ra chứng cứ buộc tội mình, quyền im lặng;
5 – Quyền bào chữa, bao gồm việc tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; quyền có khoảng thời gian và điện kiện cần thiết để chuẩn bị bào chữa;
6 – Quyền được tự do đưa chứng cứ và trình bày chứng cứ;
7 – Quyền kháng cáo.
Các quyền đó được ghi nhận, được khuyến cáo thực hiện và đòi hỏi thực hiện trong tất cả các văn kiện pháp lý quốc tế và khu vực. Có thể nói, đó chính là những chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người trong TTHS.
2. Những điểm mấu chốt của tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến quyền con người
2.1. Quyền con người và vấn đề mục đích của tố tụng hình sự
Trong lịch sử nhân loại, có hai quan điểm chủ yếu về mục đích của TTHS: 1. mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án và 2. mục đích công nhận sự thật pháp lý theo cách diễn đạt của các luật gia La Mã “quod non est in actua non in mundo” (“cái không có trong hồ sơ là cái không tồn tại”). Mục đích nào sẽ đặt ra các nguyên tắc ấy? Nếu vì mục đích thứ nhất, TTHS phải tuân theo các nguyên tắc của mô hình tố tụng thẩm vấn, theo đó mục đích của TTHS là đấu tranh chống tội phạm, TTHS thiên về hướng sử dụng quyền lực và uy thế của các cơ quan nhà nước; coi trọng vai trò chứng minh của Tòa án, nguyên tắc bắt buộc khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Nếu vì mục đích thứ hai, TTHS phải tuân theo các nguyên tắc của TTHS tranh tụng, theo đó, TTHS không được coi chủ yếu như một thứ hoạt động quyền lực mà được hình dung như sự giải quyết tranh chấp giữa một bên là nhà nước – người đặt ra các điều cấm và một bên khác là bị can, bị cáo đã vi phạm các điều cấm đó. Đồng thời, ở đây điều đáng quan tâm nhất không chỉ là áp dụng luật nội dung mà trước hết là tuân thủ nghiêm ngặt thủ tục pháp lý – thủ tục TTHS. Nói khác đi, mục đích của Tố tụng tranh tụng đặt ra các nguyên tắc đòi hỏi có vị trí bình đẳng của các bên tranh tụng, xác định trách nhiệm và khả năng chứng minh trong vụ án hình sự, khuyến khích cả hai phía: người buộc tội và bị cáo tìm kiếm những hình thức và khả năng khác nhau để giải quyết vụ án, việc xác định mục đích cần đạt được của TTHS sẽ là điểm mấu chốt cho việc cải tổ hệ thống TTHS, chúng tôi cho rằng, bàn về đổi mới và hoàn thiện TTHS Việt Nam cần bắt đầu từ vấn đề mục đích của TTHS.
Quy định của pháp luật TTHS về mục đích của TTHS nếu chỉ nặng về yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, không khuyến khích nỗ lực của cả hai phía tố tụng sẽ có khả năng dẫn đến sự chủ quan cho chủ thể đi tìm sự thật của vụ án hình sự.
Vì vậy, xét về mục đích, TTHS cần tạo cho bị can, bị cáo, người bào chữa của họ có được khả năng và vị thế ngang với khả năng và vị thế của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc đi tìm sự thật cũng như chống lại những gì phi sự thật, phản sự thật. Cách duy nhất để thỏa mãn được yêu cầu đó là đổi mới cách nhìn về mục đích của TTHS theo hướng bình đẳng đối với các giá trị, lợi ích cần đạt được của TTHS, giữa lợi ích của trật tự pháp luật và lợi ích của cá nhân những con nguời nằm trong vòng tố tụng.
2.2. Quyền con người và vấn đề các chức năng trong tố tụng hình sự
Trong bất kỳ một hệ thống TTHS nào cũng đều tồn tại các nhu cầu được đặt ra bởi tính chất của tố tụng là: hoạt động truy tố tội phạm và người phạm tội; hoạt động bào chữa của bị can, bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của tòa án. Từ đó, ba chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử luôn luôn tồn tại trong bất kỳ một loại TTHS nào. Do đó, nói chức năng tố tụng là nói đến những định hướng hoạt động trong quá trình TTHS.
Trong khi đó, có thể nhận xét rằng, trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc khu biệt ba chức năng tố tụng cho từng chủ thể tố tụng. Nếu có, thì đó cũng chỉ là sự phân biệt tương đối. Chẳng hạn, Điều 13 của Bộ luật TTHS năm 2003 quy định rõ: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý nguời phạm tội”. Theo quy định này, không chỉ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà Tòa án cũng có chức năng khởi tố vụ án hình sự! Điều này được bổ sung bởi một số quy định khác trong Bộ luật TTHS, chẳng hạn như quy định Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án khi tại phiên tòa, nếu sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn (Điều 195); quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố (Điều 196)…
Từ chỗ không phân biệt thật rõ ràng mục đích riêng của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng về chức năng của các chủ thể đó và, trong tổng thể điều đó không tạo ra được động cơ và động lực thúc đẩy hiệu quả của tố tụng hình sự, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và của công dân. Vì vậy, cần từ bỏ cách chia các chủ thể quan hệ tố tụng thành cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Tất cả phải đều là chủ thể các quan hệ tố tụng và trên cơ sở xác định rõ ràng mục đích và lợi ích của các chủ thể đó mà hình thành các bên trong quan hệ tố tụng. Các bên cần được quyền ngang nhau về khả năng đưa ra chứng cứ, lấy lời khai người làm chứng. Cần tăng cường những bảo đảm cho tính công khai của hoạt động điều tra, tăng cường giám sát hoạt động điều tra theo hướng gắn công tố với điều tra như các văn kiện của Đảng và Nhà nước đã xác định[1].
2.3. Quyền con người và vấn đề chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hình sự
Theo quy định pháp luật hiện hành (Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003), chủ thể có quyền chủ động hoàn toàn trong toàn bộ quá trình tố tụng nói chung và trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ là các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng.
Theo đó, bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, cơ quan điều tra “lập ra hồ sơ vụ án hình sự” (Điều 35 Bộ luật TTHS năm 2003); khi kết thúc điều tra thì hồ sơ đó được chuyển sang Viện kiểm sát để quyết định truy tố (nếu phát hiện tội phạm và người phạm tội); từ khi có quyết định truy tố của Viện kiểm sát thì hồ sơ đó được chuyển đến Tòa án để xét xử. Và vì mục đích đi tìm sự thật khách quan của vụ án nên việc xét xử ở Tòa án cũng là sự tiếp tục điều tra!
Như vậy, hồ sơ là căn cứ duy nhất và hợp pháp để xét xử.
Các chứng cứ cũng hoàn toàn thuộc về quyền chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng, bởi theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 thì “chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án” (Điều 64). Trong toàn bộ quá trình của vụ án, các cơ quan nói trên và chỉ các cơ quan đó mà thôi mới có quyền thu thập chứng cứ thông qua thẩm quyền triệu tập những người biết về vụ án và nghe họ trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án (Điều 65). Các vật chứng phải được đưa vào hồ sơ vụ án hoặc chụp ảnh, ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong khi đó, từ phía khác, người bào chữa chỉ được quyền thu thập các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án và chúng chỉ có thể là chứng cứ khi được nộp cho các cơ quan tiến hành tố tụng và được các cơ quan này chứng nhận, đưa vào hồ sơ. Hơn thế nữa, mặc dù được quyền “đọc, ghi chép, sao chụp các tài liệu trong hồ sơ vụ án”, nhưng đấy phải chỉ là những tài liệu liên quan đến việc bào chữa mà không phải là toàn bộ những tài liệu của vụ án. Bị can, bị cáo, người bào chữa được xác định là những người “tham gia” tố tụng!
Vì vậy, việc làm cần thiết hiện nay là xem xét lại quy định hiện hành về việc công nhận giá trị chứng minh của chứng cứ theo hướng triệt để thực hiện nguyên tắc: mọi chứng cứ đều có giá trị ngang nhau, bất kể chúng được đưa vào hồ sơ “một cách chính thức” hay không? Bị can, bị cáo, người bào chữa được quyền tìm kiếm chứng cứ bằng bất cứ phương thức hợp pháp nào. Chứng cứ và chứng minh chỉ có giá trị sau khi được trình ra và lập luận tại phiên tòa. Điều đó có nghĩa là phải song song thừa nhận những chứng cứ có trong hồ sơ và ngoài hồ sơ vụ án. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa phải bảo đảm sự bình đẳng của các bên và khả năng của các bên trong việc trình bày quan điểm, chứng cứ của mình. Như vậy, mô hình mới cho TTHS Việt Nam là mô hình kế thừa những yếu tố hợp lý của TTHS hiện nay, kiên quyết loại bỏ những yếu tố phản ánh quan hệ tố tụng thiếu bình đẳng giữa các chủ thể tố tụng, tiếp thu những yếu tố dân chủ phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mô hình đó cần phản ánh cho được những đặc trưng quan trọng nhất trong ba yếu tố: buộc tội – bào chữa – xét xử với ba nhóm chủ thể: cơ quan điều tra, công tố, người bị hại, nguyên đơn dân sự – bị can, bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự – Tòa án.
3. Quyền con người và các nguyên tắc cơ bản của nền tư pháp và của tố tụng hình sự Việt Nam
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đặt ra các cơ sở pháp lý cao nhất cho việc tiếp tục cải cách tư pháp. Lần đầu tiên ở Việt Nam, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được Hiến pháp xác định sát với chuẩn mực pháp lý quốc tế: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1 Điều 31, Hiến pháp năm 2013). Điều 31 vừa nêu trên cũng đã đề ra những yêu cầu có nội dung phù hợp với nguyên tắc xét xử công bằng và nguyên tắc thủ tục pháp lý chặt chẽ: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của Luật thì việc tuyên án phải được công khai”.
Khoản 3 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”. Khoản 4 của điều này quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Khoản 5 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự”.
Nội dung các quy định trên đây của Hiến pháp có một điểm chung và nhất quán là yêu cầu việc bảo đảm tôn trọng và bảo vệ có hiệu quả quyền con người trong các hoạt động TTHS.
Để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và tính pháp quyền của nền tư pháp và của TTHS Việt Nam cần lấy các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tòa án xét xử kịp thời, công khai đã được hiến định làm những nguyên tắc trụ cột. Nguyên tắc tranh tụng dẫn đến sự hình thành các bên trên cơ sở xác định vị trí của các lợi ích tố tụng, từ đó tạo nên sự bình đẳng của các bên trong vị trí tố tụng. Nguyên tắc suy đoán vô tội tạo ra bảo đảm cần thiết cho việc bảo vệ quyền con người, là lá chắn quan trọng để khắc phục tình trạng án oan, sai trong TTHS.
Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền công dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. Đây là nguyên tắc “kinh điển” nhất của TTHS được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (khoản 2, Điều 14). Đặc biệt bản Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc này là “phẩm giá của văn minh nhân loại”.
Nguyên tắc suy đoán vô tội có địa chỉ là người bị buộc tội và sự suy đoán được đặt theo hướng suy diễn về sự vô tội mà không phải là suy diễn về sự có tội. Nguyên tắc suy đoán có tội và nguyên tắc suy đoán vô tội đều là những nguyên tắc của TTHS. Nhưng nguyên tắc suy đoán có tội là nguyên tắc của Tố tụng thẩm vấn (inquisitorial), còn nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc điển hình của Tố tụng tranh tụng (adversarial). Nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc của một loại hình tố tụng lấy các giá trị công bằng, bình đẳng làm nền tảng; là lá chắn quan trọng và hữu hiệu cho việc tôn trọng bảo vệ và bảo đảm quyền con người trong TTHS.
Thực tiễn không chỉ của các hoạt động điều tra, truy tố mà cả của hoạt động xét xử của Tòa án cho thấy có một khuynh hướng nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã được coi là phạm tội, dù lỗi của họ chưa được chứng minh. Trong tâm lý học, khuynh hướng đó được gọi là khuynh hướng buộc tội, còn luật học thì gọi đó là “suy đoán có tội”. Đó chính là một trong những nguyên nhân của vấn đề án oan, sai hiện nay.
Từ nội dung và đòi hỏi cơ bản của Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc suy đoán vô tội đặt ra những đòi hỏi cụ thể hơn mà TTHS Việt Nam cần bảo đảm. Đó là:
a – Bị can, bị cáo phải được coi là vô tội cho tới khi lỗi của bị can, bị cáo đó được chứng minh. Nói khác đi, đây là nguyên tắc “lỗi không được chứng minh, đồng nghĩa với sự vô tội được chứng minh”. Yêu cầu này đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho người bị buộc tội trong toàn bộ quá trình TTHS. Yêu cầu đặt ra trong nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị. Theo đó, mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật (Điều 14.2).
b – Việc truy tố và xét xử một người phải được tiến hành theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung này nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện. Công ước của Liên hợp quốc khẳng định: “Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định” (Điều 9.1).
c – Phải bảo đảm xác định và xem xét các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ.
d – Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về người buộc tội.
đ – Bị can, bị cáo không có trách nhiệm chứng minh sự vô tội của mình. Các cơ quan tiến hành tố tụng không được bắt buộc bị can, bị cáo thực hiện trách nhiệm đó dưới bất kỳ hình thức nào. Trách nhiệm chứng minh phải thuộc về và chỉ thuộc về cơ quan buộc tội, người buộc tội.
e – Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình thức trái pháp luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ và thực hiện các hoạt động tố tụng khác.
g – Bản án phải dựa trên các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, không một chứng cứ nào có giá trị tiên quyết. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác nêu ra nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
h – Bị can, bị cáo có quyền không trả lời các câu hỏi của cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan và người buộc tội.
i – Mọi hoài nghi về lỗi của bị can, bị cáo cần được giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Điều này thường xảy ra trong thực tiễn của các cơ quan tố tụng, khi có sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ của trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến lỗi của bị can, bị cáo mà cả quá trình tố tụng và các nỗ lực của cơ quan tố tụng đã không thể làm rõ, dẫn đến hoài nghi, có mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính các cơ quan đó không thể khắc phục được. Những hoài nghi đó nhất thiết phải được giải quyết theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Đây là một nội dung quan trọng và trọng tâm của nguyên tắc suy đoán vô tội, phản ánh bản chất nhân đạo của TTHS dân chủ và pháp quyền.
Cùng với việc xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Có thể thấy đây là những điểm mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam, khẳng định những nguyên tắc của một nền tư pháp hiện đại như nguyên tắc hai cấp xét xử mà thực chất là một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem xét lại bản án; nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Đây là những nguyên tắc phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người dân. Từ góc độ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã làm đậm nét tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta.
CHÚ THÍCH
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 251./.
Tác giả: GS.TSKH. Đào Trí Úc – Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương Đảng.
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2015 (88) – 2015, Trang 03-09
Like Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời