• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 2013

Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 2013

17/05/2020 23/05/2021 GS.TSKH. Đào Trí Úc Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Xác định quyền tư pháp, hoạt động tư pháp và cơ quan tư pháp
    • 1.1 Về quyền tư pháp
    • 1.2 Phạm vi của quyền tư pháp
    • 1.3 Tính chất đặc trưng của quyền tư pháp
    • 1.4 Hệ thống tư pháp
  • 2. Về vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp và vai trò trọng tâm của hoạt động xét xử trong hoạt động tư pháp
  • CHÚ THÍCH

Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 2013: Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã có sự ghi nhận cụ thể và dứt khoát hơn trước đây về quyền tư pháp. Theo đó, quyền tư pháp chính là quyền xét xử và chủ thể của quyền tư pháp chính là các Tòa án…

Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 2013

 

  • Khái niệm và sự cần thiết kiểm soát của tư pháp đối với quyền hành pháp – ThS. Lê Thị Thu Thảo
  • [SO SÁNH] Hoạt động quản lý hành chính nhà nước với hoạt động lập pháp và hoạt động tư pháp – CTV Xóm Luật
  • Vai trò của Tòa án trong việc xem xét Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ – TS. Cao Vũ Minh
  • Bàn về mối quan hệ giữa Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội theo pháp luật hiện hành – ThS. Trần Thị Thu Hà
  • Một niềm tin, bốn triển vọng và năm thách thức trong tiến trình thừa nhận quyền giải thích pháp luật của Tòa án – TS. Cao Vũ Minh
  • Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với việc sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân – ThS Mai Thị Lâm
  • Chức năng bảo hiến của Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp 2013 – PGS.TS. Trần Văn Độ
  • Hiến pháp 2013 và định hướng sửa đổi Luật Tổ chức TAND và VKSND – TS. Phan Nhật Thanh
  • Kiểm soát quyền lực và chống tham nhũng – TS.Đỗ Minh Khôi
  • Án lệ trong tình hình mới – nhìn lại định hướng phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao – ThS. Châu Hoàng Thân

TỪ KHÓA: Hiến pháp 2013, Quyền tư pháp,

TÓM TẮT

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã có sự ghi nhận cụ thể và dứt khoát hơn trước đây về quyền tư pháp. Theo đó, quyền tư pháp chính là quyền xét xử và chủ thể của quyền tư pháp chính là các Tòa án; “bảo vệ công lý” là nhiệm vụ của Tòa án; Tòa án là hiện thân cho công lý và cùng với các chủ thể tham gia thực hiện quyền tư pháp khác có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Phạm vi triển khai quyền xét xử trải rộng từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi thi hành xong bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Chỉ trong tố tụng tranh tụng mới có thể nói đến vai trò trung tâm của Tòa án và ngược lại, chỉ có thể nói đến vị trí, vai trò trung tâm của xét xử khi đã xác lập đầy đủ các yếu tố của tranh tụng.

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980 và 1992)
  • Giám sát quyền lực nhà nước dưới triều đại Hậu Lê và những bài học cho việc xây dựng hệ thống giám sát quyền lực hiện nay
  • Nguyên tắc Chủ quyền nhân dân (Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân) trong tổ chức bộ máy nhà nước
  • Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước theo Hiến pháp 2013
  • Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước trong bộ máy nhà nước
  • Chế định Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp 2013
  • Vị trí, vai trò của chế định Chủ tịch nước trong các bản Hiến pháp của Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)
  • Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương tại Việt Nam: Tiếp cận dưới góc độ phân quyền
  • Chế định Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)
  • Bình luận về Quyền lập hiến và quy trình lập hiến theo Hiến pháp 2013

1. Xác định quyền tư pháp, hoạt động tư pháp và cơ quan tư pháp

Kể từ khi hình thành và được hiến định, nguyên tắc về sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vẫn chỉ dừng lại trong phạm vi của một công thức tổng quát nhưng chưa được cụ thể hóa trên bình diện về chủ thể, phạm vi, nội dung và tính chất của các quyền đó. Hiến pháp năm 2013 đã đặt cơ sở ở tầm hiến định cho việc xác định và xác lập những điều nêu trên.

1.1 Về quyền tư pháp

Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân(TAND) là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, ở tầm hiến định đã có sự ghi nhận cụ thể và dứt khoát hơn trước đây về quyền tư pháp. Theo đó, quyền tư pháp chính là quyền xét xử và chủ thể của quyền tư pháp chính là các Tòa án.

1.2 Phạm vi của quyền tư pháp

Quyền tư pháp không đồng nghĩa với phạm vi của quyền tư pháp và những chủ thể hoạt động trong phạm vi đó. Ở Việt Nam, các chủ thể hoạt động trong phạm vi của quyền tư pháp gồm Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND), Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án.

Một điểm nổi bật đáng chú ý của Hiến pháp năm 2013 là đã xác định “bảo vệ công lý” là nhiệm vụ của Tòa án; những nhiệm vụ như bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là nhiệm vụ của cả TAND và của VKSND (khoản 3 Điều 102 và khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013).

Cũng cần phải nói thêm rằng, cũng như các thiết chế tương tự ở các nước trên thế giới, thiết chế VKSND ở nước ta có tính chất lưỡng tính: vừa là một thiết chế có chức năng giám sát quyền lực, vừa là cơ quan bảo vệ pháp luật nhưng những hoạt động và chức năng công tố của nó chủ yếu được triển khai trong phạm vi thực hiện quyền tư pháp, điển hình nhất là tư pháp hình sự. Bởi vì, các hoạt động trinh sát, điều tra là kết quả để xác định truy tố hay không truy tố người bị buộc tội trước Tòa án; sự buộc tội của Viện Kiểm sát cũng diễn ra theo những quy tắc của thủ tục tố tụng tư pháp. Do vậy, cùng với Tòa án, chủ thể của quyền tư pháp, VKSND cũng có thể được xác định là chủ thể tham gia thực hiệnquyền tư pháp.

Khẳng định chức năng xét xử chỉ thuộc về Tòa án, Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền xét xử không có nghĩa rằng, xét xử là chức năng duy nhất của Tòa án. Ngoài việc xét xử với tính cách là chức năng chủ đạo, Tòa án với vai trò là thiết chế độc lập, vô tư, khách quan, thường được giao các chức năng khác như: chức năng giám sát (giám đốc xét xử theo thủ tục tố tụng; giám sát hoạt động của các cơ quan trinh sát, điều tra liên quan đến việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế, tố tụng như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, v.v…; chức năng giải thích pháp luật; chứng thực các sự kiện pháp lý dân sự như quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, tuyên bố một người mất tích, đã chết; xác nhận tình trạng năng lực hành vi. Những chức năng này không phải là chức năng xét xử nhưng thường được giao cho Tòa án.

Quyền tư pháp là quyền xét xử, nhưng phạm vi triển khai quyền xét xửtrải rộng từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi thi hành xong bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án – cơ quan xét xử. Điều này có ý nghĩa định hướng rất quan trọng không chỉ đối với việc nhận thức chung về phạm vi “quyền tư pháp” mà còn có ý nghĩa đối với những vấn đề khác, như: vấn đề phạm vi và mức độ của nguyên tắc tranh tụng (chỉ tồn tại ở phiên tòa, khi xét xử trước Tòa án hay tranh tụng là yếu tố có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố?); vấn đề về tính chất của hoạt động thi hành án và quản lý thi hành án là những vấn đề đang gây tranh cãi hiện nay trong nhận thức và trong thực tiễn hoạt động của các thiết chế hữu quan.

Kinh nghiệm của nhiều nước cũng như thực tiễn ở nước ta cho thấy, để bảo đảm các nguyên tắc quan trọng của tố tụng hình sự, như: nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; nguyên tắc bình đẳng của các bên và tự do trình bày chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự thì yếu tố tranh tụng phải được bắt đầu ngay từ giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.

Hiệu quả và hiệu lực của hoạt động thi hành án cũng phụ thuộc vào sự liên hệ không thể thiếu được của hoạt động đó với Tòa án và vai trò kiểm tra, theo dõi của Tòa án đã tuyên bản án có hiệu lực pháp luật đối với việc thi hành bản án đó. Đây chính là mối liên hệ cần thiết cần được xác lập đúng đắn trong quá trình cải cách hoạt động thi hành án và quản lý thi hành án ở nước ta.

Với những căn cứ như đã phân tích trên đây, cần phải khẳng định rằng, phạm vi của quyền tư pháp bao gồm từ hoạt động khởi tố, điều tra và kết thúc ở việc thi hành xong bản ánh hình sự.

1.3 Tính chất đặc trưng của quyền tư pháp

Với tính chất là một bộ phận quyền lực nhà nước, quyền tư pháp có những tính chất đặc trưng so với các quyền lập pháp và hành pháp như sau:

 Một là, tính độc lập của quyền tư pháp.

Trong số các đặc trưng phổ biến của tất cả các phiên bản khác nhau của Nhà nước pháp quyền thì sự độc lập của quyền tư pháp, của hoạt động xét xử, của Tòa án là đặc trưng không thể thiếu được. Sự độc lập của quyền tư pháp trước hết xuất phát từ cơ chế bảo đảm chống sự lạm quyền và vi phạm quyền con người trong các hoạt động hoạch định chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật. Quyền tư pháp độc lập là điều kiện để thực hiện một chức năng hết sức quan trọng của quyền lực nhà nước là áp dụng pháp luật đúng đắn với mục đích khôi phục lại những quyền và lợi ích đã bị xâm hại, bảo đảm sự công bằng trong các tranh chấp pháp lý. Quyền tư pháp mà chủ thể trung tâm của nó là Tòa án có vai trò duy trì và bảo đảm công lý, bảo đảm sự an toàn pháp lý, các quyền hiến định và hợp pháp của con người, của công dân. Hai chức năng cơ bản của Tòa án trong hệ thống quyền lực nhà nước là chức năng bảo vệ pháp luậtvà chức năng khôi phục các quyền đã bị xâm phạm. Không có sự độc lập của Tòa án thì sẽ không có công lý và không có được niềm tin của Nhân dân vào công lý. Đối với chúng ta, đó là niềm tin vào công lý XHCN và chế độ XHCN.

Sự độc lập của quyền tư pháp cần được hiểu trong ba phiên bản.

Ở phiên bản thứ nhất, đó là sự độc lập của một nhánh quyền lực trong mối liên hệ với hai nhánh quyền lực khác là quyền lập pháp và quyền tư pháp. Với tinh thần đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự thay đổi đáng chú ý. Theo đó, khoản 2 Điều 105 Hiến pháp năm 2013 đã không còn quy định Chánh án TAND địa phương chịu trách nhiệm trước HĐND như Điều 135 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).

Ở phiên bản thứ hai, sự độc lập của tư pháp được hiểu là sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm (khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013).

Ở phiên bản thứ ba, đó là sự độc lập của mỗi cấp xét xử theo thẩm quyền. Khác với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, các Tòa án, về mặt tổ chức, không hợp thành một hệ thống theo kiểu “ngành” từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Hệ thống các Tòa án bao gồm những cấp xét xử theo thẩm quyền tố tụng, khi xét xử, các Hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập trên cơ sở pháp luật và ý thức pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (hoặc Hội thẩm quân nhân). Ở Tòa án chỉ có quan hệ giữa Tòa “cấp cao hơn” và “cấp thấp hơn” về thẩm quyền tố tụng mà không có “Tòa cấp trên” và “Tòa cấp dưới”.

Hai là, quyền xét xử chỉ thuộc về Tòa án.

Điều này có nghĩa rằng, ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, ngoài các Tòa án được Hiến pháp và luật quy định không một thiết chế nhà nước nào khác có quyền xét xử, đặc biệt là quyền căn cứ vào pháp luật để phán quyết một người là có tội và xác định hình phạt đối với người đó.

Hoạt động xét xử còn được gọi là hoạt động tài phán (tiếng latinh: Jurisdictio). Các Tòa án cùng với hoạt động xét xử được gọi là tư pháp, theo tiếng latinh: “Justitia” có nghĩa là công lý. Như vậy, bản chất của tư pháp là công lý; những khái niệm “công lý” và “tòa án”, “tiếp cận công lý”, “tiếp cận tòa án” là đồng nghĩa với nhau. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam lần đầu tiên đã quy định: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý” (Khoản 3 Điều 102).

Sứ mệnh của TAND được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Có thể thấy đây là những điểm mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam, khẳng định những nguyên tắc của một nền tư pháp hiện đại như nguyên tắc hai cấp xét xử mà thực chất là một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem xét lại bản án; nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Đây là những nguyên tắc phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người dân. Từ góc độ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã làm đậm nét tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta.

Ba là, tính tuân theo pháp luật.

Hoạt động xét xử chỉ có thể thực hiện thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, trên cơ sở pháp luật, chỉ tuân theo pháp luật (khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013)

Ở các nước theo truyền thống Thông luật với vai trò nổi trội của án lệ thì luật của cơ quan lập pháp không phải là cơ sở áp dụng chung nhất của Hiến pháp. Và vì vậy, nếu nói tư pháp là nhánh quyền lực áp dụng pháp luật sẽ thiếu chính xác, ở đây có cả vai trò “kiến tạo luật” của các Tòa án và vì vậy, vai trò, vị trí của quyền tư pháp được đặt ở mức cao hơn so với các nước theo truyền thống luật châu Âu lục địa. Nếu như tại các nước châu Âu lục địa, hiệu lực của quyền tư pháp chỉ được thể hiện trong từng trường hợp cụ thể bởi pháp luật, do lập pháp đặt ra, vì chỉ có pháp luật thực định của Nhà nước mới có hiệu lực phổ biến, thì trong trường hợp các nước theo hệ thống thông luật với sự hiện diện nổi trội của án lệ, quyền tư pháp cũng mang tính phổ biến bởi án lệ có hiệu lực quy phạm bắt buộc và phổ biến như một đạo luật. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu trong quá trình triển khai thực hiện quan điểm của Chiến lược cải cách tư pháp về vai trò của TANDTC nước ta trong việc phát triển án lệ.

Bốn là, phán quyết của Tòa án(bản án, quyết định) có hiệu lực bắt buộc thi hành.

 Các bản án, quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật thì đồng thời có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (Điều 106 Hiến pháp năm 2013).

1.4 Hệ thống tư pháp

Hệ thống tư pháp là khái niệm bao gồm hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp, các cơ quan hoạt động trong phạm vi quyền tư pháp và hệ thống các thủ tục tư pháp.

Ở Việt Nam, nói đến hệ thống tư pháp trước hết là nói đến hệ thống tổ chức các cơ quanxét xử; các cơ quan thực hiện các hoạt động tư pháp khác như cơ quan điều tra, VKSND, cơ quan thi hành án.

Hệ thống các cơ quan xét xử là hệ thống TAND ở nước ta. Hệ thống TAND bao gồm: TANDTC và các Tòa án khác do luật định (Điều 102 Hiến pháp năm 2013) được tổ chức theo những nguyên tắc bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả những yêu cầu đặt ra đối với quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Nội dung những nguyên tắc đó xuất phát từ những yêu cầu hiến định về quyền của người bị buộc tội được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai, quyền bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (Điều 31 Hiến pháp năm 2013).

Chính vì vậy, hệ thống tổ chức các tòa án nhân dân cần được xác định trên cơ sở kết hợp đúng đắn, hài hòa nguyên tắc về lãnh thổ và nguyên tắc thẩm quyền xét xử mà mục đích trên hết là bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện quyền tiếp cận công lý của Nhân dân.

2. Về vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp và vai trò trọng tâm của hoạt động xét xử trong hoạt động tư pháp

Vị trí trung tâm của Tòa án bắt nguồn trước hết từ vai trò bảo vệ công lý, bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc về quyền và khả năng tiếp cận công lý được coi là một trong những nguyên tắc bản chất của quyền tư pháp.

Quyền tiếp cận công lý có một số nội dung chủ đạo.

Trước hết, đó là quyền được Tòa án xét xử và xét xử kịp thời, quyền bình đẳng trước pháp luật và Tòa án.

Tố tụng hình sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xuất phát từ nguyên lý về sự độc lập của Tư pháp, của Tòa án. Và vì vậy, sự bảo hộ của pháp luật trong Tố tụng hình sự đồng nghĩa với sự bảo vệ bởi Tòa án nhân danh pháp luật và công lý.

Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 xác định, trong quá trình tố tụng hình sự, bị cáo cần “phải được xét xử nếu không có lý do chính đáng để trì hoãn”, được sớm đưa ra Tòa án hoặc cơ quan pháp luật có thẩm quyền tiến hành tố tụng và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc trả tự do. “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trẽ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái pháp luật”.“Bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự hoặc xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong tố tụng dân sự”[1].

 Quyền của bị can, bị cáo được Tòa án xét xử còn có nghĩa là được có mặt trong khi xét xử, được bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về mặt pháp lý do mình lựa chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ về mặt pháp lý thì phải được thông báo về quyền này; trong trường do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu không có điều kiện trả; được giúp đỡ về phiên dịch không phải trả tiền, nếu người đó không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên tòa.

Yêu cầu về bảo đảm quyền được Tòa án xét xử còn bao hàm cả quyền được yêu cầu Tòa án cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt theo quy định của pháp luật. Không một ai bị đưa ra xét xử hoặc chịu hình phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà một bản án có hiệu lực pháp luật đã tuyên hoặc về tội phạm mà người đó được tuyên là không có tội.

Điểm mới nổi bật và rất đáng chú ý của Hiến pháp năm 2013 là đã hiến định những nội dung có tính nguyên tắc quan trọng này. Theo đó, lần đầu tiên Hiến pháp quy định “người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai” (khoản 2 Điều 31); “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”(khoản 6 Điều 103); “không ai bị kết án hai lần về một tội phạm” (khoản 3 Điều 31).

Nguyên tắc về quyền tiếp cận công lý đặt ra vấn đề về thời hạn hợp lý của một vụ án. Thực tế cho thấy rằng, rất khó có thể có quy định mặc định về thời hạn điều tra và xét xử một vụ án hình sự hoặc dân sự. Cho nên, ở vấn đề này chỉ có thể nói đến yêu cầu về một thời hạn hợp lý để không cho phép tình trạng kéo dài vô định một vụ án. Độ kéo dài được coi là “hợp lý” được căn cứ vào hai yếu tố chính: mức độ phức tạp của vụ án và mức độ thực thi trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Một trong những bảo đảm của yêu cầu về tiếp cận công lý là sự đa dạng hóa các thủ tục tố tụng tư pháp. Đây chính là lý do cho sự ra đời trong những năm gần đây các thủ tục tố tụng mới với những tên gọi như Tòa án gia đình, Tư pháp vị thành niên, Tư pháp phục hồi, vv; cũng như của sự hoàn thiện và tăng cường vai trò của các tổ chức “á tư pháp” như Trọng tài, Hòa giải; sự phát triển của các tổ chức và hình thức trợ giúp pháp lý.

Về mặt tố tụng hình sự, để bảo đảm thực hiện đúng chức năng duy trì công lý, Tòa án phải được thoát ra khỏi vai trò theo đuổi mục đích đi tìm sự thật khách quan của vụ án để rồi từ đó đóng luôn cả vai trò của phía buộc tội. Việc Tòa án có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo những quy định như tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam là biểu hiện của việc vi phạm nguyên tắc quan trọng của tố tụng tranh tụng là: Một chủ thể tố tụng chỉ thực hiện một chức năng tố tụng. Tòa án trong tố tụng tranh tụng chỉ xét xử trong phạm vi và mức độ buộc tội theo nguyên lý “nemo judex sine actore” – sẽ không có xét xử nếu không có bên nguyên!

Để đóng được vai trò là khâu trung tâm, việc xét xử của Tòa án phải thực sự tạo ra tự do tranh luận, tự do trình bày quan điểm, chứng cứ của các bên: bên buộc tội cũng như bên bào chữa. Tòa án phải là chủ thể trung tâm của hoạt động xét xử theo nghĩa tạo mọi điều kiện cho những hoạt động tố tụng nói trên. Yếu tố “vô tư”, “khách quan” chính là chỗ đó chứ không chỉ dừng lại ở đòi hỏi về sự “vô tư”, “khách quan” của cá nhân các Thẩm phán, Hội thẩm khi xem xét chứng cứ, lời khai, khi quyết định về định tội và hình phạt.

Như vậy, chỉ trong tố tụng hình sự tranh tụng mới có thể nói đến vai trò trung tâm của Tòa án, nói đúng hơn, đó là vai trò trung tâm của xét xử và ngược lại, chỉ có thể nói đến vị trí, vai trò trung tâm của xét xử khi đã xác lập đầy đủ các yếu tố của tranh tụng. Các yếu tố đó có thể được tổng hợp lại như sau:

a) Tố tụng hình sự phải lấy việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên liên quan làm mục tiêu của mình trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng.

b) Trong tố tụng hình sự, hình thành rõ hai bên – bên buộc tội và bên gỡ tội (bào chữa) và ba chức năng: chức năng công tố, chức năng bào chữa, chức năng xét xử.

c) Mỗi bên đều có toàn quyền tự định đoạt việc sử dụng các khả năng pháp luật cho phép để bảo vệ lợi ích tố tụng của mình, bao gồm cả việc tham khảo ý kiến của đối phương để quyết định về kết cục của vụ án.

d) Cả hai bên đều có quyền ngang nhau thực hiện tự do trình bày chứng cứ và chứng minh vụ việc, không một chứng cứ nào có giá trị tiên quyết trong quá trình chứng minh.

e) Tòa án có vai trò điều hành, kiểm soát quá trình tranh luận nhằm tạo điều kiện để các bên thực hiện được chức năng tố tụng, bảo vệ được quan điểm và thực hiện quyền tự định đoạt việc sử dụng các khả năng tố tụng và tự do trong chứng minh. Triệt để thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội.

Xét theo những tố chất trên đây của tố tụng hình sự tranh tụng, có thể thấy rõ sự chuẩn xác của Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta khi Chiến lược đã đồng thời nhằm vào cả hai yếu tố: thực hiện tranh tụng, bảo đảm vị trí trung tâm của Tòa án và của hoạt động xét xử. Hai yếu tố này là sự kết hợp thống nhất, mỗi yếu tố vừa là điều kiện, vừa là hệ quả tất yếu của yếu tố khác: Không thể tạo ra được vai trò trung tâm của Tòa án nếu không có tố tụng tranh tụng và không thể có tranh tụng, nếu Tòa án không được yêu cầu bảo đảm để trở thành chủ thể duy trì vị trí pháp lý bình đẳng của các bên, bảo đảm sự tôn trọng quyền, lợi ích và quyền tự do định đoạt của các bên tố tụng.

CHÚ THÍCH

[1] Các Điều 9.1, 9.2, 9.3 và 14.1 Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.

Tác giả: GS.TSKH. Đào Trí Úc – Khoa Luật  – Đại học Quốc gia Hà Nội

Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2014 (82)/2014 – 2014, Trang 11-16

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Nghị viện trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước
Nghị viện trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước
[CÓ ĐÁP ÁN] Đề cương ôn tập môn Luật Hiến pháp Việt Nam có đáp án
[CÓ ĐÁP ÁN] Đề cương ôn tập môn Luật Hiến pháp Việt Nam
Chế định Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp 2013
Chế định Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp 2013
Chế định Hội đồng bầu cử quốc gia trong Hiến pháp 2013
Chế định Hội đồng bầu cử quốc gia trong Hiến pháp 2013
Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 2013
Các nguyên tắc hiến định về hoạt động của Tòa án nhân dân
Các nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp 2013 về hoạt động của Tòa án nhân dân

Chuyên mục: Hiến pháp/ Hiến pháp Việt Nam Từ khóa: Hiến pháp 2013/ Quyền lực nhà nước/ Quyền tư pháp/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2014

Previous Post: « Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Haiyang Shiyou 981 tại vùng biển của Việt Nam và những vấn đề pháp luật quốc tế
Next Post: Một số ý kiến về hoạt động ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng