Mục lục
Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước theo Hiến pháp 2013
Tác giả: Phạm Quý Tỵ
1. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội
Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu sự giám sát của Quốc hội. Chủ tịch nước có thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Việc công bố Hiến pháp, luật của Chủ tịch nước chỉ mang tính thủ tục về mặt hành chính nhà nước chứ không có ý nghĩa xác lập giá trị hiệu lực pháp lí của văn bản luật. Đối với pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội chuyển cho Chủ tịch nước công bố nếu Chủ tịch nước không đồng ý với nội dung của pháp lệnh, thì có quyền không công bố và đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại. Trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội vẫn biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất. Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Trong mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, cho thấy tính phái sinh và gắn bó giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng nhà nước nằm trong Quốc hội là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1959, 1992 và 2013 quy định chế định Chủ tịch nước được tách thành thiết chế riêng, song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, phối hợp chặt chẽ với Quốc hội. Điều này phù hợp với chính thể xã hội chủ nghĩa, trong đó chức năng đứng đầu nhà nước thuộc về cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đó là Quốc hội.
Xem thêm bài viết về “Chủ tịch nước”
- Vị trí, vai trò của chế định Chủ tịch nước trong các bản Hiến pháp – TS. Phạm Quý Tỵ
- Đánh giá chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013 – TS. Đỗ Minh Khôi
- Chế định Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – LS. Hoàng Minh Hùng
2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ
Trong mối quan hệ với Chính phủ, theo Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ, đến Hiến pháp năm 1959, 1992 và 2013 Chủ tịch nước không phải là người đứng đầu Chính phủ nhưng có vai trò quan trọng trong việc thành lập Chính phủ. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ. Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm báo cáo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Chủ tịch nước. Điều 94 Hiến pháp quy định: “Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Khoản 2 Điều 95 Hiến pháp quy định: Thủ tướng Chính phủ “báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Chính phủ báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước là thực hiện trách nhiệm giải trình. Thông qua xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lí, điều hành của Chính phủ.
Về thẩm quyền của Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, Hiến pháp năm 1992 quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ, nhưng rất ít khi Chủ tịch nước tham gia, vì các phiên họp của Chính phủ đều bàn về những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Trong khi đó những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước cần yêu cầu Chính phủ họp bàn để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thì Chủ tịch nước lại không có quyền. Do vậy, để khắc phục hạn chế của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thẩm quyền mới, đó là “Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”! Quy định này đã đề cao vai trò của nguyên thủ quốc gia trong việc phối hợp, điều hòa việc thực hiện quyền lực nhà nước, mặt khác còn thể hiện tính chủ động hơn của người đứng đầu nhà nước đối với hoạt động của cơ quan hành pháp.
Xem thêm bài viết về “”
- Phân loại cơ quan nhà nước. Cho ví dụ? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- [SO SÁNH] Phân biệt Cơ quan nhà nước với cơ quan của tổ chức khác – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Phân tích khái niệm và đặc điểm của Cơ quan nhà nước – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Hệ thống các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – CTV. Linh Trang
- Cơ quan hành chính nhà nước là gì? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
3. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
Chủ tịch nước đóng vai trò quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thẩm phán các tòa án khác; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, sau đó Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhằm thể chế hóa yêu cầu cải cách tư pháp trong các nghị quyết của Đảng về “Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”. Ngoài ra, quy định Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sau đó Chủ tịch nước mới bổ nhiệm là để đề cao vai trò thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao, cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới 13 người và không quá 17 người; gồm Chánh án, các Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”.
Đối với thẩm phán các tòa án khác, Hiến pháp năm 2013 giao cho Chủ tịch nước có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán các tòa án khác nhằm khắc phục hạn chế của Hiến pháp năm 1992 quy định Chủ tịch nước chỉ có thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, còn thẩm phán các tòa địa phương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Việc quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán tòa án cấp tỉnh và cấp huyện đã không bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của các thẩm phán. Do vậy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định thẩm quyền Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp, nhằm góp phần tăng tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Mặt khác, quy định này cũng thể hiện rõ hơn mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với cơ quan tư pháp, góp phần quan trọng bảo đảm cho Tòa án nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân./.
Xem thêm bài viết về “Hiến pháp 2013”
- Vị trí, vai trò của chế định Chủ tịch nước trong các bản Hiến pháp của Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – TS. Phạm Quý Tỵ
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính sách quốc phòng và an ninh quốc gia theo Hiến pháp 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Chính sách môi trường là gì? Chính sách môi trường trong Hiến pháp 2013? – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Chính sách khoa học và công nghệ trong Hiến pháp 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời