Mục lục
Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với việc sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND)
- Chức năng bảo hiến của Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 2013
- Hiến pháp năm 2013 và định hướng sửa đổi Luật Tổ chức TAND và Luật Tổ chức VKSND
- Hiến pháp năm 2013 và hoàn thiện nguyên tắc tố tụng hình sự
- Hoàn thiện một số vấn đề pháp lý nhằm bảo đảm thi hành hiệu quả các quy định về Thủ tướng Chính Phủ trong Hiến pháp năm 2013
- Xây dựng “Luật Tổ chức chính quyền địa phương” theo định hướng đổi mới của Hiến pháp năm 2013
TÓM TẮT
Bài viết này trình bày 3 vấn đề cần sửa đổi, bổ sung liên quan đến hậu quả vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực đã có nhiều sửa đổi quan trọng về tất cả các chế định so với Hiến pháp năm 1992. Với tư tưởng cải cách một bước về tổ chức và hoạt động các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhiều chế định về các cơ quan quan trọng đã có sự thay đổi đáng kể. Trong số đó không thể không nhắc đến chế định Tòa án nhân dân. Bài viết này tập trung phân tích về chế định Tòa án nhân dân trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp với việc xây dựng dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Nội dung chính của bài viết phân tích những sửa đổi quan trọng của chế định Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013, từ đó đưa ra những kết luận về việc xây dựng các quy định nội dung dự thảo Tòa án nhân dân (sửa đổi) theo hướng phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
TỪ KHÓA: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án, Tạp chí Khoa học pháp lý
1. Dẫn nhập
Hiến pháp hiện hành được thông qua vào ngày 28/11/2013 với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng so với Hiến pháp năm 1992. Những sửa đổi này đã ảnh hưởng đến hầu hết các luật về tổ chức các cơ quan nhà nước hiện hành (Luật tổ chức Quốc hội 2001, Luật tổ chức Chính phủ 2001, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002). Do đó, Đảng đã xác định việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 là nhiệm vụ chính trị vô cùng quan trọng của Nhà nước và xã hội trong giai đoạn hiện nay nhằm nhanh chóng thiết lập quy chế pháp lý ổn định và vững chắc, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước vận hành một cách có hiệu quả.
So với Hiến pháp năm 1992, chế định Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013 đã có bước “chuyển mình” quan trọng làm thay đổi cơ bản cả về bản chất và cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân. Sự thay đổi trong các quy định của Hiến pháp năm 2013 khiến Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 không còn phù hợp. Điều đó đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 cho phù hợp với quy định của Hiến pháp hiện hành. Bài viết này nhằm mục đích làm rõ những nội dung mới được sửa đổi về chế định Tòa án nhân dân của Hiến pháp năm 2013, đồng thời đưa ra những định hướng cụ thể nhằm triển khai thi hành chế định này trong bối cảnh xây dựng, ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi.
2. Những điểm mới của chế định Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013
Chương“Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân” gồm 8 điều, từ Điều 102 đến Điều 109. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có một số điểm mới cơ bản như sau:
Thứ nhất, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Hiến pháp năm 2013 xác định rõ Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Đây là điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Bổ sung nội dung này nhằm thể chế hóa quan điểm về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 1946 cũng đã quy định: các cơ quan tư pháp (thực hiện quyền tư pháp) chỉ bao gồm tòa án các cấp (Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và các tòa án sơ cấp), nhưng các bản Hiến pháp sau này (từ Hiến pháp năm 1959, 1980 đến Hiến pháp năm 1992, khi hệ thống Viện kiểm sát được thiết lập) đã không quy định rõ cơ quan nào thực hiện quyền tư pháp. Trong quá trình xây dựng Dự thảo Hiến pháp, còn có ý kiến cho rằng nên quy định cả Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Tư duy này xuất phát từ cách quy định không rõ của các bản Hiến pháp như đã nêu. Tuy nhiên Hiến pháp chỉ quy định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền này bởi vì trong Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp về mặt bản chất là quyền xét xử[1].
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ hơn một số nguyên tắc tố tụng mang tính hiến định
– Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định“Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận nguyên tắc này. Việc đảm bảo chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm có ý nghĩa quan trọng, vừa bảo đảm cho Tòa án nhân dân xét xử đúng vừa bảo đảm cho bị cáo, đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Các bản án, quyết định sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để Tòa án cấp trên xét xử lại; loại bỏ thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm theo đúng quy định của pháp luật thì phải được xét xử phúc thẩm. Chế độ xét xử hai cấp có ý nghĩa góp phần đảm bảo việc xét xử công minh, tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Đây tuy không phải là nguyên tắc mới được thực hiện ở Việt Nam nhưng mới chính thức được hiến định trong Hiến pháp năm 2013.
– Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Đây là nguyên tắc quan trọng có tính đặc thù của hoạt động xét xử trong nền tư pháp đương đại lần đầu tiên được Hiến pháp năm 2013 quy định trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng tại NQ49/2005 về chiến lược cải cách tư pháp, trong đó khẳng định việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại tòa án, coi đây là khâu đột phá của quá trình xét xử[2].
Tranh tụng trong xét xử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xét xử, bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, bảo đảm sự công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Việc tranh tụng được thực hiện không chỉ tại phiên tòa mà trong suốt quá trình xét xử vụ án. Tuy nhiên, việc tranh tụng tại phiên tòa là quan trọng nhất. Nội dung tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện cả trong giai đoạn bắt đầu, trong xét hỏi và trong tranh luận. Tranh tụng tại phiên tòa là hình thức tố tụng mà trong đó Tòa án xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tốt tụng để đưa ra phán quyết giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đúng đắn vì luôn có sự tham gia của các chủ thể có quyền, lợi ích đối nghịch nhau trong quá trình tố tụng. Việc tranh tụng cho phép các bên đưa ra các minh chứng, lập luận nhằm bảo vệ quan điểm của mình. Điều này giúp cho Hội đồng xét xử có cái nhìn toàn diện hơn đối với nội dung vụ việc nhằm đưa ra phán quyết khách quan, công bằng. Nguyên tắc tranh tụng nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, từ đó tăng cường tính minh bạch, công khai, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 có những quy định làm thay đổi cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành
Hiến pháp năm 2013 có những quy định làm thay đổi cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành bằng quy định: Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định; Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định (khoản 2 Điều 102 và khoản 2 Điều 107). Quy định này có ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án[3]. Điều này nhằm phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp về tổ chức Tòa án hạn chế sự phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Theo đó, hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực; Tòa án quân sự trung ương; Tòa án quân sự quân khu hoặc tương đương; Tòa án quân sự sơ thẩm khu vực[4].
Về mô hình tổ chức của Tòa án hiện nay cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Dựa vào mô hình tổ chức Tòa nhân dân theo dự thảo sửa đổi luật tổ chức Tòa án mới nhất (lần 5) có thể thấy chúng ta vẫn chưa hoàn toàn đoạn tuyệt mô hình tổ chức Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ (trong cơ cấu vẫn còn giữ lại Tòa án nhân dân cấp tỉnh). Tuy nhiên điều này không trái với quy định của Hiến pháp. Trên thực tế quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013 theo hướng mở hơn so với Hiến pháp năm 1992. Nếu Hiến pháp năm 1992 quy định hệ thống tòa án nhân dân bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định được xem là khá chi tiết thì Hiến pháp năm 2013 lại quy định mang tầm khái quát cao hơn, còn lại để luật quy định. Dựa vào Điều 102 Hiến pháp hiện hành có thể hiểu rằng hệ thống Tòa án nước ta có thể được tổ chức theo hai mô hình khác nhau: Mô hình thẩm quyền xét xử hoặc hành chính lãnh thổ hoặc có thể kết hợp cả hai mô hình này với nhau. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 và dự thảo luật tổ chức Tòa án (lần 5) không mâu thuẫn nhau và không trái với quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp từ NQ 49/2005 và Kết luận 79/2010 của Bộ chính trị về đề án đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra.
Thứ tư, về thẩm quyền bổ nhiệm chức danh Thẩm phán đã có sự thay đổi đáng kể so với Hiến pháp năm 1992
Cụ thể, theo Hiến pháp năm 1992 thì Quốc hội bầu ra Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ bổ nhiệm toàn bộ các Thẩm phán còn lại trong ngành Tòa án. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi bằng việc thay đổi thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán của các Tòa thuộc về Chủ tịch nước[5]dựa trên nguyên lý tăng cường quyền lực cho Chủ tịch nước và tạo sự độc lập tương đối giữa Thẩm phán với Chánh án.
3. Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và vấn đề xây dựng dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
Từ những sửa đổi quan trọng có ý nghĩa làm thay đổi tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân hiện hành, theo chúng tôi để phù hợp với nội dung sửa đổi mới của Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, dự thảo Luật tổ chức tòa án nhân dân (sửa đổi) cần phải được xây dựng theo những hướng đổi mới sau đây:
Thứ nhất, Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) cần phải chính thức ghi nhận lại chức năng thực hiện quyền tư pháp và phải có định nghĩa rõ ràng về nội hàm quyền tư pháp của Tòa án.
Việc Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên thừa nhận “quyền tư pháp thuộc về Tòa án” là một dấu án quan trọng đối với hệ thống Tòa án. Nhưng sự ghi nhận đó sẽ phần nào giảm đi ý nghĩa nếu Luật tổ chức Tòa án nhân dân không ghi nhận lại và làm rõ hơn khái niệm cũng như nội hàm quyền tư pháp do Tòa án đảm nhận sẽ bao hàm những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể gì. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, tới thời điểm này bản Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân vẫn chỉ ghi nhận lại một cách nguyên văn quy định của Hiến pháp mà không hề triển khai thêm bất kỳ nội dung nào nhằm làm rõ quyền tư pháp của Tòa án. Nếu không quy định tại văn bản này thì không còn cơ hội nào tốt hơn để thực hiện. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Dự thảo luật tổ chức Tòa án nhân dân cần phải quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn bằng sự khẳng định ở một điều luật riêng và phải có điều khoản về giải thích từ ngữ quyền tư pháp là gì.
Thứ hai, Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) cần phải có quy định đổi mới về tổ chức Tòa án nhân dân.
Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành thì Tòa án nhân dân được thành lập theo đơn vị hành chính lãnh thổ (nghĩa là tất cả các tỉnh, huyện đều được thành lập tòa án mà không phân biệt nông thôn, đô thị hay miền núi). Điều này dẫn đến hiện trạng, một số địa phương tập trung dân cư đông đúc, đời sống kinh tế xã hội phát triển thì số lượng vụ việc được đưa ra tòa giải quyết khá lớn. Ngược lại, một số huyện miền núi, nông thôn, vùng sâu vùng xa thì hầu như không giải quyết vụ việc nào. Thực trạng trên làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống tòa và tạo nên sự lãng phí không cần thiết khi phải chi trả nguồn ngân sách để xây dựng trụ sở và trả lương cho các công chức ngành tòa án tại các địa phương vùng sâu vùng xa, miền núi hay nông thôn mặc dù số lượng các vụ án giải quyết trong năm chỉ “đếm trên đầu ngón tay”. Do đó, dự thảo Luật tổ chức tòa án (sửa đổi) cần phải quy định tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính lãnh thổ nhằm phát huy hiệu quả làm việc tối đa của ngành tòa án. Với định hướng này, dự thảo Luật tổ chức Tòa án đã quy định tổ chức các Tòa án sơ thẩm khu vực ở một số đơn vị hành chính cấp huyện (được tính toán theo dân số và tốc độ phát triển kinh tế xã hội, có thể gom 2,3 huyện thành lập một Tòa sơ thẩm khu vực) thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án trên phạm vi địa bàn. Tòa án nhân dân cấp tỉnh được thành lập để xét xử phúc thẩm bản án sơ thẩm của Tòa sơ thẩm khu vực chưa có hiệu lực pháp luật và xét xử sơ thẩm các vụ án có tính chất phức tạp, nghiêm trọng hoặc liên quan đến nhiều đơn vị địa giới hành chính với nhau. Tòa án cấp cao xét xử phúc thẩm các vụ án sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và giám đốc thẩm vụ án của tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật khi có kháng cáo, kháng nghị về việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tòa án nhân dân tối cao xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án đã có hiệu lực của tòa án nhân dân cấp dưới và tổng kết kinh nghiệm xét xử theo từng giai đoạn. Theo chúng tôi, quy định như vậy là phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết 49-NQ/TW.
Thứ ba, Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) cần phải dành điều khoản riêng để quy định các vấn đề về án lệ
Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) cần phải dành điều khoản riêng để quy định các vấn đề về án lệ như: giải thích thuật ngữ, nguyên tắc áp dụng, thẩm quyền áp dụng, căn cứ áp dụng án lệ… Đây là thời điểm thích hợp để đưa án lệ vào thực tiễn xét xử của ngành tòa án theo đúng tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết 49-NQ/TW “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Trước thực trạng quy định của pháp luật chưa hoàn thiện, còn chồng chéo, mâu thuẫn ở nhiều văn bản hoặc có “lỗ hổng” (bởi nhà làm luật dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nào dự trù hết được tất cả các quan hệ có thể phát sinh trên thực tế) khiến cho việc giải quyết các vụ án gặp nhiều khó khăn,nếu chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành thì đôi khi không thể giải quyết được vụ án. Tuy nhiên, khi có khởi kiện của dân, Thẩm phán không thể không giải quyết. Do đó, cần thiết phải áp dụng án lệ như là giải pháp nhằm “lấp lỗ hổng” của pháp luật. Hiện nay, dự thảo Luật tổ chức tòa án có nhắc đến án lệ[6]ở khía cạnh quy định về thẩm quyền làm án lệ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. Thế nhưng tại Điều 5 Dự thảo Luật về Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án lại bỏ đi nguyên tắc áp dụng án lệ. Do vậy, thật khó có thể khẳng định tòa án có trách nhiệm áp dụng án lệ trong quá trình xét xử không hay chỉ khuyến khích áp dụng? Chúng tôi cho rằng, cần phải xây dựng nội dung dự luật theo hướng áp dụng án lệ là trách nhiệm của hội đồng xét xử khi đủ căn cứ áp dụng bởi tính chất quan trọng của án lệ như đã phân tích ở trên.
Đi đôi với việc xây dựng các quy định về án lệ thì cũng cần phải xây dựng các thiết chế có liên quan, ảnh hưởng đến việc hình thành và áp dụng án lệ như: đào tạo đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp, có trình độ cao và xây dựng cơ chế giúp tăng cường tính độc lập của Thẩm phán. Chỉ có như vậy mới tạo ra được những án lệ “chuẩn mực” làm tiền đề cho những lần áp dụng sau này của các Thẩm phán trong quá trình giải quyết các vụ án trên địa bàn của mình.
Thứ tư, Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) cần phải quy định thêm một sổ nguyên tắc mới trong tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Cụ thể, cần phải quy định bổ sung nguyên tắc “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo” và “tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Không chỉ ghi nhận một cách đơn thuần các nguyên tắc này mà Dự thảo cần phải thể hiện nó trong các quy định cụ thể về hoạt động xét xử của Tòa án. Ở nội dung này, theo chúng tôi Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã thể hiện đầy đủ.
Thứ năm, Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) cần đổi mới các quy định về chế định Thẩm phán.
Cụ thể:
Một là, cần phải quy định chi tiết điều kiện, quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm Thẩm phán. Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành thì thẩm quyền bổ nhiệm tất cả các Thẩm phán thuộc ngành Tòa án đều thuộc về Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nhưng chiếu theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì thẩm quyền này đã bị thay đổi, thuộc về chủ tịch nước. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 chỉ dừng lại ở việc quy định thẩm quyền bổ nhiệm thuộc về chủ tịch nước mà không quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn như thế nào hay quy trình cần được tiến hành ra sao. Do vậy, Luật tổ chức Tòa án sửa đổi tới đây cần phải quy định thật cụ thể, chi tiết về các điều kiện, quy trình bổ nhiệm Thẩm phán. Có thể xây dựng theo phương án: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giới thiệu danh sách Thẩm phán các tòa án (danh sách này được thành lập sau khi đã tổ chức các buổi họp lấy ý kiến tại Tòa án nhân dân ở địa phương và cơ quan, tổ chức hữu quan hoặc được xem xét thông qua một Hội đồng tuyển chọn các Thẩm phán) trình cho Chủ tịch nước xem xét bổ nhiệm. Điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán cần được xây dựng theo các tiêu chí có thể định lượng được như: trình độ học vấn, thâm niên kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, sức khỏe đảm bảo…
Hai là, cần quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán theo hướng đảm bảo tốt hơn tính độc lập của Thẩm phán. Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành thì nhiệm kỳ chung của Thẩm phán tòa án nhân dân ở tất cả các tòa án (kể cả Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) là 5 năm (trùng với nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và các chức danh quản lý cấp cao khác trong bộ máy nhà nước: Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ…). Tuy nhiên, nhiệm kỳ này chưa thực sự phù hợp với chức danh Thẩm phán được xem là một nghề đặc biệt. Với nhiệm kỳ này, các Thẩm phán sẽ không yên tâm thực thi tốt nhiệm vụ xét xử của mình và bị phụ thuộc vào chủ thể bên ngoài. Đành rằng Thẩm phán còn có thể được bổ nhiệm lại nhưng thủ tục bổ nhiệm lại cũng hết sức phức tạp và bị chi phối, ảnh hưởng bởi sự tín nhiệm của cá nhân có thẩm quyền từ đó chi phối đến hoạt động xét xử của Thẩm phán, khiến Thẩm phán khó lòng công tâm, độc lập trong xét xử, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử các vụ án. Đồng thời, khảo sát ở các quốc gia khác cho thấy, nhiều quốc gia quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán rất dài (ở Ý là 9 năm; ở Mỹ là suốt đời; ở Nhật là 10 năm; ở Panama là 18 năm). Do vậy, dự thảo Luật tổ chức Tòa án sửa đổi cần phải quy định lại nhiệm kỳ của Thẩm phán theo hướng kéo dài nhiệm kỳ. Theo chúng tôi, để phù hợp với tình hình Việt Nam hiện nay, nên quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là suốt đời, nhiệm kỳ của Thẩm phán các Tòa án nhân dân khác là 10 năm cho lần bổ nhiệm đầu tiên, nếu được bổ nhiệm lại thì nhiệm kỳ sẽ là suốt đời. Có như vậy, Thẩm phán mới yên tâm thực thi nhiệm vụ và độc lập trong xét xử, không bị chi phối bởi chủ thể có thẩm quyền bổ nhiệm.
Ba là, quy định về các trường hợp cách chức Thẩm phán cần rõ ràng, không nên mang tính định tính, chung chung, khó xác định (ví dụ: dự thảo Luật tổ chức Tòa án lần 5 tại khoản 2 Điều 65 đã quy định Thẩm phán có thể bị cách chức khi thuộc trường hợp: “vi phạm về phẩm chất đạo đức, có hành vi vi phạm pháp luật khác”). Theo chúng tôi, việc quy định các trường hợp xử lý Thẩm phán khi có sai phạm là hoàn toàn cần thiết nhưng phải quy định như thế nào để tạo sự rõ ràng, công minh trong quá trình xử lý, tránh tình trạng “xử sao cũng đúng”.
Bốn là, đối với việc quy định ngạch Thẩm phán thì không nên quy định theo hướng phân thành bốn ngạch: tối cao, cao cấp, trung cấp, sơ cấp.Vìnếu phân định thứ hạng, mức độ trong đội ngũ thẩm phán sẽ tạo tâm lý thiếu tự tin nơi người thẩm phán cấp thấp, tạo tâm lý không tin tưởng nơi đối tượng tham gia tố tụng (họ sẽ nghĩ rằng vụ án do Thẩm phán sơ cấp xét xử chưa chắc đúng, hay tòa sơ thẩm xét xử chỉ là hình thức, dù gì vụ án cũng sẽ bị xét xử lại ở cấp cao hơn mới có hiệu lực). Do vậy, nếu có phân loại, chỉ nên phân thành hai loại là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán.
CHÚ THÍCH
* Giảng viên khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
** Giảng viên khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Báo cáo giải trình Hiến pháp của Ủy ban dự thảo sử đổi Hiến pháp năm 1992 ngày 17 tháng 10 năm 2013.
[2] Nghị quyết 49/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[3] Xem: GS-TS Mai Hồng Quỳ – “Những điểm mới cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và một số kiến nghị”– Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1 năm 2013 .
[4] Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).
[5] Khoản 3 Điều 88 Hiến pháp năm 2013.
[6] Điều 12, 17 Dự thảo luật tổ chức tòa án nhân dân lần 5.
Tác giả: Mai Thị Lâm*, Võ Hồng Tú – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 02/2014, Trang 23-28
Like fanpage Luật sư Online tại https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời