Mục lục
Nghị viện trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước
Tác giả: Nguyễn Sĩ Dũng
Nghị viện không đứng một mình mà vận hành trong mối quan hệ với các cơ quan khác là hành pháp và tư pháp. Mối quan hệ đó khác nhau ở mỗi nước, tùy vào đặc điểm văn hóa, lịch sử, chính trị, và tùy thuộc vào mô hình tổ chức quyền lực nhà nước cũng như bộ máy nhà nước được lựa chọn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của cuốn sách này, mục này chỉ tìm hiểu mối quan hệ quyền lực đó trên hai phương diện: (1) cơ sở lý luận về tổ chức quyền lực nhà nước – phân chia quyền lực hay tập trung quyền lực; (2) hình thức chính thể – chính thể đại nghị, tổng thống, hay hỗn hợp.
Xem thêm bài viết về “Nghị viện”
- Bản chất và vai trò của Nghị viện – TS. Nguyễn Sĩ Dũng
- Các nguồn quy định về tổ chức và hoạt động của Nghị viện – TS. Nguyễn Sĩ Dũng
- Lịch sử hình thành và phát triển của Nghị viện trên thế giới – TS. Nguyễn Sĩ Dũng
1. Phân chia quyền lực và tập trung quyền lực
1.1. Phân chia quyền lực trong sự thống nhất
Mô hình tổ chức quyền lực nhà nước được áp dụng ở đại đa số các nước hiện nay là phân chia quyền lực nhà nước, theo đó quyền lực nhà nước được chia thành các nhánh khác nhau dựa trên bản chất và chức năng để các nhánh có thể kiểm soát và cân bằng lẫn nhau và vì thế các quyền và tự do của tất cả mọi người có thể được bảo vệ. Mặt khác, ở những nước đó, Hiến pháp quy định, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và xuất phát từ nhân dân.
Trong mô hình này, quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan thực hiện một chức năng của quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, không có một cơ quan nào nắm giữ toàn bộ quyền lực nhà nước; sự độc lập tương đối của các nhánh quyền lực nhà nước và các cơ quan nhà nước; cơ chế kiềm chế và đối trọng giới hạn quyền lực của mỗi cơ quan nhà nước và cản trở sự tập trung quyền lực trong tay một nhánh quyền lực, ngăn chặn sự lạm quyền; giữa ba cơ quan này có cơ chế kiểm soát lẫn nhau.
Thông thường, tùy theo mức độ, phân chia quyền lực nhà nước ở các nước được xếp thành hai loại: phân quyền “cứng rắn” và phân quyền “mềm dẻo”. Phân quyền cứng rắn thường xuất hiện ở các nước cộng hòa Tổng thống hoặc lưỡng tính, còn phân quyền mềm dẻo có ở các nước theo mô hình chính thể đại nghị gồm: cộng hòa đại nghị và quân chủ đại nghị.
1.1.1. Phân quyền “cứng rắn”
Ở các nước phân quyền “cứng rắn”, giữa lập pháp, hành pháp có sự phân định khá dứt khoát về thẩm quyền và có sự kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lập pháp và hành pháp. Cụ thể:
– Tổng thống do nhân dân bầu ra, đồng thời là người đứng đầu bộ máy hành pháp; Tổng thống không có quyền sáng quyền lập pháp nhưng có khả năng tác động đến hoạt động lập pháp thông qua quyền phủ quyết.
– Nghị viện cũng do nhân dân bầu ra nắm quyền lập pháp nhưng hoạt động lập pháp của Nghị viện thường căn cứ vào chương trình hoạt động thường niên của hành pháp do Tổng thống đề xuất. Bởi vì trong trường hợp Nghị viện thông qua luật không phù hợp với đường lối của hành pháp thì Tổng thống sẽ sử dụng quyền phủ quyết để bác bỏ đạo luật.
Mặc dù Nghị viện không có quyền đặt vấn đề giải tán cơ quan hành pháp nhưng Nghị viện cũng có khả năng tác động đến hành pháp thông qua quyền quyết định ngân sách, phân bổ ngân sách, quyền phê chuẩn điều ước quốc tế do cơ quan hành pháp ký, quyền phê chuẩn các thành viên trong bộ máy hành pháp do Tổng thống đệ trình. Ngoài ra, Nghị viện còn có quyền phế truất Tổng thống bằng thủ tục luận tội.
1.1.2. Phân quyền mềm dẻo không có sự phân chia dứt khoát về thẩm quyền
Nghị viện do nhân dân bầu ra là cơ quan lập pháp nhưng Chính phủ – cơ quan hành pháp do Nghị viện thành lập vẫn có sáng quyền lập pháp. Đặc biệt ở những nước mà đảng chiếm đa số ghế ở Nghị viện đứng ra thành lập Chính phủ thì vai trò quan trọng của Chính phủ đối với hoạt động lập pháp của Nghị viện trở nên rõ ràng hơn.
Chính phủ do Nghị viện thành lập thực hiện quyền hành pháp. Tuy nhiên, Nghị viện vẫn có khả năng tác động đến hoạt động của Chính phủ thông qua quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ và biểu quyết từ chối tín nhiệm Chính phủ. Trong trường hợp này, hoặc Chính phủ phải từ chức hoặc Chính phủ yêu cầu người đứng đầu Nhà nước giải tán Nghị viện.
1.2. Tập trung quyền lực – một cách tiếp nhận học thuyết của Rousseau
Học thuyết của Rousseau về sự thống nhất của quyền lực nhà nước được tiếp nhận một cách khác nhau trên thực tế. Như đã đề cập, ở đại đa số các nước, Hiến pháp chỉ đơn thuần tuyên bố về quyền lực thuộc về nhân dân và chủ quyền nhân dân. Còn các nước xã hội chủ nghĩa trước đây tiếp nhận học thuyết của Rousseau từ góc độ khác, theo đó, người ta cố gắng tìm kiếm một dạng cơ quan để có thể trao toàn bộ quyền lực nhà nước, tập trung quyền lực nhà nước vào cơ quan đó. Cơ quan như vậy K.Mác nhận thấy trong Công xã Paris 1871 và trên nền tảng đó V.I. Lênin hình thành nên quan điểm về nền Cộng hoà Xô viết, tuyên bố “Tất cả chính quyền về tay các Xô Viết!”, trong đó Lênin nói về chính quyền của giai cấp vô sản và nông dân (đặc biệt là bần cố nông) dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.
Tư tưởng tập trung quyền lực phủ nhận phân chia quyền lực và coi các Xô Viết như những cơ quan quyền lực nhà nước duy nhất từ trên xuống dưới. Hiến pháp Liên Xô 1977 quy định rằng nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước qua các Xô Viết đại biểu nhân dân – những cơ quan tạo nên nền tảng chính trị của Nhà nước (Điều 2). Mọi cơ quan nhà nước khác chịu sự kiểm soát của Xô Viết và có trách nhiệm báo cáo trước Xô Viết. Chỉ những cơ quan theo mô hình các Xô Viết (Xô Viết tối cao, Quốc hội, Đại hội nhân dân ở trung ương và Xô viết nhân dân, Hội đồng nhân dân, Đại hội đại biểu ở địa phương) mới được coi là những cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác chỉ được coi là cơ quan quản lý nhà nước, xét xử… chứ không phải là cơ quan quyền lực nhà nước.
Trên cơ sở quan điểm của Mác về Công xã Paris, Lênin đã xây dựng mô hình tổ chức bộ máy nhà nước Xô Viết, theo đó:
– Cơ quan đại diện nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước nắm quyền lập pháp và quyền hành pháp. Với tư cách là cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, cơ quan lập pháp (Xô Viết Tối cao) được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thành lập ra các cơ quan hành pháp, tư pháp và có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan này;
– Cơ quan chấp hành do cơ quan lập pháp thành lập thực hiện chức năng hành chính của lập pháp. Với tính chất là cơ quan phái sinh của quyền lực nhà nước, cơ quan hành pháp và tư pháp không những không có quyền giám sát hoạt động của cơ quan lập pháp mà còn phải báo cáo về hoạt động của mình trước cơ quan này.
Các nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước nêu trên không có ý nghĩa tuyệt đối. Phân chia quyền lực không loại trừ sự thống nhất trong chính sách nhà nước về những vấn đề có tính nguyên tắc và sự tương hỗ giữa các nhánh quyền lực; còn quan điểm tập trung quyền lực không loại trừ việc thành lập những cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện những chức năng khác nhau để thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất. Cách hiểu đó được phản ánh rõ nét trong Hiến pháp các nước hậu Xô Viết. Ví dụ như Hiến pháp Kazakhstan 1995: “Quyền lực nhà nước ở Cộng hoà Kazakhstan là thống nhất, được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và luật theo nguyên tắc phân chia quyền lực thành lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự tương hỗ giữa các nhánh quyền lực đó với nhau trong một hệ thống kiềm chế và đối trọng” (Điều 3).
Xem thêm bài viết về “Mối quan hệ”
- Mối quan hệ nhân quả và vấn đề giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật thương mại – ThS. Nguyễn Thị Thanh Huyền
- Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam – ThS. Phạm Thị Phương Thảo
- Mối quan hệ giữa hành pháp với các cơ quan khác ở trung ương ở Đức và gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Nguyễn Minh Tuấn
- Điều chỉnh mối quan hệ giữa các công ty trong nhóm công ty theo Luật Doanh nghiệp 2014 – TS. Hà Thị Thanh Bình
- Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – TS. Nguyễn Mạnh Hùng
2. Nghị viện trong các mô hình tổ chức bộ máy nhà nước
Lý thuyết so sánh các mô hình tổ chức nhà nước trên thế giới nói tới ba mô hình tổ chức nhà nước cơ bản: mô hình đại nghị, mô hình Tổng thống và mô hình hỗn hợp, theo đó mối quan hệ quyền lực giữa Nghị viện với các nhánh quyền lực khác của nhà nước có đặc thù khác nhau. Trên thực tế, ba mô hình trên đây đều có những biến thể và mối quan hệ quyền lực nhà nước còn tùy thuộc vào quy định cụ thể của Hiến pháp và pháp luật quốc gia.
2.1. Mô hình chính thể đại nghị
Dấu hiệu chính của hình thức chính thể này là chế định trách nhiệm chính trị của Chính phủ và ngược lại là chế định giải thể Nghị viện. Nghị viện ở những nước này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành Chính phủ. Chính phủ cần nhận được sự tín nhiệm của Nghị viện, vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào về tương quan lực lượng trong Nghị viện cũng gây ảnh hưởng đến thành phần của Chính phủ (đặc biệt ở các nước có Chính phủ liên hiệp). Quyền hành pháp thuộc về Chính phủ với một vị Thủ tướng đứng đầu do Nghị viện bầu lên, chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Thủ tướng có vai trò nổi trội trong việc thực hiện quyền lực chính trị, bởi Thủ tướng là thủ lĩnh của Đảng chiếm đa số hoặc ưu thế trong Nghị viện, là người quyết định đường lối chính trị của Chính phủ. Nguyên thủ quốc gia ở những nước này không nắm quyền lực hành pháp thực tế trong tay và chỉ có những thẩm quyền lễ tân, ngoại giao thuần tuý. Ví dụ điển hình cho mô hình này là Nghị viện Anh. Ngoài ra, nó còn tồn tại ở nhiều nước phát triển như Áo, Đức, Italia,… một số nước hậu XHCN như Bungari, Hungari, Mondova…
Trong mô hình này có sự phân biệt giữa chính thể quân chủ Nghị viện lập hiến với cộng hòa đại nghị. Quân chủ Nghị viện lập hiến có nguyên thủ quốc gia là Vua (Hoàng đế, Quốc trưởng), hiện nay đang tồn tại ở trên 30 nước, trong đó có Anh, Thụy Điển, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thái Lan…21. Trong mô hình cộng hòa đại nghị, nguyên thủ quốc gia (Tổng thống/Chủ tịch nước) thường do Nghị viện hoặc một hội nghị đặc biệt bầu ra mà không phải do nhân dân trực tiếp bầu ra như ở Italia, Đức. Trong khi đó, Thủ tướng Chính phủ do Nghị viện bầu ra. Chẳng hạn, Thủ tướng CHLB Đức do Hạ viện bầu ra theo sự đề cử của Tổng thống. Thủ tướng có thể bị Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm và buộc phải từ chức. Ngược lại, Tổng thống theo đề nghị của Thủ tướng có thể giải tán Nghị viện. Hiện nay có 32 nước có chính thể cộng hoà đại nghị22 chẳng hạn CHLB Đức (theo Hiến pháp 1949), Áo (theo Hiến pháp 1922, sửa đổi 1929), Hi Lạp theo Hiến pháp 1975…
Hộp 2: Xu hướng cải tiến theo tam quyền phân lập ở Anh |
---|
Với đạo luật Cải cách Hiến pháp 2005 (Constitutional Reform Act), Vương quốc Anh tách quyền tư pháp từ Thượng viện (House of Lords) để trao quyền này cho Tòa án Tối cao độc lập với Nghị viện. Cải cách này được tiến hành dựa trên sức ép của việc gia nhập EU và tuân theo Công ước về nhân quyền của EU, theo đó, thẩm phán có nghĩa vụ tuân theo các quy định của EU. |
Hoạt động của Nghị viện trong mô hình này dựa trên cơ sở hợp tác, ủng hộ của nghị sĩ đối với chính sách của Chính phủ trên cơ sở sự thuyết phục qua giải trình của Chính phủ trước Nghị viện và thông qua đó tới dân chúng. Thủ tướng, người đứng đầu Chính phủ thường là lãnh tụ của phe đa số trong Nghị viện. Vì vậy, thời gian hỏi-đáp của Nghị viện thường được tiến hành mỗi tuần, là cơ hội để nghị sĩ đặt các câu hỏi để Chính phủ giải trình. Kiến nghị về các dự án luật thường do Chính phủ hoặc nhóm nghị sĩ ủng hộ Chính phủ đưa ra. Nhóm đối lập làm nhiệm vụ phản biện.
Nhóm nghị sĩ đối lập trong Nghị viện hình thành một nhóm chuyên giám sát và phản biện các chính sách của Chính phủ. Nhóm này còn được gọi là “Chính phủ bóng” gồm các nghị sĩ đóng vai “bộ trưởng bóng”, có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu, theo dõi các lĩnh vực của bộ trưởng đương nhiệm để đưa ra các câu hỏi, đề nghị giải trình mang tính chất phản biện.
Hộp 3: Giảm số nghị sĩ kiêm bộ trưởng ở Anh |
---|
Hạ viện Anh thông qua Luật năm 1975 giới hạn số bộ trưởng ăn lương trong Nghị viện. Tiếp theo đó, năm 2011 thông qua Luật về hệ thống bầu cử và đơn vị bầu cử (Parliamentary Voting System and Constituencies Act 2011). Luật này quy định quyền của Ủy ban Hành chính công (Public Administration Select Committee) trong Hạ viện được xem xét đề xuất giảm số nghị sĩ đồng thời giữ chức bộ trưởng (có trách nhiệm bỏ phiếu cho Chính phủ) ở mức không quá 20%. Mức giới hạn này sẽ được xem xét tiếp vào năm 2015. |
Thời gian họp của Nghị viện theo mô hình đại nghị chủ yếu là thảo luận và để Chính phủ thuyết phục các nghị sĩ đối lập ủng hộ chính sách của Chính phủ. Ví dụ, ở Hạ viện Anh họp trung bình 170 ngày mỗi năm, trong đó một nửa số thời gian để thảo luận các dự án luật do Chính phủ trình, số thời gian thảo luận các dự án do nghị sĩ trình chỉ khoảng 50 giờ.
Quan điểm chuyên gia ủng hộ cho ưu thế của thể chế đại nghị cho rằng: i) do không tuyệt đối hóa nguyên tắc kiểm soát và cân bằng quyền lực giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nên khả năng phản hồi ý kiến cử tri, khả năng ban hành chính sách nhanh hơn so với thể chế Tổng thống, không bị lâm vào tình trạng tắc nghẽn do kiểm soát và cân bằng quyền lực; ii) khi Chính phủ không có được sự tin cậy của công chúng thì bị thay thế ngay bởi Chính phủ khác.
2.2. Mô hình Tổng thống
Trong chính thể cộng hoà Tổng thống, nguyên thủ quốc gia (Tổng thống) do nhân dân trực tiếp bầu ra vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ. Mô hình này lấy nguyên tắc phân chia quyền lực “cứng rắn” làm cơ sở cho việc tổ chức quyền lực nhà nước. Ở những nước này không có trách nhiệm tập thể của Chính phủ trước Nghị viện, không có hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ và sự giải tán Nghị viện. Điển hình cho mô hình này là Mỹ với hệ thống kiềm chế và đối trọng phản ánh khá chính xác tương quan giữa ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở Mỹ không có cơ chế giải thể Nghị viện, nhưng Tổng thống có quyền phủ quyết tương đối các đạo luật của Nghị viện (có thể bị Nghị viện vượt qua). Một số quan chức do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý của Nghị viện. Nghị viện không thể bắt buộc Tổng thống từ chức, nhưng lại có quyền đưa ra quyết định truất quyền Tổng thống qua hình thức luận tội. Ở các nước khu vực Mỹ La tinh người ta còn gọi hệ thống quyền lực nhà nước là hệ thống “siêu Tổng thống”. So với Mỹ, ở đây quyền lực của Nghị viện yếu hơn đáng kể và trên thực tế phải phục tùng Tổng thống. Hiện nay có 42 nước có chính thể cộng hoà Tổng thống23.
Nghị viện được bầu riêng và Tổng thống được bầu riêng, do đó, Tổng thống có thể là người không thuộc đảng đa số trong Nghị viện. Nghị viện không có quyền tối cao đối với các nhánh quyền lực khác. Nghị viện có quyền kiềm chế khi các nhánh quyền lực khác có xu hướng lấn át. Tổng thống có quyền phủ quyết luật do Nghị viện biểu quyết thông qua. Tòa án cũng có quyền tuyên bố hủy bỏ hoặc không áp dụng hiệu lực luật hoặc một phần của luật đã được Nghị viện thông qua.
Do ở một nước cộng hoà Tổng thống, hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp tách biệt nhau với một mức độ đáng kể và có thể tồn tại độc lập với nhau nên sự tìm kiếm những giải pháp trung hoà trở nên khó khăn hơn. Hơn nữa, thực chất mô hình chính thể Tổng thống “cổ điển” không có một cơ cấu để giải quyết những mâu thuẫn giữa hai nhánh quyền lực. Nghị viện thiếu những quyền hạn để truất quyền người đứng đầu nhánh hành pháp theo mô típ chính trị, còn Tổng thống không thể giải tán Nghị viện. “Điều đó làm cho cả hai nhánh quyền lực không có khả năng giải quyết những xung đột chính trị xuất hiện từ sự đối đầu”. Dù Tổng thống được luật pháp ban cho nhiều quyền, nhưng khi có bất đồng chính trị giữa người đứng đầu cơ quan hành pháp với cơ quan lập pháp, Nghị viện vẫn lấn át Tổng thống. Các chính sách của Tổng thống dễ rơi vào bế tắc và không thực hiện được, vì một số nghị sĩ có quan điểm đối lập, đặc biệt là các nghị sĩ bảo thủ tại Thượng viện.
Quan điểm chuyên gia ủng hộ ưu thế của chính thể cộng hòa Tổng thống cho rằng nguy hiểm lớn đối với nền dân chủ là sự lạm dụng quyền lực, do đó phải có cơ chế kiểm soát quyền lực. Ngược lại, phê phán về quan điểm đề nghị áp dụng chế độ kiểm soát và cân bằng quyền lực ở Hoa Kỳ vào nước Anh, nguyên Thủ tướng Anh Gordon Brown nói trước Hạ viện Anh:
“Một số bạn bè đề nghị áp dụng Hiến pháp Hoa Kỳ cho Liên hiệp Anh. Họ cũng thừa biết về nhiều sự kiện đã xảy ra cho thấy Hiến pháp Hoa Kỳ đi vào bế tắc khi Hạ viện, Thượng viện và Tổng thống không nhất trí về giải pháp… và nếu họ quan sát (tình hình chính trị ở Anh) vào tháng qua sẽ thấy chúng ta có thể thuyết phục Nghị viện thông qua cải cách ngân hàng, chi viện vốn cho các ngân hàng của chúng ta tồn tại, trong khi nước Mỹ phải mất hàng tuần, hàng tháng mới thống nhất giải pháp, đó là do tam quyền phân lập”
2.3. Mô hình hỗn hợp
Mô hình thứ ba gồm các cơ quan lập pháp ở các nước với hình thức chính thể hỗn hợp (còn được gọi là mô hình chính thể lưỡng tính). Hiện nay, có trên 50 quốc gia theo hình thức chính thể này như Pháp, Nga, Hàn Quốc, Singapore, Phần Lan, Bồ Đào Nha, Cộng hòa Ireland, Iceland…
Mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và hành pháp ở đây có những đặc điểm của hai mô hình kể trên. Trong mô hình chính thể này, Tổng thống do nhân dân bầu ra. Đây là yếu tố của chính thể cộng hoà Tổng thống. Tuy nhiên, Tổng thống chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ. Chính phủ do Nghị viện bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng, là thủ lĩnh của phe đa số hoặc chiếm ưu thế trong Nghị viện (đây là yếu tố của chính thể cộng hoà đại nghị). Trách nhiệm tập thể của Chính phủ trước Nghị viện được khẳng định, nhưng Tổng thống cũng có những quyền hạn quan trọng gắn liền với hoạt động của Nghị viện. Tổng thống được Hiến pháp trao quyền nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng nắm quyền hành pháp, là lãnh tụ đảng đa số trong Nghị viện. Khó khăn của hình thức tổ chức này là sau khi bầu cử, các đảng trong Nghị viện thường phải liên minh thành lập Chính phủ, đây là nguyên nhân của nhiều bất đồng chính trị xảy ra dẫn tới liên minh đổ vỡ.
Do được nhân dân trực tiếp bầu ra nên Tổng thống trong mô hình chính thể cộng hòa lưỡng tính có nhiều quyền hạn hơn so với người đồng cấp trong mô hình chính thể cộng hòa đại nghị. Chẳng hạn, ở Cộng hòa Pháp, Tổng thống theo quy định của Hiến pháp là người có vai trò làm trọng tài điều hoà hoạt động của các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng và theo đề nghị của Thủ tướng bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ trên cơ sở Đảng chiếm ưu thế trong Nghị viện. Tổng thống có thể chủ tọa các phiên họp của Hội đồng bộ trưởng, bổ nhiệm các thẩm phán, có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại các dự luật đã được hai viện thông qua, có quyền giải tán Hạ viện. Tổng thống cùng với Thủ tướng chia sẻ quyền hành pháp. Chính phủ vừa chịu trách nhiệm trước Tổng thống vừa chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Tổng thống Pháp theo Hiến pháp 1958 là trung tâm của nền chính trị Pháp. Mặc dù quyền lực của Tổng thống Pháp không lớn như Tổng thống Hoa Kỳ, nhưng Tổng thống Pháp cũng có những ưu thế mà Tổng thống Hoa Kỳ không thể có được như có thể giải tán Hạ viện.
Trong mô hình này, nguyên tắc phân chia quyền lực được áp dụng một cách mềm dẻo, có sự điều hoà, phối hợp giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trên thực tế quyền lực của Tổng thống có lớn hay không phụ thuộc vào việc Tổng thống và Thủ tướng có cùng đảng phái hay không. Nếu cùng một đảng phái thì thông thường quyền lực của Tổng thống rất lớn vì Tổng thống có chỗ dựa của mình là đa số trong Nghị viện. Ngược lại, nếu không cùng đảng phái thì trong nhiều vấn đề chính trị Tổng thống phải nhượng bộ Thủ tướng vì Thủ tướng có đa số trong Nghị viện làm hậu thuẫn.
Cũng đều là mô hình cộng hoà lưỡng tính nhưng nếu Pháp đứng trên thế cân bằng giữa cộng hoà đại nghị và cộng hoà Tổng thống thì Nga nghiêng nhiều hơn về phía cộng hoà Tổng thống. Trong khi Hiến pháp 1958 của Pháp (Điều 20) quy định Chính phủ quyết định và lãnh đạo đường lối chính trị của dân tộc thì Hiến pháp Nga lại trao quyền đó cho Tổng thống. Khoản 3 Điều 80 Hiến pháp Liên bang Nga 1993 quy định: “Tổng thống Liên bang Nga theo Hiến pháp và các luật của Liên bang quyết định các định hướng chính trị cơ bản cơ bản về đối nội cũng như đối ngoại”./.
Xem thêm bài viết về “Quyền lực nhà nước”
- Nguyên tắc Chủ quyền nhân dân (Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân) trong tổ chức bộ máy nhà nước – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương tại Việt Nam: Tiếp cận dưới góc độ phân quyền – PGS.TS. Đặng Minh Tuấn & TS. Hoàng Thị Ái Quỳnh
- Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980 và 1992) – GS.TS. Phạm Hồng Thái
- Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước – GS.TS. Nguyễn Đăng Dung
- Tính quyền lực nhà nước của hoạt động áp dụng pháp luật – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời