Vị trí, vai trò của chế định Chủ tịch nước trong các bản Hiến pháp của Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)
Tác giả: Phạm Quý Tỵ
Trong bộ máy Nhà nước ta, thiết chế Chủ tịch nước được tổ chức khác nhau qua các bản hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 quy định là Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 1980 quy định là Hội đồng Nhà nước – Chủ tịch tập thể, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 trở lại quy định là Chủ tịch nước. Thiết chế Chủ tịch nước dù được quy định khác nhau trong từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước, song đều Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng quy định: hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Theo quy định của Hiến pháp, vị trí nguyên thủ quốc gia có tính chất phái sinh từ Quốc hội, điều này được thể hiện trong các bản hiến pháp như sau:
Xem thêm bài viết về “Chủ tịch nước”
- Đánh giá chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013 – TS. Đỗ Minh Khôi
- Chế định Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – LS. Hoàng Minh Hùng
1. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946
Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân, lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, song còn mang nhiều dấu ấn của hình thức chính thể cộng hòa đại nghị. Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền lực cao nhất nước, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của toàn quốc, do Nghị viện nhân dân thành lập nhưng có vị trí độc lập tương đối so với Nghị viện. Chính phủ gồm có Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng, có thể có Phó Thủ tướng.
Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 do Nghị viện bầu ra trong số Nghị viện nhân dân, với nhiệm kì là 5 năm. Chủ tịch nước là thành viên Chính phủ. Chủ tịch nước có thẩm quyền: chọn Thủ tướng trong số Nghị viện nhân dân và đưa ra Nghị viện biểu quyết, sau đó bổ nhiệm Thủ tướng; chủ tọa các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; yêu cầu Nghị viện thảo luận lại những luật đã được Nghị viện biểu quyết trước khi Chủ tịch nước ban bố, những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố.
Vị trí của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước đồng thời đứng đầu cơ quan hành pháp, quyết định nhân sự Nội các và các chính sách hành pháp quốc gia. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 có nhiều đặc điểm của Tổng thống trong chính thể cộng hòa lưỡng tính, trong đó nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu hành pháp. Việc thực thi chính sách hành pháp quốc gia được trao cho Thủ tướng và Nội các thực hiện và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Nghị viện có thẩm quyền biểu quyết mất tín nhiệm Nội các, trường hợp Nội các mất tín nhiệm thì phải từ chức. Chủ tịch nước do Nghị viện bầu ra nhưng có vị trí khá độc lập với Nghị viện, không chịu trách nhiệm trước Nghị viện, thậm chí còn có khả năng kiểm soát lập pháp của Nghị viện thông qua quyền phủ quyết luật hoặc sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các, thì Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề này ra Nghị viện thảo luận lại. Nhiệm kì của Nghị viện và Chủ tịch nước không trùng nhau, nhiệm kì của Nghị viện là 3 năm nhưng nhiệm kì của Chủ tịch nước là 5 năm. Những đặc điểm của chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 cho thấy các nhà lập hiến 1946 đã khẳng định một nguyên tắc hiến định “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”! để điều hành nhà nước vừa mới giành chính quyền, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân để đánh đuổi thù trong giặc ngoài.
Xem thêm bài viết về “Hiến pháp 1946”
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính sách giáo dục là gì? Chính sách giáo dục trong các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)? – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Sự phát triển chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980 và 1992) – GS.TS. Phạm Hồng Thái
2. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1959
Theo Hiến pháp năm 1959, bộ máy nhà nước chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chế định Chủ tịch nước được quy định thành một chế định độc lập với tính chất là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra theo nhiệm kì của Quốc hội và có thể bị Quốc hội bãi nhiệm. Các quyền hạn của Chủ tịch nước chủ yếu mang tính đại diện hình thức cho các hoạt động đối nội, đối ngoại của nhà nước. Tuy nhiên, Chủ tịch nước vẫn có vai trò nhất định đối với cơ quan hành pháp và giữ quyền điều phối hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chủ tịch nước không đứng đầu Chính phủ như quy định trong Hiến pháp năm 1946, nhưng theo Điều 66 Hiến pháp năm 1959 thì “Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ”; Điều 67 quy định: “Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt… Những ý kiến của Hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chuyển đến Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ hoặc các cơ quan hữu quan khác để thảo luận và ra quyết định”. Có thể nói chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959 mặc dù đã được quy định thành một thiết chế riêng, nhưng vẫn gắn nhiều với cơ quan hành pháp và đóng vai trò điều phối hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Xem thêm bài viết về “Hiến pháp 1959”
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính sách giáo dục là gì? Chính sách giáo dục trong các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)? – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Sự phát triển chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980 và 1992) – GS.TS. Phạm Hồng Thái
3. Chế định Hội đồng nhà nước trong Hiến pháp 1980
Hiến pháp năm 1980 không quy định thiết chế Chủ tịch nước riêng biệt mà xác lập chế độ Chủ tịch nước tập thể, đó là Hội đồng nhà nước, theo như mô hình chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông u thời kì đó. Chế định Hội đồng nhà nước trong Hiến pháp năm 1980 là sự hợp nhất chế định Ủy ban thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1959. Vì vậy, “Hội đồng nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hội đồng nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Hội đồng nhà nước được bầu ra trong số các Đại biểu Quốc hội và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Hội đồng nhà nước có quyền giám sát công tác của Hội đồng Bộ trưởng, của Tòa án nhân dân tối cao và của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh; cử và bãi miễn các Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân tối cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… Như vậy, chế định Hội đồng nhà nước – Chủ tịch nước tập thể là biểu hiện rõ nhất về mô hình chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa, trong đó tập quyền và tập thể lãnh đạo là những nguyên tắc cơ bản trong việc tổ chức quyền lực nhà nước.
Xem thêm bài viết về “Hiến pháp 1980”
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính sách giáo dục là gì? Chính sách giáo dục trong các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)? – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Sự phát triển chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980 và 1992) – GS.TS. Phạm Hồng Thái
4. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
Trong Hiến pháp năm 1992, chế định Chủ tịch nước được thiết lập trở lại thành một thiết chế riêng biệt như Hiến pháp năm 1959, nhưng có sự kế thừa những ưu điểm của thiết chế Chủ tịch nước quy định trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và chế định Hội đồng nhà nước trong Hiến pháp năm 1980. Theo mô hình này đã tạo sự gắn bó giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước trong việc thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia. Đồng thời vẫn đảm bảo sự phân công, phối hợp giữa các cơ cấu của bộ máy nhà nước để thực hiện quyền lực nhà nước trong thời kì đổi mới. Theo đó, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số Đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; tham dự các phiên họp của Chính phủ khi cần thiết. Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh mà Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua. Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Xem thêm bài viết về “Hiến pháp 1992”
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính sách giáo dục là gì? Chính sách giáo dục trong các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)? – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Sự phát triển chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Các nội dung được sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung 2001 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 1992 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
5. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013
Vị trí, vai trò của chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 2013 được tiếp tục kế thừa những quy định về thiết chế Chủ tịch nước trong các bản hiến pháp trước đó, nhất là Hiến pháp năm 1992. Chế định Chủ tịch nước được quy định thành một thiết chế độc lập, không nằm ở một trong ba bộ phận quyền lực nhà nước là lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số Đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 quy định điều kiện để được bầu Chủ tịch nước phải là Đại biểu Quốc hội, không quy định điều kiện về quốc tịch, xuất thân, độ tuổi tối thiểu của ứng viên “nguyên thủ quốc gia” như ở một số quốc gia trên thế giới.
Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của Quốc hội. Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 2013 được quy định rõ hơn về mối quan hệ phối hợp giữa ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thẩm phán các tòa án khác, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh…
Xem thêm bài viết về “Hiến pháp 2013”
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính sách quốc phòng và an ninh quốc gia theo Hiến pháp 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Chính sách môi trường là gì? Chính sách môi trường trong Hiến pháp 2013? – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Chính sách khoa học và công nghệ trong Hiến pháp 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
- Chính sách giáo dục là gì? Chính sách giáo dục trong các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)?
– GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & TS. Lưu Trung Thành
Trả lời