Vị trí pháp lí của nguyên thủ quốc gia trong các chính thể
Tác giả: Phạm Quý Tỵ
Chế định về nguyên thủ quốc gia ở tất cả các nước đều được quy định trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất, đó là Hiến pháp. Hiến pháp thành văn hoặc bất thành văn thường dành một chương hoặc một đạo luật quy định về trình tự bầu cử, thẩm quyền, các mối quan hệ của nguyên thủ quốc gia với các cơ quan nhà nước. Về nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của nguyên thủ quốc gia ở mỗi nước có những quy định khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính thể, truyền thống dân tộc… Chính thể là yếu tố có ảnh hưởng quyết định tới vị trí pháp lí của nguyên thủ quốc gia.
Xem thêm bài viết về “Vị trí pháp lý“, “Địa vị pháp lý”
- Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản trong hệ thống chính trị Việt Nam – GS.TS. Lê Minh Tâm
- Địa vị pháp lý của Hội trong hoạt động xây dựng pháp luật – TS. Đỗ Minh Khôi
- Địa vị pháp lý của nhà giáo trong pháp luật Việt Nam hiện hành và định hướng hoàn thiện – PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
1. Chính thể quân chủ lập hiến
Trong chính thể quân chủ lập hiến, chức năng của nhà Vua, Nữ hoàng, Quốc vương chỉ mang tính tượng trưng, mọi hoạt động của nhà Vua, Nữ hoàng, Quốc vương chỉ nhằm mục đích chính thức hóa về mặt nhà nước các hoạt động đã rồi của Nghị viện và Chính phủ. Những mệnh lệnh của Vua, Nữ hoàng, Quốc vương phải được một bộ trưởng thuộc lĩnh vực đó kí “phó thự” thì mới có hiệu lực. Các bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện về các lệnh mà họ đã kí có nội dung trái với Hiến pháp và pháp luật. Việc nhà Vua, Nữ hoàng, Quốc vương yêu cầu họ kí sắc lệnh này không được coi là lí do chính đáng. Vì vậy, trong chính thể quân chủ lập hiến, nhà Vua, Nữ hoàng, Quốc vương không phải chịu trách nhiệm bất cứ vấn đề gì, trừ tội phản quốc. Chẳng hạn, Điều 63 Hiến pháp Bỉ năm 1831 quy định: “Nhà Vua không phải chịu trách nhiệm gì, các bộ trưởng sẽ phải chịu trách nhiệm”. Hoặc Điều 64 quy định: “Không sắc lệnh nào của nhà Vua có hiệu lực, trừ khi được một bộ trưởng kí phó thụ. Và với hành động kí phó thụ này bộ trưởng sẽ phải chịu trách nhiệm về vấn đề tương ứng”.
2. Chính thể cộng hòa tổng thống
Ở những nước theo chính thể cộng hòa tổng thống (như Mỹ, Mexico…) có đặc điểm Tổng thống do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra, vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Điều 80 Hiến pháp Mexico năm 1917 quy định: “Việc thi hành những quyền lực hành pháp tối cao của Liên bang được trao cho một người duy nhất, được gọi là “Tổng thống của Liên bang Mêhicô””; Điều 81 quy định: “Tổng thống được bầu cử trực tiếp theo các quy định trong luật bầu cử”. Tổng thống thành lập nội các, bổ nhiệm thành viên nội các, nội các chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Chính chức năng đứng đầu bộ máy hành pháp đã làm cho Tổng thống – nguyên thủ quốc gia có quyền rất lớn, trong trường hợp Tổng thống và đa số Nghị viện ở cùng một đảng cầm quyền thì quyền lực nhà nước tập trung tuyệt đối vào tay Tổng thống.
3. Chính thể cộng hòa đại nghị
Những nước theo chính thể cộng hòa đại nghị (hay còn gọi là cộng hòa nghị viện) Tổng thống được hình thành thông qua con đường Nghị viện bầu ra. Tổng thống không đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ. Thủ tướng không chịu trách nhiệm trước Tổng thống, mà chỉ chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Vị trí của Tổng thống trong các nước theo chính thể cộng hoà đại nghị, cũng giống như trong chính thể quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì.
4. Chính thể cộng hòa lưỡng tính
Vị trí pháp lí của nguyên thủ quốc gia trong chính thể cộng hòa lưỡng tính: Ở những nước theo chính thể cộng hòa lưỡng tính, vừa có đặc điểm của cộng hòa tổng thống, vừa có đặc điểm của cộng hòa đại nghị, Tổng thống được bầu theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, đồng thời là người có tác động trực tiếp đến bộ máy hành pháp. Cộng hòa Pháp là một điển hình về chính thể cộng hòa lưỡng tính, theo đó Hiến pháp năm 1958 của Pháp quy định vị trí chính thể là mô hình kết hợp giữa chính thể cộng hòa tổng thống và chính thể cộng hòa đại nghị. Tổng thống được bầu cho nhiệm kì 5 năm theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp (Điều 6). Với tư cách là người đứng đầu nhà nước, Tổng thống bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng. Theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Chính phủ (Điều 8). Tổng thống chủ trì các phiên họp Hội đồng Bộ trưởng (Điều 9). Chính phủ Pháp chịu trách nhiệm trước Nghị viện, không chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Thủ tướng điều hành hoạt động của Chính phủ, tổ chức thực thi chính sách quốc gia do Tổng thống quyết định. Khi Thủ tướng và nội các tổ chức thực thi chính sách quốc gia yếu kém, Quốc hội Pháp sẽ chất vấn, bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ.
Xem thêm bài viết về “Nguyên thủ quốc gia”
- Sự ra đời và phát triển của chế định Nguyên thủ quốc gia – TS. Phạm Quý Tỵ
- Vai trò hiến định của nguyên thủ quốc gia – TS. Đỗ Minh Khôi
- Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam – ThS. Phạm Thị Phương Thảo
- Đánh giá chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013 – TS. Đỗ Minh Khôi
5. Ở các nước xã hội chủ nghĩa
Trong chính thể nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc mọi quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào cơ quan đại diện quyền lực nhà nước là Xô-viết tối cao ở Liên Xô (trước đây) và Quốc hội ở các nước còn lại. Xô viết tối cao Liên Xô bầu Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô – cơ quan thường trực của Xô-viết tối cao Liên Xô, Chủ tịch tập thể của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết. Thành phần Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô gồm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô, một Phó Chủ tịch thứ nhất, mười lăm Phó Chủ tịch – mỗi nước Cộng hòa liên bang có một Phó Chủ tịch. Các nước khác, Quốc hội bầu Hội đồng nhà nước, cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, Chủ tịch tập thể của mỗi nước. Hội đồng nhà nước có Chủ tịch Hội đồng nhà nước, các Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước và các thành viên. Như vậy, các nước xã hội chủ nghĩa thuộc Liên Xô, Đông u trước đây, Cu Ba và ở Việt Nam (theo Hiến pháp năm 1980), Hiến pháp không quy định thiết chế nguyên thủ quốc gia là cá nhân. Xô-viết tối cao, Quốc hội nắm toàn bộ quyền lực nhà nước, trong đó có cả quyền “nguyên thủ quốc gia”. Mọi chức năng của nguyên thủ quốc gia đều do Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao, Hội đồng nhà nước đảm nhiệm. Việc trao chức năng nguyên thủ quốc gia cho Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao, Hội đồng nhà nước đã thể hiện tư duy tập thể lãnh đạo trong việc tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vai trò nguyên thủ tập thể của Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao, Hội đồng nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa có thể nói là một đặc thù so với chính thể ở các nhà nước dân chủ khác.
Những nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Hiến pháp quy định chế định nguyên thủ quốc gia cá nhân là Chủ tịch nước, nhưng vẫn trong bối cảnh tổ chức quyền lực nhà nước là tập quyền. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo công tác với Chủ tịch nước./.
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời