• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam

Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam

02/05/2020 22/05/2021 ThS. Phạm Thị Phương Thảo Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp qua các bản hiến pháp ở Việt Nam
    • 1.1. Hiến pháp năm 1946
    • 1.2. Hiến pháp năm 1959
    • 1.3. Hiến pháp năm 1980
    • 1.4. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
  • 2. Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp trong Hiến pháp năm 2013
  • 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của nguyên thủ quốc gia trong mối quan hệ với cơ quan hành pháp ở nước ta
  • CHÚ THÍCH

Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam

Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam

 

  • Đánh giá chế định “Chủ tịch nước” trong Hiến pháp 2013
  • Vai trò hiến định của “Nguyên thủ quốc gia”
  • Mối quan hệ giữa “Hành pháp” và Lập pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam
  • Kiểm soát của lập pháp đối với “Hành pháp” trong Hiến pháp năm 1946

TỪ KHÓA: Mối quan hệ,  Nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch nước, Cơ quan hành pháp, Quyền hành pháp, Chính phủ,

TÓM TẮT

Quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và cơ quan hành pháp không chỉ phản ánh mối quan hệ giữa hai chế định độc lập và quan trọng trong bộ máy nhà nước mà còn phản ánh vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của nguyên thủ quốc gia trong hoạt động của cơ quan hành pháp, đặc biệt là vai trò của nguyên thủ quốc gia trong việc giám sát và kiểm soát quyền lực của cơ quan quyền hành pháp. Ở nước ta, mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và cơ quan hành pháp được ghi nhận cụ thể trong các bản Hiến pháp, đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013.

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Mối quan hệ giữa hành pháp với các cơ quan khác ở trung ương ở Đức và gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam
  • Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)
  • Vị trí pháp lý của Nguyên thủ quốc gia trong các chính thể
  • Vai trò hiến định của nguyên thủ quốc gia
  • Sự ra đời và phát triển của chế định Nguyên thủ quốc gia
  • Điều chỉnh mối quan hệ giữa các công ty trong nhóm công ty theo Luật Doanh nghiệp 2014
  • Quan điểm của Tòa án công lý Châu Âu ngày 16/5/2017 về Hiệp định thương mại tự do giữa liên minh Châu Âu và Singapore: Nội dung chính và các tác động
  • Nghị viện trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước
  • Bàn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự việt nam trên nền tảng của nguyên tắc suy đoán vô tội
  • Tác động của việc xây dựng thủy điện trên sông Mekong đến an ninh môi trường của Việt Nam - Một số vấn đề pháp lý đặt ra

Nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong xã hội, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà nước, có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định và có mối quan hệ với các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp – đưa các đạo luật vào thực tế cuộc sống, cơ quan hành pháp có vị trí pháp lý cũng như những nhiệm vụ, quyền hạn rất lớn trong bộ máy nhà nước. Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và cơ quan hành pháp không chỉ xác định thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia trong việc thực hiện quyền hành pháp mà còn là cơ sở quan trọng để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước của cơ quan hành pháp. Ở nước ta, mối quan hệ này được hiến định qua các bản Hiến pháp. Việc tìm hiểu mối quan hệ này rất quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.[1] Đây cũng là cơ sở để tìm ra những định hướng nhằm tăng cường vai trò của nguyên thủ quốc gia trong mối quan hệ với cơ quan hành pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

1. Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp qua các bản hiến pháp ở Việt Nam

1.1. Hiến pháp năm 1946

Trong Hiến pháp năm 1946, nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước. Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nước; giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và các nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; chủ tọa hội đồng Chính phủ; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng huy chương và bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp ước với các nước; phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước, tuyên chiến hay đình chiến” (Điều 49).

Trong khi đó, Điều 43 Hiến pháp năm 1946 quy định “cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Quy định này cho thấy, Chính phủ chính là cơ quan thực hiện chức năng hành pháp. Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng.[2]

Trong quan hệ với Chính phủ – cơ quan thực hiện chức năng hành pháp, Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ, là người trực tiếp điều hành Chính phủ với vai trò là Chủ tịch Hội đồng Chính phủ, chủ tọa các phiên họp của Chính phủ.[3] Quyền hạn của Chủ tịch nước trong nhánh hành pháp là rất lớn. Chủ tịch nước chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết.[4] Chủ tịch nước là người ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và các nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ,[5] có quyền ký các sắc lệnh của Chính phủ.[6] Việc phải có chữ ký của Chủ tịch nước trên các sắc lệnh của Chính phủ nhằm đảm bảo vai trò, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc quản lý nhà nước và đảm bảo cho tính đúng đắn của các Sắc lệnh này. Ngoài ra, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận vấn đề tín nhiệm Nội các.[7] Quy định này làm tăng cường trách nhiệm cá nhân của các thành viên Nội các, họ phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Nghị viện nhân dân.

Những quy định trên của Hiến pháp năm 1946 phù hợp với điều kiện thực tiễn lịch sử của Việt Nam trong giai đoạn đó. Chủ tịch nước là trung tâm của quyền lực nhà nước. Chủ tịch nước không chỉ là người đứng đầu Nhà nước, mà còn là người đứng đầu Chính phủ, trực tiếp điều hành bộ máy hành pháp. Điều này cho thấy có nhiều nét tương đồng với chế định nguyên thủ quốc gia ở chế độ cộng hòa tổng thống hay cộng hòa lưỡng tính trên thế giới.[8] Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 chứng tỏ địa vị pháp lý, vai trò đặc biệt của nguyên thủ quốc gia và phản ánh mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với cơ quan thực hiện quyền hành pháp.

1.2. Hiến pháp năm 1959

Hiến pháp năm 1959 ra đời khi nhu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1946 được đặt ra “nghiên cứu kỹ tình hình nước ta, nghiên cứu lại bản Hiến pháp năm 1946… tham khảo hiến pháp của các nước bạn và của một số nước tư bản có tính chất điển hình”.[9] Nguyên thủ quốc gia theo Hiến pháp năm 1959 vẫn là Chủ tịch nước với vị trí pháp lý trung tâm, là người thay mặt cho nước về đối nội, đối ngoại.[10] Tuy nhiên, về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với cơ quan hành pháp – Hội đồng Chính phủ thì nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước đã có những sự thay đổi rất lớn. Chủ tịch nước không còn tham gia vào các hoạt động của hành pháp một cách trực tiếp như Hiến pháp năm 1946. Cụ thể, Chủ tịch nước không còn là Chủ tịch Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính phủ trở thành một thiết chế độc lập[11] do Thủ tướng đứng đầu “Thủ tướng Chính phủ chủ tọa Hội đồng Chính phủ và lãnh đạo công tác của Hội đồng Chính phủ” (Điều 75). Tuy nhiên, Chủ tịch nước vẫn có quyền can thiệp vào các hoạt động của Hội đồng Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền đề cử Thủ tướng Chính phủ để Quốc hội bầu và căn cứ vào quyết định của Quốc hội tiến hành việc bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ.[12] Bên cạnh đó, Chủ tịch nước còn có quyền giám sát hoạt động của Hội đồng Chính phủ trong một số trường hợp nhất định. Cụ thể, Chủ tịch nước chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ, khi xét thấy cần thiết.[13] Việc chủ tọa của Chủ tịch nước tại các phiên họp của Hội đồng Chính phủ không phải là quyền đương nhiên, mà chỉ trong một số trường hợp nhất định.

Như vậy, so với Hiến pháp năm 1946, mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và cơ quan thực hiện quyền hành pháp đã có nhiều thay đổi, theo hướng các nhiệm vụ, quyền hạn, sự can thiệp của Chủ tịch nước có sự hạn chế hơn. Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959 không còn là người đứng đầu bộ máy hành pháp và trực tiếp thực hiện quyền hành pháp mà chủ yếu là giữ vai trò can thiệp và giám sát việc thực hiện quyền hành pháp.

1.3. Hiến pháp năm 1980

Hiến pháp năm 1980 đánh dấu cho thời kỳ độc lập, tự chủ, thống nhất đất nước và vận dụng nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa triệt để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì thế, các chế định trong Hiến pháp năm 1980 đã có rất nhiều thay đổi. Nguyên thủ quốc gia theo Hiến pháp năm 1980 là chủ tịch tập thể có tên gọi là Hội đồng nhà nước, người đứng đầu gọi là Chủ tịch Hội đồng nhà nước.[14] Đây là mô hình nguyên thủ quốc gia ở các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn này. Trong khi đó, cơ quan thực hiện quyền hành pháp được xác định là Hội đồng bộ trưởng[15] – là Chính phủ của nước ta giai đoạn này, đứng đầu Hội đồng bộ trưởng là Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.[16] Quy định này cho thấy Hội đồng bộ trưởng – cơ quan thực hiện quyền hành pháp là sự kế thừa từ Hiến pháp năm 1959. Điều này có nghĩa Hội đồng bộ trưởng có sự độc lập so với chế định nguyên thủ quốc gia là Hội đồng Nhà nước.

Sự độc lập này được thể hiện trước hết thông qua tổ chức bộ máy hành pháp. Quyền lực của nguyên thủ quốc gia theo Hiến pháp năm 1980 bị hạn chế hơn rất nhiều khi mà không còn quyền đề cử người đứng đầu Hội đồng bộ trưởng – Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Tuy nhiên, vì nguyên thủ quốc gia – Hội đồng Nhà nước cũng đồng thời là cơ quan thường trực của Quốc hội nên Hiến pháp năm 1980 đã tăng cường thẩm quyền giám sát của Hội đồng Nhà nước đối với Hội đồng bộ trưởng. Cụ thể, Hội đồng nhà nước đình chỉ việc thi hành hoặc sửa đổi, bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội đồng bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh; trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, ủy ban của nhà nước; trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng, các chủ nhiệm uỷ ban nhà nước.[17] Hội đồng bộ trưởng còn phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Hội đồng nhà nước.[18] Sự độc lập giữa chế định nguyên thủ quốc gia và cơ quan thực hiện quyền hành pháp còn được thể hiện thông qua quy định “thành viên của Hội đồng nhà nước không được đồng thời là thành viên Hội đồng bộ trưởng”.[19]

Như vậy, mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và cơ quan hành pháp được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 cho thấy vai trò, thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia trong hoạt động hành pháp có sự hạn chế hơn so với hai bản hiến pháp trước đó. Điều này xuất phát từ sự độc lập của hai chế định cũng như tính chất tập thể của chế định nguyên thủ quốc gia, theo xu hướng chung của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong giai đoạn này.

1.4. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

Đáp ứng yêu cầu cần có một bản hiến pháp mới trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)[20] đã ra đời với những quy định mới về tổ chức bộ máy nhà nước. Trong đó, chế định nguyên thủ quốc gia là cá nhân, thay cho chế định nguyên thủ quốc gia là tập thể trong Hiến pháp năm 1980 – vốn đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) được xác định là Chủ tịch nước – người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.[21] Việc quy định nguyên thủ quốc gia là cá nhân đã khắc phục những hạn chế của chế định nguyên thủ quốc gia là tập thể trong Hiến pháp năm 1980. Cơ quan thực hiện quyền hành pháp được xác định là Chính phủ “là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,[22] đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ.[23]

Trong mối quan hệ với cơ quan hành pháp, cũng giống như Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980, Chủ tịch nước không nằm trong bộ máy hành pháp, không trực tiếp điều hành Chính phủ. Chủ tịch nước chỉ tham gia vào việc thành lập Chính phủ, nhưng không bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ như trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 mà Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ.[24] Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.[25] Vì thế, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ không phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước, mà chỉ báo cáo công tác với Chủ tịch nước.[26]

Chủ tịch nước có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ.[27] Khi tham dự các cuộc họp của Chính phủ, Chủ tịch nước có quyền phát biểu ý kiến, nhưng không có quyền biểu quyết. Quy định như thế khác nào Chủ tịch nước chỉ họp “dự thính” mà không hề có thực quyền.[28] Bên cạnh đó, quy định này nhằm phát huy vai trò nguyên thủ quốc gia của Chủ tịch nước, nhưng quy định “xét thấy cần thiết” lại không rõ ràng, không tạo được cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện quyền này của Chủ tịch nước.

Nhìn chung, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) tiếp tục quy định phạm vi can thiệp vào quyền hành pháp của nguyên thủ quốc gia rất hạn chế. Nguyên thủ quốc gia chủ yếu thực hiện địa vị pháp lý là người đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nước với những nhiệm vụ, quyền hạn hiến định.

 

2. Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp trong Hiến pháp năm 2013

Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.[29] Với chủ trương này của Đảng, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) trở thành một yêu cầu cấp bách, nhất là đối với các chế định độc lập, trong đó có chế định Chủ tịch nước.

Hiến pháp năm 2013 quy định về chế định nguyên thủ quốc gia với những thay đổi mang tính tích cực. Nguyên thủ quốc gia được xác định là Chủ tịch nước, là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.[30] Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 kế thừa Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khi quy định về vị trí pháp lý, vai trò của Chủ tịch nước. Tuy nhiên, những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn Chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với cơ quan thực hiện quyền hành pháp có một số thay đổi.

Hiến pháp năm 2013 xác định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp.[31] Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ.[32] Trong mối quan hệ với Chính phủ, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa cách thức thiết lập Chính phủ và thẩm quyền giám sát của Chủ tịch nước đối với Chính phủ như trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Cụ thể, Chủ tịch nước có quyền “đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ”; “căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ”.[33] Như vậy, chế định Chủ tịch nước và chế định Chính phủ được hiến định là hai chế định độc lập. Chủ tịch nước không nắm quyền điều hành Chính phủ mà chỉ tham gia vào việc thành lập Chính phủ. Do đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ không chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước và chỉ có trách nhiệm báo cáo công tác trước Chủ tịch nước.[34] Việc báo cáo công tác trước Chủ tịch nước là một hoạt động thể hiện quyền giám sát của Chủ tịch nước đối với hoạt động của Chính phủ.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước “có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ và có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.[35] Quy định này là một bước tiến trong tư duy lập pháp ở nước ta nhằm tăng cường vai trò giám sát của nguyên thủ quốc gia đối với hoạt động của cơ quan hành pháp, khi Chủ tịch nước có quyền “yêu cầu” Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Quy định cũng khẳng định vai trò điều phối hoạt động, đảm bảo sự phân công và kiểm soát đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có Chính phủ – cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Tuy nhiên, với những quy định như vậy, sự tham dự và vai trò của Chủ tịch nước với các phiên họp của Chính phủ mang tính dự thính, Chủ tịch nước chỉ tham dự phiên họp Chính phủ như khách mời và rất bị động. Quy định như vậy, một mặt không tương xứng với vai trò của Chủ tịch nước. Mặt khác, Chủ tịch nước không có thẩm quyền tác động có hiệu quả vào hoạt động của Chính phủ nhằm thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực của mình.[36] Quyền tham dự phiên họp của nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp năm 2013 không có ý nghĩa hoạch định và thực thi chính sách mà thực chất chỉ là quyền mang tính chất giám sát hành pháp mà thôi.[37]

Như vậy, có thể thấy, những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thể hiện mối quan hệ giữa chế định này với Chính phủ – cơ quan hành pháp được quy định trong Hiến pháp năm 2013 vẫn rất hạn chế. Điều này có thể ảnh hưởng đến vai trò của Chủ tịch nước trong việc điều phối, kiểm soát hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nói chung và đặc biệt là hoạt động của Chính phủ nói riêng.

3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của nguyên thủ quốc gia trong mối quan hệ với cơ quan hành pháp ở nước ta

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.[38] Điều này đã được tái khẳng định thành một nguyên tắc ghi nhận tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013.[39] Quy định này của Hiến pháp cho thấy ba vấn đề: (i) quyền lực nhà nước là thống nhất; (ii) quyền lực nhà nước gồm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; (iii) quyền lực nhà nước phải có sự phân công, phối hợp và đặc biệt là kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Quy định trên đã đặt ra vấn đề về việc nguyên thủ quốc gia của nước ta ở vị trí pháp lý nào trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung, trong việc thực hiện quyền lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nói riêng. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc phân công rành mạch giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước là rất cần thiết. Đồng thời cần phải có cơ chế để các nhánh quyền lực này có sự phối hợp một cách hiệu quả, nhịp nhàng để đảm bảo việc thực hiện quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, việc kiểm soát quyền lực nhà nước cũng rất cần thiết và quan trọng. Việc kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp cần có những phương thức khác nhau và mang tính đồng bộ. Trong đó, đối với Chính phủ – cơ quan thực hiện quyền hành pháp rất cần những phương thức kiểm soát phù hợp. Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu bộ máy nhà nước thì việc Chủ tịch nước giữ vai trò phân công, điều phối hoạt động và kiểm soát việc thực hiện quyền lực của các nhánh quyền lực, đặc biệt là sự kiểm soát đối với Chính phủ là rất cần thiết.

Tuy nhiên, những quy định trong Hiến pháp năm 2013 cho thấy Chủ tịch nước – nguyên thủ quốc gia trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền hành pháp – Chính phủ vẫn còn có những hạn chế nhất định trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc thiết lập, vận hành bộ máy hành pháp hiện tại vẫn mang tính hình thức và thẩm quyền giám sát của Chủ tịch nước đối với hoạt động của bộ máy hành pháp vẫn chưa có cơ chế để thực hiện hiệu quả. Do đó, Chủ tịch nước chưa thể thành một trong những phương thức kiểm soát đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp theo tinh thần “kiểm soát quyền lực” mà Hiến pháp năm 2013 quy định. Vì lẽ đó, trong thời gian tới, cần thiết phải hoàn thiện chế định Chủ tịch nước, đặc biệt là trong mối quan hệ với Chính phủ, nhất là trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, quá trình hoàn thiện vị trí hiến định của nguyên thủ quốc gia cần phải được thực hiện đồng bộ, tương thích với sự thay đổi vị trí, vai trò và quyền hạn của các cơ quan hệ thống khác.[40] Vì lẽ đó, có thể nghiên cứu một số phương hướng sau đây để nâng cao vai trò của nguyên thủ quốc gia ở nước ta trong mối quan hệ với cơ quan hành pháp:

Một là, tăng cường vai trò của nguyên thủ quốc gia trong việc kiểm soát quyền lực của cơ quan thực hiện quyền hành pháp nói chung. Về nguyên tắc, những hoạt động kiểm soát quyền lực của nguyên thủ quốc gia đối với Chính phủ không cản trở hoạt động bình thường của Chính phủ nhưng có khả năng ngăn chặn sự lạm quyền một cách kịp thời và hiệu quả.[41] Vì thế có thể bổ sung một số thẩm quyền và cơ chế pháp lý phù hợp để tăng quyền giám sát của Chủ tịch nước với hoạt động của Chính phủ.

Theo đó, cần tăng cường tính thực chất về quyền của nguyên thủ quốc gia trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Cụ thể, bên cạnh việc giữ nguyên quy định hiện nay, Chủ tịch nước là người đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ và theo đề nghị của Thủ tướng và sự phê chuẩn của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thì cần phải quy định Chủ tịch nước có quyền “yêu cầu Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn để Chủ tịch nước miễn nhiệm, cách chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”. Trong trường hợp Thủ tướng từ chối thì Chủ tịch nước có quyền tự mình miễn nhiệm, cách chức đối với những chức danh này sau khi có sự phê chuẩn của Quốc hội.

Hai là, tăng cường thẩm quyền kiểm soát quyền hành pháp của nguyên thủ quốc gia đối với Chính phủ và các thành viên của Chính phủ thông qua cơ chế chịu trách nhiệm. Hiện tại, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và thành viên của Chính phủ không chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước, trong khi Chủ tịch nước là người đề nghị, bổ nhiệm đối với những chức danh này. Để tăng cường sự kiểm soát của Chủ tịch nước đối với Chính phủ thì cần thiết phải quy định rõ: “Thủ tướng Chính phủ, thành viên của Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước, báo cáo và giải trình các vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước”.

Ba là, tăng cường vai trò giám sát Chính phủ của Chủ tịch nước thông qua việc tham dự các kỳ họp của Chính phủ; yêu cầu Chính phủ họp để bàn về các vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Khi thực hiện quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ theo quy định của Điều 90 Hiến pháp năm 2013 thì “Chủ tịch nước có quyền chỉ đạo các vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước”. Khi yêu cầu Chính phủ họp để bàn về các vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì “Chủ tịch nước sẽ chủ tọa các phiên họp này”. Bên cạnh đó, quy định “xét thấy cần thiết” cũng phải làm rõ. Đây sẽ là cơ sở pháp lý để Chủ tịch nước thực thi hiệu quả quyền giám sát của mình, ràng buộc trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên Chính phủ, đồng thời tạo ra sự sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ trong hoạt động của Chủ tịch nước và Chính phủ.

Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định đảm bảo vai trò của nguyên thủ quốc gia – Chủ tịch nước trong mối quan hệ với cơ quan hành pháp – Chính phủ. Những quy định này nhằm tăng cường sự giám sát quyền lực đối với cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, để tương xứng với vị thế của nguyên thủ quốc gia và vai trò điều hòa, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhất là sự kiểm soát quyền hành pháp thì cần thiết phải có những nghiên cứu để nâng cao vai trò của nguyên thủ quốc gia trong mối quan hệ với cơ quan hành pháp, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

CHÚ THÍCH

[1] Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

[2] Điều 44 Hiến pháp năm 1946.

[3] Điểm d Điều 49 Hiến pháp năm 1946.

[4] Điều 47 Hiến pháp năm 1946.

[5] Điểm c Điều 49 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Chủ tịch nước ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ”.

[6] Điều 53 Hiến pháp năm 1946 quy định: “mỗi Sắc lệnh của Chính phủ phải có chữ ký của Chủ tịch nước Việt Nam và tùy theo quyền hạn các Bộ, phải có một hay nhiều vị Bộ trưởng tiếp ký. Các vị Bộ trưởng ấy phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện”.

[7] Điều 54 Hiến pháp năm 1946 quy định: “trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại”.

[8] Bùi Xuân Đức, Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 và sự phát triển qua các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992, Hiến pháp 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các bản Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 1998, tr. 301.

[9] Hồ Chí Minh, Về nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1990, tr. 234.

[10] Điều 62 Hiến pháp 1959 quy định: “Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là người thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về mặt đối nội và đối ngoại”.

[11] Điều 71 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

[12] Điều 63 Hiến pháp năm 1959.

[13] Điều 66 Hiến pháp năm 1959.

[14] Điều 98 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội đồng Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn được Hiếp pháp, các luật và nghị quyết của Quốc hội giao cho, quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, giám sát việc thi hành Hiến pháp, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và của Hội đồng Nhà nước, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Hội đồng Nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội”.

[15] Điều 104 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”.

[16] Điều 105 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Hội đồng Bộ trưởng gồm có: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Các bộ trưởng và Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước”.

[17] Điều 100 Hiến pháp năm 1980.

[18] Điều 112 Hiến pháp năm 1980.

[19] Điều 99 Hiến pháp năm 1980.

[20] Hiến pháp năm 1992 sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

[21] Điều 101 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).

[22] Điều 109 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).

[23] Điều 110 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: “Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội”.

[24] Khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao”

[25] Khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).

[26] Điều 109 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: “Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Điều 110 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: “Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.

[27] Điều 105 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).

[28] Cao Vũ Minh, “Hiến pháp mới với vị thế, vai trò của nguyên thủ quốc gia – Chủ tịch nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22, 2011.

[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 249.

[30] Điều 86 Hiến pháp năm 2013.

[31] Điều 94 Hiến pháp năm 2013.

[32]  Khoản 1 Điều 95 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”.

[33] Khoản 2 Điều 88 Hiến pháp năm 2013.

[34] Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”; Khoản 2 Điều 95 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.

[35] Điều 90 Hiến pháp năm 2013.

[36] Đỗ Minh Khôi (chủ biên), Chế định nguyên thủ quốc gia trong các Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2014, tr. 173.

[37] Đỗ Minh Khôi, “Đánh giá chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, 2014.

[38] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 83.

[39] Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

[40] Đỗ Minh Khôi, “Vai trò hiến định của nguyên thủ quốc gia”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2013.

[41] Đỗ Minh Khôi, tlđd, tr. 16.

Tác giả: Phạm Thị Phương Thảo – Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04(116)/2018 – 2018, Trang 10-17

Like Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Nghị viện trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước
Nghị viện trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước
Vị trí pháp lý của nguyên thủ quốc gia trong các chính thể
Vị trí pháp lý của Nguyên thủ quốc gia trong các chính thể
Sự ra đời và phát triển của chế định Nguyên thủ quốc gia
Sự ra đời và phát triển của chế định Nguyên thủ quốc gia
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong các bản Hiến pháp Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)
Vai trò hiến định của nguyên thủ quốc gia
Vai trò hiến định của nguyên thủ quốc gia
Đánh giá chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013
Đánh giá chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013

Chuyên mục: Hiến pháp/ Hiến pháp Việt Nam Từ khóa: Cơ quan hành pháp/ Mối quan hệ/ Nguyên thủ quốc gia/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2018

Previous Post: « Vị trí và tính chất pháp lý của đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt theo Hiến pháp năm 2013 và các văn bản có liên quan
Next Post: Pháp luật và đạo đức xã hội »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng