Mục lục
Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước
Tác giả: Tô Văn Hòa & Nguyễn Văn Thái
Trong các nhà nước hiện đại bao giờ cũng có các cơ quan nhà nước được trao quyền phân xử các tranh chấp trong xã hội. Ở Việt Nam, các cơ quan nhà nước đó lập thành hệ thống gọi là “Tòa án nhân dân”. Chương này giới thiệu tới sinh viên những vấn đề cơ bản, nền tảng về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án nhân dân; vai trò của Tòa án nhân dân; các nguyên tắc hiến định về tổ chức, hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân; cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án nhân dân; thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
1. Về chức năng: Tòa án – Hệ thống cơ quan riêng biệt thực hiện chức năng xét xử
Các Tòa án nhân dân của Việt Nam (sau đây gọi là “Tòa án”) lập thành hệ thống Tòa án nhân dân. Về mặt tổ chức, hệ thống Tòa án là hệ thống cơ quan riêng biệt trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Trong sơ đồ tổ chức của bộ máy nhà nước Việt Nam, hệ thống Tòa án hiện diện song song với các hệ thống cơ quan nhà nước khác như hệ thống cơ quan đại diện, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và hệ thống cơ quan kiểm sát nhân dân.
Công việc chính của Tòa án là xét xử các tranh chấp trong xã hội. Nếu như Quốc hội và các cơ quan nhà nước khác như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ… ban hành các quy phạm pháp luật có hiệu lực áp dụng chung thì Tòa án, thông qua hoạt động xét xử, cho thấy pháp luật là gì trong những trường hợp tranh chấp cụ thể trong đời sống. Tòa án là cơ chế do Nhà nước cung cấp để giải quyết các tranh chấp trong xã hội một cách hòa bình và văn minh, tránh tình trạng các bên tranh chấp “tự xử” mâu thuẫn của mình mà gây ra tình trạng rối loạn trong xã hội. Đây chính là quyền tư pháp của Nhà nước, được trao cho Tòa án thực hiện theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013. “Xét xử các tranh chấp” có nghĩa là phân xử ai đúng, ai sai tới đâu trong tranh chấp đó từ góc độ pháp lý và chế tài pháp lý đối với cái sai là gì. Một quyết định mang tính tư pháp – xét xử của Tòa án thường trải qua các công đoạn: (1) các bên trong vụ tranh chấp trình bày về vụ việc của mình với Tòa án; (2) Tòa án xác định nội dung của tranh chấp thông qua các chứng cứ; (3) nếu vấn đề có liên quan tới luật áp dụng thì xác định luật áp dụng và xem xét lập luận của các bên về luật áp dụng; (4) Tòa án phân tích áp dụng pháp luật vào tình huống cụ thể của tranh chấp và ra phán quyết.’ Do quyền tư pháp là của Nhà nước nên quyết định phán xử của Tòa án là quyết định giải quyết cuối cùng, có giá trị ràng buộc và bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Đó là lý do tại sao Nhà nước hình thành một hệ thống cơ quan thi hành án dân sự và hình sự để bảo đảm thực hiện phán quyết của Tòa án. Các bên tranh chấp, bao gồm cả cơ quan nhà nước, phải tuyệt đối tôn trọng và tuân thủ phán quyết của Tòa án.
Xem thêm bài viết về “Vị trí pháp lý“
- Vị trí, tính chất và chức năng của Chính phủ – ThS. Phạm Thị Tình
- Cách thức hình thành vị trí pháp lý của Chủ tịch nước – TS. Phạm Quý Tỵ
- Vị trí pháp lý của Nguyên thủ quốc gia trong các chính thể – TS. Phạm Quý Tỵ
- Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản trong hệ thống chính trị Việt Nam – GS.TS. Lê Minh Tâm
- Địa vị pháp lý của Hội trong hoạt động xây dựng pháp luật – TS. Đỗ Minh Khôi
1.1. Vị trí của Tòa án là hệ thống cơ quan riêng biệt thực hiện chức năng xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Như vậy, Tòa án là hệ thống cơ quan riêng biệt trong tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN. Việt Nam, được giao quyền lực nhà nước thực hiện chức năng xét xử các tranh chấp trong xã hội, hay còn gọi là chức năng thực hiện quyền tư pháp. Chức năng tư pháp – xét xử của Tòa án được thể hiện ở hai phương diện.
1.2. Tòa án là cơ quan xét xử chuyên nghiệp của Nhà nước
Thứ nhất, trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay, chức năng tư pháp chỉ được trao cho Tòa án, cũng giống như chức năng lập pháp chỉ được trao cho Quốc hội và chức năng hành pháp được trao cho Chính phủ. Nói cách khác, quyền phán xử của Nhà nước đối với các tranh chấp trong xã hội chỉ được trao cho Tòa án. Phán quyết của Tòa án mang tính quyền lực nhà nước và có giá trị bắt buộc thi hành, ngay cả đối với các cơ quan nhà nước.
1.3. Chức năng của Tòa án là xét xử – thực hiện quyền tư pháp
Trong thực tiễn, vẫn còn hiện tượng người dân có thói quen đem tranh chấp của mình tới “nhờ” các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết, ví dụ tranh chấp giữa người mua căn hộ chung cư và chủ đầu tư được đưa tới Thanh tra xây dựng; tranh chấp về đất đai được đưa ra Ủy ban nhân dân xã… Tuy nhiên đây chỉ là thói quen do các cơ quan hành chính nhà nước thường là cơ quan sát dân nhất; cơ quan thực sự có chức năng giải quyết những tranh chấp như vậy là Tòa án chứ không phải các cơ quan hành chính nhà nước.
Ngược lại, trong bộ máy nhà nước, một số cơ quan hành chính nhà nước thực hiện một số công việc tương tự hoạt động tư pháp, ví dụ cơ quan hành chính nhà nước cấp trên giải quyết khiếu nại hành chính đối với cơ quan hành chính cấp dưới… Việc trao các công việc mang tính chất tư pháp cho các cơ quan hành chính nhà nước xử lí, về mặt lý luận, là không thực sự phù hợp bởi cơ quan hành chính nhà nước có nguyên tắc vận hành khác với với quan tư pháp, từ đó có thể dẫn tới kết quả giải quyết tùy tiện, không thực sự thuyết phục đối với người dân. Vì vậy, trong trường hợp tiếp tục phát sinh tranh chấp, tức là người dân không đồng ý với cách giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước, Tòa án có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với các tranh chấp đó.
Thứ hai, Tòa án là cơ quan xét xử chuyên nghiệp. Thẩm quyền xét xử của Tòa án hiện nay bao gồm các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính. Trong vụ án hình sự, một bên là Nhà nước, được đại diện bởi Viện kiểm sát nhân dân, cáo buộc một hoặc một số chủ thể nào đó phạm tội hình sự; phía bên kia là người bị cáo buộc và luật sư của họ. Trong vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, các chủ thể mang tính chất tư, có thể là cá nhân hoặc tổ chức có tranh chấp với một chủ thể tư khác đã xâm hại quyền hay lợi ích hợp pháp của mình. Trong vụ án hành chính, một chủ thể tư, có thể là người dân hoặc doanh nghiệp, khởi kiện một cơ quan hành chính nhà nước vì đã vi phạm pháp luật khi thực hiện các hành vi quản lý hành chính và do đó ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, hệ thống Tòa án hiện nay có thẩm quyền xét xử hầu hết các loại tranh chấp trong xã hội từ các tranh chấp giữa các chủ thể tư với nhau, tới các vụ khởi kiện cơ quan hành chính nhà nước và các vụ án hình sự. Chỉ có một số ít các tranh chấp không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án, ví dụ tranh chấp về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật.
Cũng cần lưu ý rằng, ngoài chức năng xét xử các tranh chấp, Tòa án còn giải quyết một số việc dân sự theo quy định của pháp luật, ví dụ tuyên bố một người đã chết, mất tích, xác định một người mất năng lực hành vi dân sự v.v.. Tuy nhiên, các việc này không phải công việc chính của Tòa án. Chức năng, tức là lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Tòa án, vẫn là xét xử.
Ngoài Tòa án, ở Việt Nam hiện nay, cũng như các nhà nước hiện đại khác, có một số cơ quan có hoạt động xét xử chuyên nghiệp, ví dụ: Trung tâm trọng tài quốc tế (VIAC) bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam hay các trung tâm trọng tài thành lập theo pháp luật về trọng tài thương mại. Hoạt động của các trung tâm này có nhiều điểm tương đồng với hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, các trung tâm trọng tài không phải là cơ quan nhà nước. Mặc dù có hoạt động xét xử, song các trung tâm này không thực quyền tư pháp bởi các hoạt động xét xử đó không phải là chức năng mà nhà nước trao cho họ. Đây là các thiết chế mang tính chất tư nhân để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Khác với tính bắt buộc dựa trên quyền lực nhà nước của Tòa án, tính ràng buộc của phán quyết mà các thiết chế trọng tài này đưa ra về cơ bản dựa trên sự tự nguyện thực hiện của các bên. Để có hiệu lực bắt buộc mang tính pháp lí, các phán quyết đó phải thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành tại Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam.
Có quan điểm cho rằng quyền tư pháp mà Tòa án thực hiện là quyền bảo vệ pháp luật. Quan điểm này không sai, tuy nhiên chưa toàn diện. Như đã đề cập, quyền tư pháp là quyền của nhà nước xét xử mọi tranh chấp nảy sinh trên lãnh thổ quốc gia mình. Quyền tư pháp của nhà nước xuất phát từ nguyên tắc người dân không được tự giải quyết các tranh chấp, xung đột của mình mà phải qua cơ chế nhà nước phân xử một cách hòa bình và văn minh. Trong xã hội hiện đại, hầu như mọi lĩnh vực trong xã hội đều được điều chỉnh bởi pháp luật thực định do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Do vậy, hầu như các tranh chấp đều phát sinh từ các mối quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh và có liên quan tới vi phạm pháp luật. Khi xử án, Tòa án sẽ căn cứ vào pháp luật thực định hoặc hợp đồng đã giao kết giữa các bên để tiến hành xét xử. Trong trường hợp quan hệ phát sinh tranh chấp chưa được điều chỉnh bởi pháp luật thực định thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo tập quán hoặc theo lẽ công bằng. Như vậy, chỉ khi nào hiểu pháp luật ở nghĩa rộng nhất, tức là bao gồm cả pháp luật thực định, hợp đồng giao kết giữa các bên, tập quán và lẽ công bằng thì quyền tư pháp mới đồng nghĩa với quyền bảo vệ pháp luật.
Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 là bản hiến pháp đầu tiên quy định rõ Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Trong các bản hiến pháp trước hoặc chưa quy định rõ ràng hoặc chỉ quy định Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Như đề cập trên đây, về mặt bản chất, quyền tư pháp chính là quyền xét xử của nhà nước đối với các tranh chấp. Tuy nhiên, khi Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án thực hiện quyền tư pháp” thì có nghĩa là địa vị của Tòa án trong bộ máy nhà nước Việt Nam đã được nâng lên một bậc. Nếu chỉ quy định “Tòa án là cơ quan xét xử thì chỉ chú trọng tới khía cạnh hoạt động của Tòa án. Tòa án được giao xét xử hình sự hay dân sự mà không phải là tất cả các loại tranh chấp trong xã hội thì vẫn được gọi là cơ quan xét xử. Nếu quy định “Tòa án thực hiện quyền tư pháp” thì có nghĩa Tòa án là cơ quan phụ trách việc thực hiện một trong ba nhánh quyền lực nhà nước – quyền tư pháp – quyền phán xử của nhà nước đối với mọi tranh chấp trong xã hội. Thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có quyền phán xử hoặc phán xử cuối cùng đối với mọi tranh chấp trong xã hội.
Xem thêm bài viết về “Tòa án”
- Một số ý kiến về khoản 2 Điều 410 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của Tòa án) – ThS. Bành Quốc Tuấn
- Chức năng của Tòa án trong Tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp – PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí
- Tòa án với vai trò bảo đảm quyền con người trong mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Lê Lan Chi
- Trách nhiệm giải trình của Tòa án – Một số khía cạnh lí luận, pháp lí – GS.TS. Phạm Hồng Thái
- Minh bạch và đánh giá tính minh bạch trong hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Tòa án ở Việt Nam – PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí
2. Về vị trí: Tòa án – Cơ quan trung tâm của hoạt động tư pháp
Như trên đã đề cập, quyền tư pháp là quyền của nhà nước phán xử các loại tranh chấp trong xã hội. Tòa án thực hiện chức năng xét xử cũng chính là thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên, để quyền này được thực hiện thì không chỉ có hoạt động xét xử của Tòa án mà phải có sự tham gia của nhiều hoạt động của các cơ quan khác. Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động làm rõ tình tiết của vụ việc có dấu hiệu hình sự. Cơ quan kiểm sát thực hiện quyền đại diện nhà nước buộc tội một ai đó trước Tòa án đồng thời kiểm sát bảo đảm tuân thủ pháp luật đối với hoạt động tư pháp. Luật sư thực hiện quyền đại diện cho các bên tranh chấp và bào chữa trong các vụ án hình sự. Cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án hình sự bảo đảm thi hành các bản án đã có hiệu lực của Tòa án. Các hoạt động này, mặc dù không trực tiếp thực hiện quyền tư pháp, song đều có thể được gọi là các hoạt động tư pháp bởi chúng đều đóng góp vào quá trình thực hiện quyền tư pháp của Tòa án.
Trong tổng thể các hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử của Tòa án luôn đóng vai trò trọng tâm. Các hoạt động tư pháp khác kể trên đây đều có vai trò tham gia vào quá trình thực hiện quyền xét xử của Tòa án. Hoạt động điều tra, công tố, bào chữa đều hướng tới hoạt động xét xử và diễn ra trước hoặc trong quá trình xét xử. Kết quả của các hoạt động này được trình bày trong quá trình xét xử. Hoạt động thi hành án diễn ra sau quá trình xét xử và nhằm mục đích thực thi phán quyết của Tòa án. Như vậy, các hoạt động tư pháp đều xoay quanh hoạt động xét xử và Tòa án giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động tư pháp. Điều đó có nghĩa là cách thức hoạt động của Tòa án quyết định cách thức hoạt động của tổng thể hoạt động tư pháp của quốc gia. Mọi thay đổi, hay cải cách quan trọng trong lĩnh vực tư pháp của quốc gia phải lấy Tòa án làm trung tâm./.
Xem thêm bài viết về “Bộ máy nhà nước”
- Các nguyên tắc hiến định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Cấu trúc tổ chức của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Khái niệm bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân trong bộ máy nhà nước – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời