Thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình
TÓM TẮT
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân là một trong những quy định quan trọng trong luật tố tụng dân sự, xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện pháp luật và bảo vệ quyền công dân tại cơ quan xét xử. Về cơ bản, pháp luật về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong thời gian qua đã đáp ứng nhu cầu điều chỉnh pháp luật của xã hội và đạt được những thành quả nhất định. Tuy nhiên, trước yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam, sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật đặc biệt là Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các đạo luật có liên quan, đảm bảo trình tự và thủ tục tố tụng dân sự có tính khả thi, dân chủ, công khai, thuận lợi cho người tham gia tố tụng, việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án nhân dân là cần thiết và có tính cấp bách.
Xem thêm:
- Thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với công dân nước láng giềng ở khu vực biên giới – ThS. Lê Thị Mận & TS. Lê Vĩnh Châu
- Bàn về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính – TS. Lưu Quốc Thái
- Sửa đổi về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định tại BLTTDS năm 2015 – TS. Đặng Thanh Hoa & TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng
- Thẩm quyền của Tòa án Trung Quốc đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài – Kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam – TS. Phan Hoài Nam
TỪ KHÓA: Giải quyết tranh chấp, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 09/2015, Thẩm quyền, Tố tụng dân sự, Tòa án
1. Căn cứ quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình trong luật tố tụng dân sự
Đối với hoạt động lập pháp, khi xây dựng, ban hành một đạo luật, một chế định hoặc một quy định cụ thể, bao giờ nhà làm luật cũng căn cứ vào cơ sở lý luận, thực tiễn làm tiền đề để quy định về vấn đề đó. Quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình cũng phải xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh xã hội bằng luật.
1.1. Quyền tiếp cận công lý của công dân
Pháp luật Việt Nam luôn đề cao và tôn trọng quyền con người. Quyền con người phải bao hàm các quyền cơ bản và được luật hóa bằng các quy phạm pháp luật. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Bên cạnh việc xây dựng nhà nước pháp quyền, Việt Nam cũng từng bước bảo đảm quyền con người bằng các quy định của luật. Điều 3 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Cụ thể hóa quy định trên, các văn bản luật ghi nhận và đưa cơ chế bảo vệ quyền công dân thành một nội dung quan trọng. Nội dung này được cụ thể hóa tại Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) (BLTTDS năm 2004). Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều 311 BLTTDS năm 2004 quy định: “Tòa án áp dụng những quy định của Chương này, đồng thời áp dụng những quy định khác không trái với những quy định của Chương này để giải quyết những việc dân sự quy định tại Điều 26, 28 của Bộ luật này”.
Để bảo vệ quyền con người, Nhà nước thành lập các cơ quan tư pháp, thực thi các quy định của pháp luật. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền công dân, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của luật tố tụng”. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, cơ chế giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình được ghi nhận trong BLTTDS năm 2004. Điều 1 BLTTDS năm 2004 quy định: “Bộ luật Tố tụng Dân sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật”. Đây là tiền đề pháp lý quan trọng để Nhà nước khẳng định và ghi nhận quyền con người, tạo điều kiện để công dân tiếp cận công lý. Không chỉ vậy, việc tăng cường quyền tiếp cận công lý của công dân cũng đã được chỉ đạo cụ thể trong Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, với phương châm: “Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý”.
Quyền tiếp cận công lý là quyền cơ bản của công dân nên phải được ghi nhận trong luật. Phạm vi và mức độ quyền của công dân được ghi nhận trong luật là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ dân chủ của xã hội và mối liên hệ giữa nhà nước với xã hội đặt trong tổng thể phát triển của xã hội. Quyền tiếp cận công lý của công dân có thể hiểu là “khả năng của một cá nhân trong việc tìm kiếm và thu nhận được sự phản hồi đối với yêu cầu của cá nhân đó để giải quyết sự xung đột, khống chế được sự lạm dụng quyền lực và bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình một cách công bằng, thông qua một quá trình minh bạch, một cơ chế có tính khả thi và có trách nhiệm giải trình rõ ràng”.[1]
Như vậy, quyền tiếp cận công lý là quyền cơ bản và quan trọng của công dân và Nhà nước phải ghi nhận cũng như bảo đảm thực hiện quyền này bằng các thiết chế tư pháp hữu hiệu. Quyền con người gắn liền với quyền tiếp cận công lý cũng đã được ghi nhận tại Điều 1 Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp năm 1789: “Mọi người sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền; mọi phân biệt xã hội chỉ có thể đặt trên cơ sở lợi ích chung”. Nhà nước, xã hội có trách nhiệm tôn trọng quyền con người và không ai được xâm phạm, hạn chế, tước đoạt quyền này.
1.2. Quyền được bảo vệ bằng pháp luật và tự định đoạt của đương sự
Quyền được bảo vệ bằng pháp luật của công dân là quyền Hiến định. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình là một trong những nội dung cơ bản trong tố tụng dân sự, xác định quyền hạn của Tòa án đối với các vụ việc này. Theo đó, Nhà nước không chỉ bảo hộ quyền được yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền dân sự mà còn bảo đảm hiệu lực của các phán quyết do Tòa án tuyên. Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.[2] Đây là cơ sở pháp lý quan trọng không chỉ khẳng định quyền công dân được bảo vệ bằng pháp luật mà còn thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Quyền tự định đoạt là nội dung quan trọng, cơ bản trong luật dân sự. Trong luật tố tụng dân sự, quyền này được cụ thể hóa bằng nội dung cụ thể: đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.[3] Khi đương sự có quyền, lợi ích bị vi phạm, có tranh chấp, họ được lựa chọn hình thức bảo vệ quyền của mình theo hướng khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết hay dùng hình thức bảo vệ quyền hợp pháp khác. Khi đương sự lựa chọn hình thức khởi kiện thì Tòa án có trách nhiệm phải thụ lý giải quyết theo yêu cầu của đuơng sự.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là biểu hiện của mức độ tự do, dân chủ của công dân. Công dân có quyền được nhà nước bảo hộ bằng pháp luật và thực hiện sự bảo hộ đó bằng các thiết chế tư pháp. Trên nền tảng đó, công dân được hành xử theo ý chí của mình, lựa chọn hình thức hưởng quyền một cách tốt nhất, trọn vẹn nhất. Tương ứng với quyền tự định đoạt của đương sự là phạm vi thẩm quyền của Tòa án trong việc thực thi nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Với vai trò là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Tòa án có trách nhiệm phải thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
2. Pháp luật hiện hành về thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có quá trình phát triển và hoàn thiện dài, bắt đầu từ những văn bản đơn lẻ trước đây, đến các pháp lệnh được ban hành và bộ luật đang có hiệu lực điều chỉnh các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình trong thời điểm hiện tại. Cùng với sự hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự là sự hoàn thiện về thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình. Hiện nay, thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 25, 26, 27, 28 BLTTDS năm 2004. Với quá trình phát triển như vậy, các quy định về thẩm quyền này đã điều chỉnh một cách có hiệu quả đối với các vụ việc mà Tòa án đã thụ lý, giải quyết. Cụ thể:
– BLTTDS năm 2004 xác định cụ thể hơn về những quan hệ tranh chấp, các loại việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, đồng thời, có những quy định mới về tăng thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp, bảo đảm sự thuận lợi cho các đương sự khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
– BLTTDS năm 2004 xác định cụ thể hơn quyền của đương sự trong hoạt động tố tụng và đề cao quyền tự định đoạt của các đương sự trong việc giải quyết vụ án dân sự;
– Nguyên tắc tranh luận được bổ sung và việc bổ sung một số quy định cụ thể bước đầu thể hiện sự tăng cường tranh tụng tại phiên tòa. Đồng thời, kết quả tranh luận tại phiên tòa từng bước khẳng định và giữ vai trò đáng kể đối với kết quả giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, những hạn chế đã bộc lộ trong quá trình thực thi quy định này. Cụ thể:
– Việc quy định thẩm quyền của Tòa án theo phương pháp liệt kê các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình dẫn đến việc luật không bao quát hết được các loại tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ thực tiễn. Điều này dẫn đến hậu quả là Tòa án từ chối thụ lý giải quyết những vụ việc không được quy định trong luật nhưng trên thực tiễn công dân có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và không được bảo vệ;
– Một số khái niệm trong luật chưa bao hàm hết các loại tranh chấp trong thực tiễn hoặc khái niệm có tính chất chung chưa đảm bảo tính cụ thể hóa các loại tranh chấp, gây ra sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật giữa các Tòa án và giữa các cấp Tòa án khi thụ lý, giải quyết;
– Một số khái niệm trong luật về thẩm quyền còn dài dòng, lặp lại không cần thiết;
– Một số quy định trong luật về thẩm quyền cần được sửa đổi, bổ sung để phù hợp, tương thích với các luật mới ban hành nhưng chưa được cập nhật, điều chỉnh;
– Một số quy định về thẩm quyền của Tòa án có sự mâu thuẫn, từ đó dẫn đến hậu quả là có nhiều cách hiểu khác nhau và không thống nhất trong áp dụng pháp luật. Điều này ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của đương sự, nhiều trường hợp không giải quyết được vụ án hoặc không giải quyết triệt để vụ án.[4]
Với thực trạng pháp luật như trên, việc sửa đổi những hạn chế, bất cập là cần thiết và quan trọng. Để làm được điều này, trước hết cần thay đổi cách lập pháp về nội dung thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình. Đặc điểm chung của hoạt động lập pháp về thẩm quyền trong luật hiện nay là liệt kê toàn bộ các loại vụ việc theo quy định của luật nội dung thuộc thẩm quyền của Tòa án. Cách lập pháp này có những ưu điểm:
– Tòa án dễ dàng xác định thẩm quyền của mình đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền để thụ lý, giải quyết, đặc biệt ở Việt Nam chúng ta vẫn chủ trương xây dựng và thi hành theo luật thực định;
– Đương sự, người yêu cầu dễ dàng nhận diện những vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án và xác định cơ quan có nhiệm vụ phải bảo vệ quyền của mình;
– Nội dung của quy định về thẩm quyền là rõ ràng, cụ thể, ngắn gọn. Đương sự, người yêu cầu hay Tòa án không phải suy luận nhiều khi xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.
Tuy nhiên, cách lập pháp này lại chứa đựng nhiều hạn chế khi thực thi pháp luật về thẩm quyền xét xử như:
– Không bao quát tất cả các loại vụ việc mà luật nội dung quy định. Điều này là tất yếu. Càng liệt kê càng thiếu sót bởi nội hàm của luật nội dung rất rộng và thực tiễn thực thi pháp luật bao giờ cũng phong phú và đa dạng, nên luật tố tụng không thể liệt kê tất cả các quan hệ pháp luật nội dung vào luật tố tụng. Hơn nữa, phương pháp liệt kê sẽ làm nảy sinh những mâu thuẫn trong việc áp dụng pháp luật. Về nguyên tắc, Tòa án chỉ được thụ lý, giải quyết những trường hợp mà pháp luật tố tụng quy định (theo liệt kê) còn các tranh chấp khác, nếu luật không quy định, Tòa án không có thẩm quyền giải quyết. Điều này sẽ dẫn đến hậu quả là trong thực tiễn công dân có quyền bị xâm phạm và sự việc đó phù hợp với quy định của pháp luật nội dung nhưng theo luật tố tụng công dân không thể khởi kiện, yêu cầu.
– Cách lập pháp này không điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội mới nảy sinh. Chúng ta đều biết rằng, trong đời sống thực tiễn, các quan hệ xã hội luôn vận động, nảy sinh và ngày càng phong phú so với các quy định trong pháp luật. Sự phát triển không ngừng của xã hội đòi hỏi pháp luật phải có cơ chế mềm dẻo, dự liệu trước sự phát triển này và điều chỉnh chúng. Việc luật hóa nội dung thẩm quyền xét xử của Tòa án là hình thức loại trừ các quan hệ mới. Điều đó đồng nghĩa với việc quyền công dân sẽ bị hạn chế. Thay đổi cách lập pháp theo hướng uyển chuyển hơn là việc làm cần thiết và phù hợp.
– Giới hạn việc đương sự, người yêu cầu bảo vệ quyền của mình tại cơ quan Tòa án. Theo nguyên tắc chung, công dân có quyền được đòi hỏi nhà nước bảo vệ quyền của mình. Trách nhiệm của Tòa án là phải bảo vệ các hành vi tuân thủ pháp luật của công dân nhưng bị vi phạm, tranh chấp hoặc theo luật định thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết. Với ý nghĩa như trên, pháp luật về thẩm quyền phải bảo đảm khi có quyền bị xâm phạm, công dân phải được Tòa án bảo vệ. Pháp luật nói chung, pháp luật về thẩm quyền nói riêng không thể cản công dân bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ.
– Hạn chế quyền của Tòa án khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có trách nhiệm phải giải quyết tất cả các tranh chấp, yêu cầu phát sinh trong đời sống xã hội trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình. Việc luật tố tụng dân sự quy định quá chi tiết, cụ thể về thẩm quyền sẽ làm cho người tiến hành tố tụng lúng túng trong việc xác định thẩm quyền vụ việc. Điều này đồng nghĩa với việc pháp luật về thẩm quyền sẽ không được áp dụng nhất quán, đồng bộ trong quá trình áp dụng pháp luật hoặc không giải quyết quyền lợi chính đáng của đương sự, người yêu cầu.
3. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình trong Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi và đề xuất
Từ thực trạng pháp luật về thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, vấn đề đặt ra là phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội, thực tiễn thi hành pháp luật và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Cần mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự, người yêu cầu tham gia tố tụng, bảo đảm nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình trong Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi đã có sự chuyển biến tích cực. Cụ thể, quyền khởi kiện, yêu cầu của đương sự, người yêu cầu trong tố tụng dân sự được mở rộng. Khoản 2 Điều 4 Dự thảo quy định: “Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”. [5]
Căn cứ để xây dựng quy định này trong Dự thảo là:
– Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ đạo: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến tòa án, tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”, và “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.
– Khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”.
– Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án 2014 quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.
Với chỉ đạo, định hướng như trên, có thể khẳng định: một là, Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng đề cao quyền con người trong pháp luật cùng với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ, văn minh, hiện đại. Đây là xu thế tất yếu của thời đại, thể hiện sự hội nhập quốc tế về công tác tư pháp, xu thế phát triển của xã hội trong tương lai. Hai là, tăng cường quyền của công dân theo hướng mở rộng nội dung quyền khởi kiện, yêu cầu của đương sự, người yêu cầu đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình là chủ trương đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn xã hội, thực tiễn khách quan của hoạt động tư pháp.
Những ý kiến lo ngại về khoản 2 Điều 4 Dự thảo BLTTDS sửa đổi:
– Pháp luật của Việt Nam là pháp luật thực định và căn cứ để áp dụng pháp luật cũng theo nguyên tắc trên. Quy định này sẽ dẫn đến hệ quả là vì không có điều luật nên Tòa án không có căn cứ để xét xử. Án lệ chưa phải là một nguồn luật chính thức. Việc áp dụng nguyên tắc tương tự và theo lẽ công bằng sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện;[6]
– Quy định này không phù hợp với Hiến pháp, với quy định Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và mâu thuẫn với nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi nhà nước trước hết phải có luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức và cá nhân phải thượng tôn pháp luật;
– Công dân lợi dụng quy định này để khởi kiện nhằm mục đích xâm phạm chế độ xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng đến chế độ chính trị;
– Quy định này là không phù hợp, thiếu tính khả thi vì nếu dựa vào phong tục, tập quán để quyết định thì cùng một vụ việc, các Tòa án khác nhau có cách giải quyết và cho ra các kết quả rất khác nhau. Điều này làm cho hệ thống pháp luật bị chia cắt, thiếu thống nhất;
– Sẽ xuất hiện hiện tượng là số vụ việc dân sự mà Tòa án giải quyết sẽ tăng đột biến do nhiều đương sự khởi kiện cùng lúc trong khi đó, số lượng con người, bộ máy Tòa án hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc Tòa án không chấp nhận yêu cầu của đương sự sẽ làm mất thời gian, tiền bạc của người dân, Tòa án phải bố trí thêm cán bộ, kinh phí và cơ sở vật chất để giải quyết, xã hội sẽ thiếu ổn định hơn. Chưa kể trong nhiều vụ án có thể không thi hành án được dẫn đến hậu quả là án tồn đọng tăng cao;
– Nếu quy định Tòa án phải xét xử những vụ việc không có điều luật để áp dụng có thể dẫn tới áp dụng pháp luật tùy tiện và tạo ra cơ chế để Tòa án có thể “tự làm ra luật”.[7]
Theo tác giả, quy định tại khoản 2 Điều 4 Dự thảo BLTTDS sửa đổi về Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng cần được ghi nhận trong luật. Cơ sở để quy định này được luật hóa là:
Một là, căn cứ vào định hướng xây dựng và thi hành pháp luật tại Việt Nam, với các viện dẫn ở trên (Nghị quyết 49-NQ/TW, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014), Việt Nam ngày càng tăng cường việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Mở rộng quyền công dân trong việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết những vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là không trái Hiến pháp năm 2013, pháp luật và nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Tuy Hiến pháp và các văn bản pháp luật không đề cập trực tiếp vấn đề này nhưng tinh thần chung của pháp luật Việt Nam là bảo vệ tối đa quyền của công dân khi họ có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và yêu cầu Tòa án giải quyết. Chúng ta không thể duy trì tình trạng bất hợp lý là công dân có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nhưng không được bảo vệ. Vướng mắc này xuất phát từ quy định của pháp luật tố tụng về thẩm quyền xét xử và điều kiện khởi kiện, bởi theo pháp luật hiện hành, Tòa án chỉ giải quyết những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình nếu vụ việc đó thuộc thẩm quyền của Tòa án và được quy định trong luật tố tụng dân sự. Điều này đi ngược lại với nguyên tắc chung là “công dân được làm những gì pháp luật không cấm”. Trong khi đó, công dân chấp hành pháp luật để thực hiện các giao kết, xác lập các quan hệ xã hội được luật cho phép nhưng khi xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn lại không được hỗ trợ từ phía Nhà nước về giải quyết hậu quả. Điều này là phi lý và không đúng với tinh thần của pháp luật. Quyền khởi kiện, yêu cầu của công dân phải xuất phát từ sự công bằng, lẽ phải, từ tinh thần chung của pháp luật.
Hai là, về điều kiện để áp dụng khoản 2 Điều 4 Dự thảo. để áp dụng quy định này chắc chắn Tòa án không căn cứ vào luật mà dựa vào các căn cứ sau: án lệ, tập quán và quy định tương tự của pháp luật.
Về án lệ, sự lo ngại của nhà lập pháp về án lệ là có căn cứ. Sự lo ngại này xuất phát từ tính mới của án lệ ở Việt Nam. Tuy các nước trên thế giới đã áp dụng án lệ trong việc xét xử các vụ việc dân sự có tính phổ biến nhưng ở Việt Nam cho đến nay vai trò của án lệ vẫn chưa được quy định trong luật và áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là không nên quy định và áp dụng án lệ trong xét xử dân sự. Chúng ta đã tiếp cận, nghiên cứu, học hỏi về án lệ khá nhiều và bước đầu đã có kinh nghiệm trong việc xây dựng án lệ. Điều 21 Dự án Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi đã đề cập vấn đề này. Tòa án nhân dân tối cao đã có thời gian dài nghiên cứu về án lệ và cùng với việc biên soạn Dự án Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, cơ quan này cũng trình hai văn bản về án lệ là Dự thảo nghị quyết về án lệ và Dự thảo Tờ trình về quy trình ban hành án lệ. Việc ngần ngại áp dụng án lệ là không thuyết phục.
Về tập quán, Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này”. Quy định này kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995[8]. Điều này được hiểu là căn cứ pháp luật về áp dụng tập quán đã được quy định khá lâu trong luật. Vấn đề còn lại là xác định những tập quán nào là căn cứ để Tòa án dựa vào để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Khoản 4 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng”. Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”.
Hướng dẫn thi hành về điều khoản này, tại Điều 4 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 về chi tiết về áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình, chế độ tài sản của vợ chồng, giải quyết các việc về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và một số biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Trường hợp giải quyết vụ, việc hôn nhân và gia đình có áp dụng tập quán thì thực hiện việc hòa giải theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, khuyến khích sự tham gia hòa giải của người có uy tín trong cộng đồng, chức sắc tôn giáo. Trường hợp hòa giải không thành hoặc vụ, việc hôn nhân và gia đình có áp dụng tập quán không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở thì Tòa án giải quyết vụ, việc đó theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự”. Điều 6 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cũng quy định: “Trong thời hạn ba năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt danh mục các tập quán về hôn nhân và gia đình được áp dụng tại địa phương. Căn cứ vào thực tiễn áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp sửa đổi, bổ sung danh mục tập quán đã ban hành”.[9]
Như vậy có thể kết luận: tập quán trong lĩnh vực dân sự và hôn nhân và gia đình đã được quy định trong luật và đang được tập hợp, thông qua để áp dụng.
Về áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng tương tự pháp luật có thể hiểu là dùng những quy phạm pháp luật đang có hiệu lực đối với những quan hệ tương tự như quan hệ cần xử lý để điều chỉnh quan hệ cần xử lý đó, nhưng không có quy phạm trực tiếp điều chỉnh. Đây là những quan hệ xã hội mà pháp luật chưa dự liệu, chưa có quy định nhưng trong thực tiễn đã nảy sinh quan hệ gần giống như quan hệ mà pháp luật đã quy định nên Tòa án sử dụng quy định hiện có gần giống để giải quyết quan hệ đã nảy sinh mà chưa được luật hóa. Đối với vấn đề này luật pháp nước ta đã có quy định từ lâu và trên thực tiễn, Tòa án đã áp dụng quy định đó để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Từ đó, có thể khẳng định quy định: “Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” trong Dự thảo Dự án Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi là có cơ sở khoa học và có căn cứ.
Tóm lại, luật hóa một quy định mới cần phải thận trọng, cân nhắc nhưng không thể không quy định khi vấn đề đó đã có những luận cứ, kinh nghiệm để xây dựng, ban hành. Vấn đề quan trọng là những quy định này phải xuất phát yêu cầu của xã hội, được sự đồng thuận của nhân dân, phát huy được hiệu quả trong việc điều chỉnh, không trái với Hiến pháp, pháp luật và phù hợp với xu thế chung của sự phát triển. Chúng tôi xin mượn phát biểu của người đứng đầu ngành Tòa án thay cho lời kết “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân. Việc gì dân yêu cầu chính đáng phải giải quyết. Nếu chưa có luật là do lỗi của Nhà nước, không phải lỗi của dân. Phải dành khó khăn về cho Nhà nước chứ không phải đẩy khó khăn cho người dân”.[10]
CHÚ THÍCH
* TS, Trưởng Bộ môn Luật Tố tụng dân sự và Hôn nhân gia đình, Khoa Luật Dân sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Trịnh Tiến Dũng, Chương trình Hội thảo “Tiếp cận với pháp luật và Tư pháp trong pháp luật Việt Nam”, ngày 21 và 22/6/2007, Hà Nội – Trung tâm thông tin tư vấn pháp luật Việt – Mỹ Trực thuộc Hội Luật gia Việt Nam.
[2] Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
[3] Điều 5 BLTTDS năm 2004.
[4] Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự của Tòa án nhân dân tối cao.
[5] Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi lần 3.
[6] Tờ trình số 03/TTr-TANDTC, ngày 09/4/2015 về Dự án Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi.
[7] Tổng hợp các ý kiến của đại biểu Quốc hội trên các báo.
[8] Điều 14 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định: “Nguyên tắc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật. Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận, thì có thể áp dụng tập quán hoặc quy định tương tự của pháp luật, nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này”.
[9] Ban hành kèm theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ là Phụ lục danh mục các tập quán về hôn nhân và gia đình vận động xóa bỏ hoặc cấm áp dụng.
[10] Trương Hòa Bình, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, bài viết “Nóng chuyện dân kiện tòa không được từ chối” truy cập lúc 16h ngày 16/6/2015.
- Tác giả: TS. Nguyễn Văn Tiến*
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 09(94)/2015 – 2015, Trang 10-17
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời