Mục lục
Các nguyên tắc hiến định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tác giả: Tô Văn Hòa
Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo chi phối tổ chức và hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các nguyên tắc này được quy định trong Hiến pháp và do đó chúng không chỉ là những quan điểm, tư tưởng thông thường mà đã trở thành những quy phạm bao quát điều chỉnh và định hình bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay. Hiểu về những nguyên tắc cơ bản sẽ giúp hiểu và giải thích được mô hình và sự vận hành của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như những đặc thù của nó, đồng thời phát hiện những bất cập của bộ máy nhà nước trong hiện tại và đưa ra được đề xuất phù hợp nhằm khắc phục những bất cập để bộ máy nhà nước tổ chức và hoạt động phù hợp với những quan điểm, tư tưởng chủ đạo đã được quy định trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 hiện quy định sáu nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nguyên tắc chủ quyền nhân dân; Nguyên tắc quyền lực thống nhất; Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; Nguyên tắc Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước; Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cũng cần lưu ý, đây là những nguyên tắc cơ bản, có nghĩa là những nguyên tắc bao quát và tác động lên toàn bộ bộ máy nhà nước hiện nay của Việt Nam cũng như từng cơ quan nhà nước. Bên cạnh các nguyên tắc cơ bản này, các cơ quan nhà nước, tuỳ vào tính chất của chúng, có thể có những nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù. Ví dụ: Quốc hội có nguyên tắc thảo luận và quyết định tập thể; hệ thống Tòa án nhân dân có nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc tranh tụng; hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có nguyên tắc thống nhất lãnh đạo trong ngành; hệ thống cơ quan hành chính có nguyên tắc mệnh lệnh – phục tùng…
Xem thêm bài viết về “Nguyên tắc hiến định”
- Những nguyên tắc hiến pháp của chế định quyền con người, quyền công dân – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
1. Nguyên tắc chủ quyền nhân dân
Nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân” hay còn gọi là nguyên tắc “Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, là nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên tắc này thiết lập nền tảng để hình thành toàn bộ bộ máy nhà nước. Như trên đã đề cập, quyền lực nhà nước là thứ ý chí duy nhất có giá trị bắt buộc đối với tất cả mọi người sinh sống trên lãnh thổ của quốc gia, nó cũng là thứ quyền lực cao nhất và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Quyền lực nhà nước được thực hiện trực tiếp đối với xã hội thông qua bộ máy nhà nước. Nói cách khác, bộ máy nhà nước chính là sự hiện thân của quyền lực nhà nước, là chủ thể áp đặt ý chí bắt buộc đối với toàn xã hội. Như vậy, vấn đề quan trọng và nền tảng nhất của bộ máy nhà nước ở mọi quốc gia là quyền lực nhà nước thuộc về ai và được thực hiện qua cơ chế nào? Ở Việt Nam, câu hỏi này được trả lời bằng nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân” với những nội dung sau:
Thứ nhất, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, cũng giống nhiều nước khác trên thế giới, quyền lực nhà nước ở Việt Nam không thuộc về một người hay một tầng lớp riêng nào mà thuộc về toàn thể Nhân dân. “Nhân dân” ở đây là một khái niệm bao trùm toàn thể công dân Việt Nam mà như Hiến pháp đã chỉ rõ là không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo, dân tộc, giai cấp, tín ngưỡng, tôn giáo… Trong khái niệm “Nhân dân” thì mọi người bình đẳng với nhau mà không có bất kì sự phân biệt nào. Khái niệm “Nhân dân” cũng bao hàm sự bình đẳng giữa các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chính là bộ phận đông đảo nhất – tầng lớp nhân dân lao động, chiếm tuyệt đại đa số trong khái niệm Nhân dân và có ý thức hệ tiên tiến trong xã hội. Do đó, bộ phận này được xác định là nền tảng để thực hiện quyền lực nhà nước của Nhân dân; xác định như vậy cũng để bảo đảm việc thực hiện quyền lực nhà nước thực sự vì lợi ích của đa số trong xã hội. Chính vì quyền lực nhà nước xuất phát từ Nhân dân nên bộ máy nhà nước Việt Nam cũng phải xuất phát từ Nhân dân, từ đó hình thành chính thể Cộng hoà.
Thứ hai, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 xác định hai hình thức để Nhân dân Việt Nam thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức thứ nhất là người dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình để quyết định công việc của nhà nước, bởi vì về nguyên lí quyền lực thuộc về ai thì do người đó thực hiện. Khi có những công việc hệ trọng của đất nước cần ý kiến quyết định của người dân thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức để người dân thể hiện ý chí lựa chọn của mình; sau đó các cơ quan nhà nước thực thi theo quyết định của người dân. Thủ tục này gọi là Trưng cầu dân ý và là hình thức dân chủ trực tiếp. Tuy nhiên, khái niệm “Nhân dân” có phạm vi hết sức rộng lớn, bao gồm hàng trăm triệu công dân Việt Nam. Do đó, không phải bất kì công việc nào cũng có thể được quyết định bằng hình thức dân chủ trực tiếp bởi vì như vậy rất tốn kém và khó khả thi. Tuyệt đại đa số công việc của Nhà nước sẽ được quyết định theo hình thức thứ hai, tức là bởi những người đại diện do Nhân dân bầu ra, đó chính là đại biểu Quốc hội ở trung ương và đại biểu Hội đồng nhân dân ở địa phương. Những đại biểu này đại diện cho Nhân dân biểu quyết công việc của Nhà nước và chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định mà mình đưa ra. Mối quan hệ giữa các đại biểu và người dân là mối quan hệ giữa người đại diện (the agent) và người chủ (the principal). Người dân là chủ, bầu ra người đại diện để thay mặt mình đưa ra các quyết định thực hiện quyền lực nhà nước. Khi người đại diện không còn được tín nhiệm của Nhân dân thì Nhân dân có quyền bãi nhiệm họ hoặc không bầu chọn họ làm người đại diện nữa. Từ các cơ quan đại diện của nhân dân hình thành nên các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước và như vậy cả bộ máy nhà nước đều bắt nguồn từ Nhân dân. Bộ máy nhà nước vận hành theo cách này được được gọi là chính quyền đại diện.
Thứ ba, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tuỵ phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân. Nội dung này là hệ quả tất yếu của nội dung thứ nhất. Khi quyền lực nhà nước là của Nhân dân thì bộ máy nhà nước cũng là của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra và phục vụ lợi ích của Nhân dân. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước ấy cũng phải thực sự thể hiện được mối quan hệ phục vụ đối với Nhân dân theo tinh thần trên.
Nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân” đã được ghi nhận ngay từ bản hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp năm 1946 và được kế thừa trong suốt lịch sử lập hiến của Việt Nam. Tất nhiên, nội dung của nguyên tắc này thể hiện qua các quy định của hiến pháp trong từng giai đoạn không phải lúc nào cũng giống nhau. Ở Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc đã được phát triển một cách toàn diện hơn so với trước đó.
Mặc dù vậy, có thể thấy, nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân” có tính lí tưởng hoá cao, đặc biệt là nội dung thứ ba. Trên thực tế không phải cơ quan, cán bộ nhà nước nào cũng thể hiện được rằng mình đang thực sự phục vụ Nhân dân; đặc biệt không phải lúc nào mỗi người dân cũng cảm nhận được rằng mình đang được phục vụ. Để nguyên tắc này thực sự được áp dụng một cách có ý nghĩa cần có nhiều biện pháp và công cụ khác nhau. Tuy nhiên, về mặt pháp lí có ba loại công cụ hết sức quan trọng, đó là khung pháp lí để thực hiện các cuộc trưng cầu dân ý, khung pháp lí về bầu cử, khung pháp lí về chế độ minh bạch thông tin và cơ chế pháp lí kiểm soát, bảo đảm các vi phạm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước đều có thể bị phơi bày và bị xử lí.
Trên bình diện thế giới, nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân” cũng đã xuất hiện từ lâu trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ngay từ cuối thế kỉ XVII, John Locke, nhà tư tưởng vĩ đại người Anh, đã nói tới nguyên nhân ra đời xã hội chính trị và chính quyền dân sự là do người dân tự nguyện từ bỏ tự do của mình để được sống trong một xã hội an toàn hơn cho chính bản thân mình; mục đích của chính quyền dân sự là phục vụ người dân; chính quyền dân sự không thể đưa ra các quyết định quan trọng mà không được chính người dân hoặc cơ quan đại diện của họ phê chuẩn.’ Giữa thế kỉ XVIII, Rousseau, nhà tư tưởng người Pháp, đã bàn chi tiết về cách thức thành lập chính quyền trên cơ sở sự đồng ý của người dân mà ông gọi là “Khế ước xã hội” hay ý chí chung của toàn xã hội; chủ quyền tối cao phải là sự thực hiện ý chí chung này và không thể tự nó từ bỏ ý chí chung đó được. Cuối thế kỉ XIX, John Stuart Mill, triết gia và nhà kinh tế chính trị học người Anh, ca ngợi rằng hình thức ưu việt nhất của chính quyền là chính quyền đại diện. Ở góc độ thực tiễn đời sống chính trị, Abraham Lincoln, Tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kì thứ 16 (1861 1865), trong bài phát biểu nổi tiếng của mình tại Gettysburg ngày 19 tháng 11 năm 1863 sau cuộc nội chiến Hoa Kỳ đã sử dụng cụm từ nổi tiếng: “nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (government of the people, by the people, for the people)* như một bộ máy nhà nước lí tưởng mà người dân Mỹ phải xây dựng sau cuộc nội chiến. Bên cạnh đó, Hiến pháp, đạo luật cơ bản và là biểu tượng của chủ quyền tối cao của nhiều quốc gia cũng khẳng định trong lời mở đầu cũng như thể hiện trong các điều khoản rằng nhân dân là người chủ của quyền lực nhà nước và là người làm ra hiến pháp.’ Như vậy, cũng có thể nói nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân” là một thành quả tư tưởng chính trị – pháp lí của nhân loại mà Việt Nam đã tiếp thu và áp dụng, trên cơ sở phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam từ rất sớm trong lịch sử lập hiến của mình.
Xem thêm bài viết về “Tổ chức bộ máy nhà nước”
- Cấu trúc tổ chức của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – CTV. Linh Trang
2. Nguyên tắc quyền lực thống nhất
Nguyên tắc “quyền lực thống nhất” hay “quyền lực nhà nước thống nhất” còn có tên gọi đầy đủ là “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” như nguyên văn quy định tại khoản 2 Điều 3 Hiến pháp năm 2013. Đây là nguyên tắc nền tảng quan trọng thứ hai của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau nguyên tắc “chủ quyền nhân dân”. Nếu nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” đề cập tới vấn đề quyền lực nhà nước thuộc về ai thì nguyên tắc “quyền lực thống nhất” đề cập tới vấn đề quyền lực nhà nước ở Việt Nam được tổ chức thực hiện trong bộ máy nhà nước như thế nào. Nguyên tắc thứ nhất thiết lập cơ sở, nền tảng hình thành bộ máy nhà nước; nguyên tắc thứ hai quyết định thiết kế mô hình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để hiểu về nguyên tắc “quyền lực thống nhất, trước tiên cần đề cập tới Thuyết phân quyền. Như đề cập ở phần đầu chương, quyền lực nhà nước là thứ quyền lực duy nhất có giá trị bắt buộc đối với tất cả mọi người sinh sống trên lãnh thổ của quốc gia. Đó là góc nhìn trừu tượng về quyền lực nhà nước. Ở góc nhìn giải phẫu, quyền lực nhà nước bao gồm ba nhánh quyền là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiểu một cách đơn giản, quyền lập pháp là quyền đặt ra pháp luật, hay còn gọi là đặt ra ý chí chung để toàn xã hội phải tuân theo, ý chí chung đó được thể hiện thành pháp luật; quyền hành pháp là quyền thi hành pháp luật; và quyền tư pháp là bảo vệ pháp luật. Sự “mổ xẻ” quyền lực nhà nước thành ba quyền như vậy là sản phẩm của Thuyết phân quyền do hai học giả vĩ đại John Locke và Montesquieu khởi xướng từ giữa thế kỉ XVII. Theo Thuyết phân quyền, nếu ba quyền trên đây được nắm giữ và thực hiện bởi một người hay một cơ quan, cho dù là cơ quan tập thể, thì sẽ tạo ra chuyên quyền, áp bức, phản dân chủ; ba quyền được tách ra và được thực hiện bởi những cơ quan khác nhau thì mới tạo ra chế độ dân chủ và tự do. Đây cũng chính là quan điểm hạt nhân hết sức đúng đắn và tiến bộ của Thuyết phân quyền. Chính vì vậy mà ngay từ khi được khởi xướng, Thuyết phân quyền đã trở thành nền tảng xây dựng bộ máy nhà nước tư sản với sự xuất hiện của các cơ quan nghị viện, chính phủ, tòa án. Cho tới nay, có thể nói Thuyết phân quyền đã trở thành nguyên tắc chung được áp dụng trong tổ chức của hầu hết bộ máy nhà nước hiện đại trên thế giới. Tất nhiên, Thuyết phân quyền không dẫn tới một mô hình tổ chức bộ máy nhà nước duy nhất mà thực chất nó là một “công cụ đa năng” thiết kế bộ máy nhà nước dựa trên tư tưởng cốt lõi là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được thực hiện bởi các cơ quan khác nhau. Các quốc gia, tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội của mình sẽ áp dụng thuyết này theo cách của mình chủ yếu thể hiện ở mức độ tách biệt giữa các cơ quan thực hiện các quyền trong bộ máy nhà nước của quốc gia đó.
Có thể nói, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã thể hiện sự ứng dụng Thuyết phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở mức độ kết hợp với tư tưởng chủ đạo truyền thống là tư tưởng Tập quyền. Sự kết hợp này được đúc kết thành nguyên tắc “Quyền lực tập trung” với hai nội dung sau: Thứ nhất, quyền lực nhà nước ở Việt Nam là thống nhất. Sự thống nhất ở đây thể hiện ở hai phương diện. Về phương diện chính trị, quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở Nhân dân, thể hiện qua nguyên tắc “Chủ quyền nhân dân” như phân tích trên đây. Về phương diện tổ chức thực hiện, quyền lực nhà nước thống nhất ở Quốc hội. Như trên đã đề cập, dân chủ đại diện là phương thức Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua người đại diện của mình. Quốc hội là cơ quan duy nhất do Nhân dân cả nước bầu ra và như vậy là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân. Thông qua hình thức dân chủ đại diện, Nhân dân trao toàn bộ quyền lực của mình cho Quốc hội. Dưới góc nhìn của Thuyết phân quyền thì quyền lực được trao bao gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy là từ “quyền lực thống nhất ở Nhân dân”, bằng cơ chế dân chủ đại diện, đã trở thành “quyền lực thống nhất ở Quốc hội” để quyền lực được tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước. Sự thống nhất quyền lực này không gây ra chuyển quyền mà chỉ càng bảo đảm hơn tính dân chủ của bộ máy nhà nước bởi vì Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, có mối quan hệ chặt chẽ và chịu trách nhiệm trước Nhân dân thông qua chế độ bầu cử. Hơn nữa, quyền lực thống nhất ở Quốc hội không có nghĩa là Quốc hội trực tiếp thực thi tất cả các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều này thể hiện rõ ở nội dung thứ hai của nguyên tắc “quyền lực thống nhất”.
Thứ hai, mặc dù Quốc hội là nơi thống nhất quyền lực nhà nước song Quốc hội không trực tiếp thực hiện cả ba quyền mà trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nội dung này thể hiện sự áp dụng thành tựu của Thuyết phân quyền trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội không trực tiếp thực hiện cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mặc dù cơ quan này là nơi thống nhất quyền lực. Ba quyền này được phân công cho các cơ quan nhà nước để thực hiện. Quốc hội giữ lại quyền lập pháp’ để trực tiếp thực hiện bởi vì quyền lập pháp là quyền quan trọng nhất trong ba quyền, là quyền áp đặt ý chí chung lên toàn xã hội; hai quyền còn lại ở góc độ nào đó đều mang tính chấp hành của quyền lập pháp. Quyền hành pháp được giao cho Chính phủ và quyền tư pháp được giao cho các TAND. Có phân công như vậy mới bảo đảm việc thực hiện quyền không dẫn tới lạm quyền, đồng thời bảo đảm tính chuyên nghiệp và hiệu quả của mỗi quyền. Tuy nhiên, ba cơ quan này không thực hiện các quyền được giao một cách hoàn toàn riêng rẽ mà luôn có sự phối hợp để thực hiện từng quyền một cách hiệu quả, ví dụ Chính phủ, Tòa án phối hợp với Quốc hội để thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ phối hợp với toà án để thực hiện quyền tư pháp. Không những phối hợp, giữa các cơ quan nhà nước còn có sự kiểm soát lẫn nhau để bảo đảm không có sự lạm quyền trong quá trình thực hiện các quyền nói trên, ví dụ Quốc hội giám sát Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát, Tòa án kiểm soát đối với các cơ quan hành chính nhà nước; trong nội bộ hệ thống hành chính nhà nước do Chính phủ đứng đầu cũng có cơ chế kiểm soát riêng. Yếu tố “kiểm soát quyền lực” là một nét mới quy định của Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc “quyền lực thống nhất”. Ở đây cần lưu ý rằng, mặc dù có cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp song các cơ quan thực hiện các quyền này không tồn tại riêng rẽ hay ngang hàng nhau như trong một số mô hình tổ chức bộ máy nhà nước khác trên thế giới, ví dụ Hoa Kỳ, Cộng hoà Liên bang Đức, Philippines… Ở Việt Nam, Quốc hội luôn là nơi tập trung quyền lực được chuyển giao từ Nhân dân nên cho dù đã phân công quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho Tòa án thực hiện, Quốc hội vẫn luôn có quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan này cũng như tất cả các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác không có quyền giám sát tương tự đối với Quốc hội. Thậm chí, các cơ quan nhà nước ở trung ương cũng đều có nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội.
Có thể nói, nguyên tắc “quyền lực tập trung” với nội dung như phân tích trên đây đã thể hiện được sự kết hợp giữa tư tưởng tập quyền truyền thống với những hạt nhân hợp lí của Thuyết phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với việc áp dụng nguyên tắc này, mô hình tổ chức bộ máy nhà nước đã được định hình một cách rõ ràng với Quốc hội là cơ quan đứng ở vị trí cao nhất của bộ máy nhà nước – Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp và các cơ quan nhà nước khác ở trung ương như Chủ tịch nước, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều có vị trí thấp hơn, do Quốc hội hình thành nên và chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội.
Xem thêm bài viết về “Bộ máy nhà nước”
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Cấu trúc tổ chức của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Khái niệm bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân trong bộ máy nhà nước – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Phân tích các đặc điểm của Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
3. Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Không giống như hai nguyên tắc trên, nguyên tắc “Pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là nguyên tắc tương đối mới trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nó được quy định lần đầu tiên ở Hiến pháp năm 1992 khi được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và được hoàn thiện thêm một bước ở Hiến pháp năm 2013 tại khoản 1 Điều 2 và khoản 1 Điều 8.
Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Theo quy định này, mô hình lí tưởng mà công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hướng tới là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Kể từ khi quy định này xuất hiện lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã có nhiều công trình nghiên cứu để tìm ra đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hầu hết trong số đó nhất trí với sáu đặc điểm: (1) Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (2) Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; (3) Pháp luật có vị trí tối tượng trong đời sống xã hội; (4) Nhà nước tôn trọng, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân; (5) Nhà nước bảo đảm quyền lực thống nhất, có sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; (6) Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nguyên tắc “Pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là nguyên tắc hạt nhân, cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua đặc điểm 2 và 3 trong số 5 đặc điểm nói trên của Nhà nước pháp quyền. Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 đề cập rõ hơn nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa thông qua quy định: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật… Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 cũng đề cập rõ hơn nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa khi đưa ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020: “Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lí xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước…”
Trên bình diện thế giới, nguyên tắc pháp quyền (không có hậu tố “xã hội chủ nghĩa”) là nguyên tắc rất phổ biến trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hiện đại. Thuật ngữ “Pháp quyền” (rule of law) lần đầu tiên được học giả luật hiến pháp nổi tiếng của Vương quốc Anh Albert Venn Dicey sử dụng trong tác phẩm Giới thiệu nghiên cứu về luật hiến pháp vào cuối thế kỉ XIX với tư tưởng chính là sự thượng tôn của pháp luật đối với chính quyền. Kể từ đó thì các nghiên cứu về pháp quyền bắt đầu nở rộ và hình thành hai trường phái chính là trường phái pháp quyền hình thức (formalism rule of law), với các đại diện như Albert Venn Dicey, Joseph Raz…, và trường phái pháp quyền nội dung (substantive rule of law) với các đại diện như Ronald Dworkin, Trevor Allan… Nguyên tắc pháp quyền cũng bước từ lí luận ra thực tiễn tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước ở đa số các quốc gia trên thế giới với các mô hình nổi tiếng của Vương quốc Anh (rule of law), Hoa Kỳ (due process of law), Pháp (l’Etat de droit), Dúc (Rechtsstaat).
Trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam và thành tựu chung của nhân loại, nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tư cách là nguyên tắc hiến định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nội dung cơ bản là pháp luật phải có vị trí tối thượng hay thượng tôn, tối cao với tất cả mọi chủ thể mà trước tiên là tất cả các cơ quan nhà nước. Pháp luật là sức mạnh cai trị tối thượng trong xã hội, không một ai được đứng trên pháp luật và bản thân chính quyền phải chịu sự kiểm chế của pháp luật. Tất cả hoạt động của các cơ quan nhà nước, người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước đều phải căn cứ vào pháp luật, chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và trong khuôn khổ pháp luật đã đặt ra. Đây là tư tưởng cốt lõi của nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tương ứng với chữ “quyền” trong cụm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, đó là “quyền” của pháp luật đối với Nhà nước, hay trực tiếp hơn là tất cả các cơ quan nhà nước.
Tư tưởng này tưởng chừng hết sức đơn giản song lại chứa đựng hàm ý cao siêu. Người học luật luôn thuộc lòng kiến thức căn bản nhất về pháp luật như: pháp luật là các quy tắc xử sự chung, thể hiện ý chí chung bắt buộc đối với toàn xã hội; pháp luật thể hiện quyền lực cai trị toàn xã hội; song, pháp luật lại do Nhà nước, mà trực tiếp là các cơ quan nhà nước đặt ra. Vậy logic thông thường là người đã đặt ra pháp luật thì cũng có quyền thay đổi pháp luật và do đó pháp luật không thể cao hơn người đã đặt ra mình, ví dụ ông Vua đặt ra pháp luật thì có quyền thay đổi pháp luật bất kì lúc nào và pháp luật không thể cao hơn Vua. Nguyên tắc pháp quyền không phủ nhận pháp luật do cơ quan nhà nước đặt ra bằng cách ban hành hay công nhận. Nguyên tắc này chỉ yêu cầu rằng: cho dù là như vậy thì Nhà nước, tức là tất cả các cơ quan nhà nước, phải thượng tôn pháp luật, chịu sự kiểm soát của pháp luật. Nói cách khác, Nhà nước đặt ra pháp luật song pháp luật phải trở thành công cụ kiềm chế nhà nước, định ra khuôn khổ cho nhà nước hoạt động, “Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép”. Dicey nói: “Nguyên tắc nhà nước pháp quyền đối lập với bất kì hệ thống chính quyền nào được thiết lập trên cơ sở đặt quyền quyết định quá rộng và không có sự hạn chế vào tay những người có chức vụ”. Pháp luật là quy tắc xử sự chung nên Nhà nước khuất phục trước pháp luật thì cũng là Nhà nước tự kiềm chế mình, tức là Nhà nước khuất phục trước ý chí chung thể hiện trong pháp luật. Đó là cơ sở quan trọng nhất để thiết lập tự do và công bằng trong xã hội. Pháp luật thượng tôn đối với Nhà nước thì người dân mới có thể dùng pháp luật để kìm chế, khuất phục Nhà nước, qua đó tin tưởng rằng Nhà nước phải bảo vệ chứ không thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây cũng là cơ sở quan trọng nhất bảo đảm Nhà nước thực sự dân chủ, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Với nội dung cơ bản trên đây, có thể thấy nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như nguyên tắc pháp quyền nói chung, phản ánh một lí tưởng hết sức tốt đẹp về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Vấn đề là tư tưởng này không tự nó trở thành hiện thực nếu thiếu đi những điều kiện và cũng là những yêu cầu mang tính chất cơ sở hình thành sau đây:
Thứ nhất, pháp luật phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn về hình thức để có thể phát huy được vai trò thượng tôn đối với Nhà nước. Các phẩm chất về hình thức bao gồm: (1) Pháp luật chỉ được áp dụng đối với các quan hệ xã hội phát sinh sau khi pháp luật có hiệu lực. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt pháp luật mới có hiệu lực hồi tố. (2) Pháp luật phải được viết và thể hiện một cách rõ ràng để hạn chế tối đa việc hiểu đa nghĩa đối với một quy định của pháp luật. (3) Pháp luật phải dễ tiếp cận, tức là các chủ thể phải được biết pháp luật là gì thì mới có thể biết được phạm vi quyền, nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể có liên quan tới đâu. (4) Pháp luật phải có tính ổn định tương đối, tức là công tác xây dựng pháp luật phải đủ hoàn thiện để bảo đảm quy định của pháp luật đưa ra phù hợp với thực tiễn trong một thời gian dài, qua đó không bị thay đổi thường xuyên gây khó khăn cho việc tiếp cận pháp luật.
Thứ hai, pháp luật phải có một số phẩm chất về nội dung nhất định để bảo đảm pháp luật thống trị là pháp luật “tốt”. Trước tiên, pháp luật phải thể hiện được ý chí chung phù hợp với lợi ích của đa số người dân trong xã hội. Pháp luật cũng phải cụ thể hoá được các quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được hiến pháp quy định. Đặc biệt, pháp luật phải chú trọng cụ thể hoá được các quyền làm chủ của người dân đối với Nhà nước, các quyền mà người dân có thể sử dụng để kiểm soát các cơ quan nhà nước, ví dụ quyền bầu cử, ứng cử, quyền tiếp cận thông tin… Có thể thấy, chính việc bảo đảm các yêu cầu về nội dung của pháp luật, đặc biệt là yêu cầu phù hợp với lợi ích của đa số người dân trong xã hội, tạo nên tính chất xã hội chủ nghĩa trong nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, phải có cơ chế pháp lí hữu hiệu để buộc các cơ quan nhà nước tuân thủ pháp luật, hay nói cách khác là để bảo đảm sự thượng tôn của pháp luật đối với cơ quan nhà nước. Yêu cầu này bao gồm các yếu tố như: (1) Việc ban hành các văn bản pháp luật cá biệt phải tuân thủ các văn bản quy phạm pháp luật áp dụng chung, rõ ràng, ổn định và dễ tiếp cận. (2) Pháp luật phải được bảo vệ bởi một hệ thống toà án độc lập, có năng lực, có khả năng thi hành công lí, khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. (3) Hệ thống toà án khi xét xử phải tuân thủ các quy tắc tố tụng công bằng, ví dụ phiên toà công khai, quyền bào chữa phải được bảo đảm… (4) Người dân phải được tiếp cận với toà án bất cứ khi nào mình muốn và toà án phải sẵn sàng đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp của người dân.’ (5) Phải có một cơ chế bảo vệ hiến pháp hữu hiệu bảo đảm tính tối cao của hiến pháp, qua đó bảo đảm thượng tôn pháp luật đối với nhà nước và xã hội. (6) Phải có hệ thống cơ chế hữu hiệu kiểm soát các cơ quan trong việc thực thi quyền lực nhà nước…
Như vậy, thuật ngữ “Pháp quyền xã hội chủ nghĩa” được sử dụng ở Việt Nam vừa là tên gọi của mô hình nhà nước lí tưởng – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa là tên gọi của một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước lí tưởng đó – Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là nguyên tắc hạt nhân, cốt lõi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; không có nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì không có bộ máy nhà nước hay Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Xem thêm bài viết về “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”
- Bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Cấu trúc tổ chức của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Khái niệm bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính sách đối ngoại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – GS.TS. Lê Minh Tâm
- Chính sách đại đoàn kết và đường lối dân tộc của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – GS.TS. Lê Minh Tâm
4. Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Quyền con người bắt đầu được đề cập trực tiếp trong hiến pháp Việt Nam kể từ năm 1992. Tuy nhiên, trong Hiến pháp năm 1992, tôn trọng quyền con người mới chỉ được quy định như một nguyên tắc hiến định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tại Chương V.? Trong Hiến pháp năm 2013, vấn đề ứng xử đối với quyền con người không những được quy định tại Chương II: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” mà còn được quy định tại những điều khoản đầu tiên của Chương I: “Chế độ chính trị”. Điều này chứng tỏ vấn đề ứng xử đối với quyền con người đã được quy định như một quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”
Như vậy, nội dung cơ bản của nguyên tắc này là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải hết sức coi trọng vấn đề quyền con người. Nhà nước phải coi nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển con người là mục đích cao nhất và là mục đích cuối cùng của mình và điều này phải được thể hiện trong tổ chức cũng như hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng.
Về mặt tổ chức, trong bộ máy nhà nước phải có những thiết chế riêng có chức năng chăm lo tới vấn đề quyền con người.
Về mặt hoạt động, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có thái độ coi trọng toàn diện đối với quyền con người, quyền công dân. Sự coi trọng toàn diện thể hiện ở bốn nội dung cụ thể:
Thứ nhất, Nhà nước công nhận các quyền con người, quyền công dân. Đây là tuyên bố mang ý nghĩa chính trị. Với tuyên bố này, Nhà nước Việt Nam cùng hòa mình với các quốc gia khác trong phong trào đấu tranh vì quyền con người trên thế giới. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam coi các quyền con người, quyền công dân là thiêng liêng và không thể chia tách khỏi con người. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng công nhận quyền con người là giá trị chung của nhân loại và được bảo vệ trên phạm vi toàn cầu. Với nội dung này, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia một cách tối đa các điều ước quốc tế về quyền con người trên cơ sở phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình đồng thời thể chế hoá các quyền con người quốc tế thành các quyền công dân quy định trong Hiến pháp và pháp luật.
Thứ hai, Nhà nước tôn trọng các quyền con người, quyền công dân. Nội dung này có nghĩa là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cam kết luôn coi trọng một cách thoả đáng đối với vấn đề quyền con người, quyền công dân trên lãnh thổ Việt Nam. Các chủ chương, chính sách và pháp luật của Việt Nam đều được xây dựng với sự quan tâm đầy đủ các tác động của chúng đối với việc thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, công tác xây dựng pháp luật của Việt Nam phải hết sức chú trọng cụ thể hoá các quyền con người, quyền công dân đã được pháp luật quốc tế và hiến pháp Việt Nam công nhận. Trong hệ thống pháp luật không được có các điều khoản tiềm ẩn hoặc tạo kẽ hở cho các hành vi xâm phạm quyền con người, quyền công dân. Hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung cũng không được xâm phạm tới quyền con người, quyền công dân. Tôn trọng quyền con người, quyền công dân phải trở thành một tiêu chí để đánh giá hoạt động của cơ quan nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân là việc áp dụng các biện pháp chế tài pháp lí đối với các hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân, qua đó ngăn ngừa các vi phạm mới tái diễn và từ đó tạo ra sự tôn trọng chung đối với quyền con người, quyền công dân trong toàn xã hội. Với nội dung này, Hiến pháp năm 2013 đã xác định bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nghĩa vụ của Nhà nước; nếu tình trạng vi phạm quyền con người, quyền công dân diễn ra tràn lan mà không được xử lí kịp thời và thỏa đáng thì đó là trách nhiệm của Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước phải hình thành các cơ chế và biện pháp pháp lí cụ thể để xử lí các vi phạm quyền con người, quyền công dân. Đây là nội dung quan trọng và cũng có thể gọi là nội dung cốt yếu nhất của nguyên tắc Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Bất kì sự coi trọng nào đối với quyền con người, quyền công dân cũng đều phải được thể hiện thành cơ chế và biện pháp bảo vệ cụ thể; không có những điều này thì sự coi trọng quyền con người, quyền công dân chỉ là những khẩu hiệu.
Thứ tư, Nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong các quyền con người, quyền công dân có những quyền thể hiện phúc lợi xã hội, ví dụ quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong sử dụng các dịch vụ y tế, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa… Những quyền này không phải tự bản thân người dân có thể được hưởng mà đòi hỏi có những điều kiện, cơ sở vật chất nhất định. Ví dụ: để người dân được hưởng quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cần có đầy đủ các cơ sở khám chữa bệnh có đủ chất lượng; để người dân được hưởng quyền học tập ở bậc tiểu học không phải đóng học phí cần có đầy đủ hệ thống trường tiểu học từ nông thôn đến thành thị… Theo nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm hình thành đầy đủ những điều kiện, cơ sở vật chất để bảo đảm cho các quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước có thể áp dụng đa dạng các chính sách để huy động các nguồn vốn khác nhau cho công cuộc này, song trách nhiệm bảo đảm cuối cùng vẫn thuộc về Nhà nước.
Xem thêm bài viết về “Quyền con người“
- Sự phát triển chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Quyền và nghĩa vụ của con người theo Hiến pháp 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Những nguyên tắc hiến pháp của chế định quyền con người, quyền công dân – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Quyền con người là gì? Đặc trưng và phân loại quyền con người – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Bảo hiến với việc bảo vệ quyền con người theo mô hình bảo hiến phi tập trung – Nghiên cứu trường hợp Hoa Kỳ – PGS.TS. Đặng Minh Tuấn
5. Nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được xác định trên hai phương diện, đó là lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo Nhà nước. Vai trò lãnh đạo này đã được xác định và khẳng định qua quá trình lịch sử Cách mạng Việt Nam, đặc biệt là từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập năm 1945 tới nay. Về phương diện pháp lí, vai trò lãnh đạo của Đảng đã được quy định rõ trong hiến pháp kể từ Hiến pháp năm 1980 và được kế thừa trong tất cả các bản hiến pháp sau đó.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cả hệ thống chính trị đã được nghiên cứu, làm rõ trong Chương IV của Giáo trình. Riêng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã được xác định thành nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong hiến pháp hiện hành, nguyên tắc này được thể hiện qua các quy định tại Điều 4 với hai nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nói cách khác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể là bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không thể được lãnh đạo bởi một lực lượng nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước là một nét đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng và của bộ máy nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Trên thực tế thì các nhà nước trên thế giới thường do các đảng chính trị lãnh đạo. Song, hiến pháp các quốc gia thường không quy định một cách rõ ràng và đương nhiên một đảng chính trị nào có vai trò lãnh đạo duy nhất. Các đảng chính trị ở các quốc gia thường cạnh tranh với nhau để nắm vai trò lãnh đạo Nhà nước thông qua các cuộc bầu cử phổ thông và cho một nhiệm kì nhất định. Khi hết nhiệm kì, các đảng chính trị lại tiếp tục cạnh tranh để giành quyền lãnh đạo Nhà nước trong nhiệm kì mới. Chỉ có các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu-ba mới quy định hoặc ghi nhận Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước.
Thứ hai, hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên phải trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức rộng lớn với hơn 4 triệu đảng viên. Các tổ chức của Đảng được thành lập một cách rộng khắp từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương có các tổ chức như Ban Chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra trung ương, Ban Kinh tế trung ương, Ban Nội chính trung ương, Ban Tổ chức trung ương, Văn phòng trung ương.v.v. Ở các cơ quan nhà nước, bộ, ngành ở trung ương và ở địa phương từ cấp tỉnh tới cấp xã, thậm chí thôn, bản, tổ dân phố đều có các tổ chức đảng tương ứng như ban cán sự, ban chấp hành đảng bộ, ban chấp hành chi bộ .v.v. Nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” quy định rằng tuy Đảng Cộng sản Việt Nam nắm vai trò lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước, có nghĩa là các tổ chức đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước tương ứng; song hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên phải trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Điều này là hoàn toàn đúng đắn bởi pháp luật là quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí chung và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các chủ thể trong xã hội. Triệt để tuân thủ pháp luật là tinh thần cốt lõi của nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các tổ chức của Đảng, đảng viên không phải là ngoại lệ.
Như vậy, nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” xác lập một mối quan hệ hai chiều của Đảng và Nhà nước: một mặt, Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước; mặt khác, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Sự cân bằng giữa vai trò của Đảng và Nhà nước trong mối quan hệ này là một lí tưởng; song nó đặt ra vấn đề không hề đơn giản cho thực tiễn vận hành phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” ! Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị, một thiết chế vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội. Các tổ chức của Đảng không phải là cơ quan nhà nước có nghĩa là không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước đối với xã hội; các cơ quan trong bộ máy nhà nước mới là chủ thể trực tiếp thực hiện vai trò đó. Vấn đề là phương thức lãnh đạo của Đảng cần được xác định như thế nào để các tổ chức Đảng và đảng viên không vượt ra khỏi vai trò lãnh đạo mà trở thành làm thay công việc của các cơ quan nhà nước. Về nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tập trung vào những phương diện sau:
– Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn;
– Lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên để thực hiện cương lĩnh, chiến lượng, các chủ trương, chính sách của Đảng;
– Lãnh đạo công tác cán bộ và quản lí đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước.
Mặc dù đã được xác định về nguyên tắc như trên song cơ chế cụ thể để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản vẫn còn là một câu chuyện dài. Phương thức lãnh đạo hiện nay của Đảng đối với Nhà nước vẫn cần tiếp tục được đổi mới.
Xem thêm bài viết về “Nguyên tắc Đảng lãnh đạo”
6. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Về nguồn gốc, “Tập trung dân chủ” là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các Đảng Cộng sản trên thế giới, do Lê-nin khởi xướng từ đầu thế kỉ XX.? Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã lấy nguyên tắc này làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của mình và quy định rõ các nội dung của nguyên tắc trong Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011. Ý nghĩa của nguyên tắc khi áp dụng trong tổ chức của Đảng là một mặt bảo đảm phát huy tính tích cực và tính sáng tạo của mọi tổ chức Đảng và đảng viên trong việc tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; mặt khác bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng.
Nhà nước CHxã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng được phát huy chủ yếu thông qua việc lãnh đạo bộ máy nhà nước. Do đó, nguyên tắc “tập trung dân chủ” cũng đã trở thành một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc trưng của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được quy định trong các bản hiến pháp từ năm 1959 cho tới nay. Trong Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định cùng với một nội dung là Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc này được quy định hơi khác: “Nhà nước… thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”? Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ của Hiến pháp năm 2013 có nội dung quy định khái quát hơn, thể hiện rằng đây thực sự là nguyên tắc bao quát trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc áp dụng nguyên tắc này là đối với toàn bộ bộ máy nhà nước nói chung chứ không phải sự áp dụng một cách máy móc bản thân nguyên tắc này đối với từng cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước.
Ở góc độ vĩ mô, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có thể được hiểu là sự kết hợp hài hoà và thống nhất giữa hai yếu tố: tập trung và dân chủ, tức là quyền quyết định về những vấn đề trọng yếu nhất tập trung vào các cơ quan cấp trên kết hợp với tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan cấp dưới và địa phương, coi trọng chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Cụ thể, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013 thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, trong các cơ quan nhà nước, những vấn đề quan trọng nhất thường được quyết định bởi tập thể theo chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Ví dụ: các nội dung quan trọng nhất thuộc thẩm quyền của Quốc hội phải do phiên họp toàn thể thông qua; các nội dung quan trọng nhất thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải do phiên họp chính phủ thông qua…
Thứ hai, trong một tập thể thì thiểu số phục tùng đa số. Có nghĩa là khi quyết định đã được đưa ra bởi tập thể thì tất cả đều phải thi hành quyết định đó. Tuy nhiên, trong quá trình bàn bạc để ra quyết định thì tất cả các thành viên trong tập thể đều có quyền phát biểu ý kiến và bảo lưu ý kiến của mình. Điều đó gọi là “bàn bạc thì dân chủ nhưng hành động thì phải tập trung”. Không thể có tình trạng sau khi quyết định đã được đưa ra bởi đa số thì thiểu số không thực hiện hoặc cản trở việc thực hiện.
Thứ ba, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương. Khi trung ương, cấp trên đã quyết định thì cấp dưới phải phục tùng. Tuy nhiên, trước khi ra quyết định thì cấp trên, trung ương phải tham khảo ý kiến cấp dưới, địa phương, qua đó khuyến khích phát huy tính chủ động của địa phương. Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng khuyến khích việc phân định rõ thẩm quyền quyết định, đặc biệt trong hệ thống hành chính, giữa cấp trung ương và địa phương. Trung ương quyết định những vấn đề vĩ mô; cấp dưới, địa phương được phân cấp quản lí để phát huy tính chủ động và tinh thần trách nhiệm.
Cũng như đối với tổ chức Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ cũng được xem là có vai trò quan trọng bảo đảm sự nhất quán trong hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương trong khi đó vẫn khuyến khích được sự chủ động, sáng tạo của cấp dưới và của địa phương, qua đó tránh được sự quan liêu của cấp trên, của trung ương. Vai trò này đặc biệt quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, nhược điểm của nguyên tắc này là rất khó có thể lượng hoá được tập trung hay dân chủ ở mức độ nào là phù hợp, do đó trong thực tế có thể sa vào hoặc tập trung quan liêu hoặc tự do vô tổ chức. Bên cạnh đó, bởi nguyên tắc này được áp dụng chung cho cả tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước nên có thể trong thực tiễn xảy ra tình trạng khi người đảng viên đồng thời nắm giữ chức vụ trong cơ quan nhà nước không xác định được mức độ thực hiện nguyên tắc này một cách phù hợp với tư cách là đảng viên và tới tư cách quan chức nhà nước. Điều này có thể dẫn tới tình trạng nguyên tắc tập trung dân chủ áp dụng không phù hợp với tính chất, chức năng của cơ quan nhà nước và do đó làm giảm hiệu quả của cơ quan nhà nước./.
Xem thêm bài viết về “Nguyên tắc tập trung dân chủ”
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời