Mục lục
Chức năng bảo hiến của Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013
- Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với việc sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
- Hiến pháp năm 2013 và định hướng sửa đổi Luật Tổ chức TAND và Luật Tổ chức VKSND
- Hiến pháp năm 2013 và hoàn thiện nguyên tắc tố tụng hình sự
- Hoàn thiện một số vấn đề pháp lý nhằm bảo đảm thi hành hiệu quả các quy định về Thủ tướng Chính Phủ trong Hiến pháp năm 2013
- Xây dựng “Luật Tổ chức chính quyền địa phương” theo định hướng đổi mới của Hiến pháp năm 2013
TÓM TẮT
Trên cơ sở nhận thức chung về vị trí của Tòa án trong nhà nước pháp quyền, phân tích các quy định của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân, tác giả đánh giá những điểm tích cực cũng như hạn chế trong cơ chế bảo hiến của Tòa án nhân dân hiện nay ở Việt Nam; đồng thời đưa ra các kiến nghị khoa học nhằm hoàn thiện chức năng bảo vệ Hiến pháp của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cơ chế để thực hiện hiệu quả chức năng đó.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng cộng sản Việt Nam và sự thể chế hóa Cương lĩnh đó trong Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhà nước pháp quyền là thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy, nhà nước pháp quyền có những nguyên lý chung của nhân loại như chủ quyền nhân dân, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, độc lập của Tòa án và hội nhập quốc tế… Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy thuộc bản chất nhà nước, vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức, pháp luật… mà ngoài cái chung mang tính phổ quát, nhà nước pháp quyền cũng có những nét đặc thù.
Bảo vệ hiến pháp là yếu tố tất yếu đi liền với nhà nước pháp quyền nhưng cơ chế bảo hiến lại khác nhau ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết của cơ chế bảo hiến. Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ “Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp”. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng cũng chỉ rõ cần có một “cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. [1]
Hiến pháp năm 2013 đã quán triệt và thể hiện được phần nào quan điểm đó của Đảng. Tuy nhiên, cùng với những kết quả đạt được, cơ chế bảo hiến nói chung, đặc biệt là bảo hiến của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013 còn những điểm hạn chế cần được hoàn thiện.
1. Trách nhiệm bảo hiến của Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013
1.1. Trách nhiệm bảo hiến của Tòa án nhân dân
Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”.
Như vậy, chủ thể bảo hiến ở Việt Nam rất rộng, bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, viện kiểm sát và toàn dân. Mỗi cơ quan đều có cơ chế bảo hiến riêng được quy định ngay trong Hiến pháp năm 2013 hoặc luật. Tuy nhiên, chỉ có Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội được Hiến pháp năm 2013 trực tiếp quy định chức năng bảo hiến. Theo Điều 70 Hiến pháp năm 2013 thì Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”; Điều 74 Hiến pháp năm 2013 quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội “giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”.
Có thể nói, trong Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân được quy định nhiệm vụ bảo hiến thông qua việc hiến định chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể là:
– Tòa án nhân dân là chủ thể bảo vệ Hiến pháp năm 2013 (khoản 2 Điều 119). Một điều đáng chú ý là ở đây, chủ thể bảo hiến không chỉ là Tòa án nhân dân tối cao mà tất cả các Tòa án nhân dân đều có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp;
– Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Quyền con người được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và bảo đảm thực hiện trực tiếp. Các luật chỉ quy định hạn chế quyền con người trong phạm vi Hiến pháp quy định (Điều 14). Vì vậy, thông qua hoạt động xét xử của mình, các Tòa án bảo vệ quyền con người thì cũng là bảo vệ Hiến pháp;
Theo chúng tôi, bằng việc giao cho Tòa án nhân dân tối cao chức năng “bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”, Hiến pháp năm 2013 gián tiếp giao cho Tòa án nhân dân tối cao, cơ quan xét xử cao nhất của nước ta chức năng giải thích luật. Bằng các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bằng các án lệ được ban hành, chính Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện việc giải thích Hiến pháp, các luật liên quan đến việc xét xử các các Tòa án nhân dân. Đây cũng là một chức năng bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ pháp luật quan trọng của Tòa án nhân dân.
Thực hiện xét xử các vụ án, đặc biệt là các vụ án hành chính để phán quyết về các quyết định hành chính, hành vi hành chính của người và cơ quan hành chính có thẩm quyền, Tòa án nhân dân cũng đã thực hiện chức năng bảo vệ Hiến pháp, pháp luật được Hiến pháp quy định.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các bộ luật, luật về tố tụng đã cụ thể hóa chức năng bảo hiến của Tòa án nhân dân. Cụ thể là:
– Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2013 quy định “Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án” (khoản 7 Điều 2).
Điều 265 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định, “trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội”… Đồng thời, “Tòa án quyết định tạm đình chỉ vụ án chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Tòa án kiến nghị” (Điều 281 Bộ luật Tố tụng hình sự). Đây cũng là thủ tục được thực hiện ở các quốc gia có cơ chế bảo hiến tập trung (bằng Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến).
Như vậy, mặc dù ở Việt Nam và một số nước khác như Trung Quốc, Cu ba không có cơ quan bảo hiến chuyên biệt, mà cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến, nhưng Tòa án nhân dân đã được giao một số nhiệm vụ bảo hiến nhất định. Cơ chế bảo hiến ban đầu cũng đã được ghi nhận, mặc dù chưa thật rõ ràng, cụ thể.
1.2. Những bất cập, hạn chế trong cơ chế bảo hiến của Tòa án nhân dân
Qua nghiên cứu các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật, bộ luật được ban hành trên cơ sở và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, từ góc độ cơ chế bảo hiến của Tòa án nhân dân chúng tôi thấy một số bất cập và hạn chế sau đây:
Thứ nhất, việc duy trì cơ chế bảo hiến như hiện nay, trong đó cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến là thiếu hợp lý và không hiệu quả. Bởi vì:
+ Cơ chế này đã không quán triệt được quan điểm của Đảng là “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Chỉ có Tòa án, cơ quan thực hiện quyền tư pháp mới có quyền phán quyết. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên, trong các cơ chế bảo hiến phổ biến hiện nay, dù là tập trung (Tòa án Hiến pháp) hay phi tập trung (Tòa án thường), thì chức năng bảo hiến vẫn được giao cho Tòa án. Mặc dù là cơ quan bảo hiến chuyên biệt nhưng không có quyền phán quyết (Hội đồng bảo hiến) cũng dần dần bị thu hẹp hay chuyển dần sang cơ chế tài phán.[2] Ở Việt Nam, việc vừa thiếu một cơ quan bảo hiến chuyên biệt, vừa thiếu thẩm quyền tài phán về vi phạm Hiến pháp đã làm cho cơ chế bảo hiến thiếu hiệu quả;
+ Thiếu một cơ chế phát hiện vi phạm Hiến pháp, vì cơ chế bảo hiến không phải được thực hiện trên cơ sở khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Việc tự phát hiện vi phạm Hiến pháp qua hoạt động giám sát của chính Quốc hội hoặc cùng lắm là qua kiến nghị của Tòa án là không đủ cho hoạt động bảo hiến;
+ Việc Quốc hội vừa là cơ quan lập hiến, vừa là cơ quan giải thích Hiến pháp, vừa là cơ quan bảo hiến sẽ khiến xảy ra tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”.
Thứ hai, ngay trong cơ chế hiến định hiện nay, cơ chế bảo hiến của Tòa án nhân dân cũng chỉ là những tuyên ngôn mang tính chính trị, mà chưa có cơ chế pháp lý rõ ràng. Cụ thể:
+ Là cơ quan áp dụng pháp luật, phán xử về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý… nhưng Tòa án nhân dân lại không được chính thức giao nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, luật;
+ Quyền con người được Hiến pháp ghi nhận và được áp dụng trực tiếp nhưng với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án nhân dân không được phán quyết về việc vi phạm quyền con người;
+ Tòa án có quyền kiến nghị về các vi phạm Hiến pháp, vi phạm luật… nhưng thủ tục xem xét kiến nghị đó ra sao; hậu quả của việc giải quyết kiến nghị đó như thế nào… thì không được quy định. Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế giải quyết kiến nghị như hiện nay là bất khả thi, vi phạm quyền được xét xử kịp thời trong hoạt động tư pháp. Ví dụ, khi phát hiện một quy định của luật nào đó mà Tòa án áp dụng để ra phán quyết là trái Hiến pháp và Tòa án đã kiến nghị với Quốc hội để hủy bỏ quy định đó; thì liệu trong bao lâu Quốc hội mới có thể xem xét để quyết định về kiến nghị đó trong bối cảnh Quốc hội hoạt động không thường xuyên ở nước ta.
2. Hướng hoàn thiện thể chế về cơ chế bảo hiến của Tòa án nhân dân
2.1. Quan điểm chung:
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Như vậy, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ ràng, cụ thể Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 2013 là văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất; các luật và văn bản dưới luật không được trái Hiến pháp. Quyền con người được ghi nhận và thực hiện tuyệt đối theo Hiến pháp. Có sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự minh bạch, rạch ròi trong phân công thực hiện quyền lực nhà nước, sự phối hợp ở mức độ cần thiết là bảo đảm quan trọng cho việc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Từ đó bảo đảm cho Hiến pháp, luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Vì vậy, xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp đúng đắn, hiệu quả là đòi hỏi tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người, bảo đảm hiệu quả của bộ máy nhà nước.[3]
Hiến pháp năm 2013 không chỉ nói rõ, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp, mà còn hiến định nguyên tắc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là lần đầu tiên, Tòa án nhân dân được coi là chủ thể thực hiện một nhánh quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta.
Bằng việc quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1 Điều 102), Hiến pháp xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy cơ quan nhà nước.
Xuất phát từ nhận thức chung về nguyên lý tổ chức bộ máy nhà nước trong nhà nước pháp quyền, từ quy định của Hiến pháp năm 2013, để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và từ đó là vai trò, vị trí của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước, chúng tôi thấy có hai vấn đề sau đây cần được nhận thức thống nhất về lý luận cũng như thực tiễn:
– Một là, thế nào là quyền tư pháp và nội dung của quyền tư pháp?
– Hai là, nội dung, phạm vi kiểm soát của Tòa án nhân dân (cơ quan tư pháp) với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp.
* Về quyền tư pháp và nội dung quyền tư pháp
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ bằng việc thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân có vị trí là cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặc dù còn có thể có những ý kiến ít nhiều khác nhau, nhưng theo chúng tôi, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ ràng quyền tư pháp đồng nghĩa với quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Quyền tư pháp, chức năng xét xử của Tòa án nhân dân thể hiện ở chỗ:
– Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, quy định của Hiến pháp năm 2013 là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của nhà nước pháp quyền.
Đồng thời, Tòa án cũng phải là cơ quan có thẩm quyền phán xét các vi phạm Hiến pháp của bất kỳ cơ quan, cá nhân nào; kể cả luật được ban hành và việc thực hiện pháp luật trên thực tế;
– Quyền con người là quyền thiêng liêng, quan trọng nhất đối với con người, do Hiến pháp quy định và thực hiện trực tiếp mà không cần thông qua luật định. Vì vậy, Tòa án nhân dân là cơ quan phán quyết duy nhất phán quyết những vấn đề về quyền con người (như tuyên bố một người đã chết, xác định cha, mẹ cho con, tuyên bố tước, hạn chế tự do, áp dụng các hình phạt liên quan đến quyền con người…).
Khác với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, các hoạt động nêu trên của Tòa án nhân dân được thực hiện theo một thủ tục tố tụng tư pháp chặt chẽ, vô tư, khách quan, tuyệt đối tuân thủ pháp luật và mang tính độc lập tuyệt đối.
Bằng các quy định như trên, về thực chất có thể hiểu tư pháp chính là phán xử, thực hiện chức năng phán quyết chính là thực hiện quyền tư pháp. Giao cho Tòa án phán quyết về vi phạm hiến pháp chính là quán triệt quan điểm của Đảng và tinh thần của nhà nước pháp quyền về bảo hiến.
* Về việc kiểm soát của cơ quan tư pháp (Tòa án) đối với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
Theo quy định của Hiến pháp, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án nhân dân có quyền kiểm soát các cơ quan khác trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp. Theo chúng tôi, phạm vi kiểm soát của Tòa án thể hiện cơ bản trong các điểm sau đây:
– Đối với hoạt động lập pháp, thông qua hoạt động xét xử của mình, Tòa án phải có quyền: (i) phán quyết tính hợp hiến của các luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành, các pháp lệnh, nghị quyết do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Cơ chế phán quyết đó có thể là bằng Tòa án Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp hoặc bằng một cơ chế hữu hiệu, khả thi khác phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia; (ii) giải thích luật, pháp lệnh. Luật, pháp lệnh được ban hành có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhưng là cơ quan áp dụng luật để phán quyết về các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp pháp lý, phán quyết về quyền con người được Hiến pháp ghi nhận, Tòa án phải có quyền hiểu và giải thích những nội dung chưa rõ ràng, chưa xác định đó của luật được áp dụng. Đặc trưng của việc giải thích luật của Tòa án thể hiện ở chỗ việc giải thích đó thông qua các phán quyết cụ thể có hiệu lực pháp luật (án lệ), thông qua các văn bản của cơ quan xét xử cao nhất (như nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) và thông qua các biện pháp bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật khác.
Khi đề cập quyền của Tòa án nhân dân trong kiểm soát hoạt động lập pháp, theo chúng tôi, không nên nhầm lẫn với nhiệm vụ thực hiện sáng kiến lập pháp của Tòa án nhân dân tối cao. Là chủ thể có quyền sáng kiến lập pháp, Tòa án nhân dân tối cao có quyền trình dự án luật, kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật và đóng góp ý kiến cho các dự án luật mà Quốc hội thông qua.
– Đối với hoạt động hành pháp: (i) trước hết, Tòa án nhân dân thụ lý, giải quyết các khiếu kiện hành chính, phán quyết về các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện. Vì vậy, việc mở rộng thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân là xu thế tất yếu của xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (ii) Tòa án nhân dân phán quyết về các vi phạm pháp luật mà cơ quan hành pháp, khi thực hiện chức năng thi hành luật, phát hiện và truy cứu ra trước Tòa án để Tòa án phán quyết có vi phạm pháp luật hay không và biện pháp chế tài để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm đó.
Từ góc độ này, có thể khẳng định:
+ Một là, xu thế mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong phán quyết xử lý mọi vi phạm pháp luật;
+ Hai là, cơ quan truy cứu các vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức ra trước Tòa án để phán xử phải là cơ quan hành pháp. Vì thế, không ngẫu nhiên mà Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra vấn đề nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành cơ quan Công tố thuộc Chính phủ.
Để thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân một cách rõ ràng. Theo khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân là những nhiệm vụ đầu tiên của Tòa án nhân dân; sau đó mới là nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đó là nhiệm vụ đặc trưng thể hiện cao nhất, tập trung nhất đối với cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án phải là nơi mà mọi con người, mọi công dân tìm đến lẽ phải, tìm đến sự thật. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến Tòa án như là tìm đến công lý. Vì vậy, có thể nói, theo Hiến pháp năm 2013, Tòa án là biểu tượng của công lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý [4]
2.2. Hướng hoàn thiện cụ thể
Từ những quan điểm và nhận định trên, tham khảo cơ chế bảo hiến của một số quốc gia trên thế giới, chúng tôi có một số kiến nghị sau đây:
– Một là, chức năng bảo hiến phải được giao cho Tòa án. Trong điều kiện Việt Nam, khi trình độ, năng lực đội ngũ Thẩm phán thường còn nhiều hạn chế, độ tin cậy của hệ thống Tòa án trong xã hội chưa cao… thì không nên giao cho các Tòa án thường chức năng bảo hiến. Nên chăng, cần giao chức năng phán quyết về vi phạm hiến pháp cho một Tòa án Hiến pháp với các thẩm phán có trình độ, bản lĩnh, kinh nghiệm và có uy tín cao trong xã hội.
Tòa án Hiến pháp có những thẩm quyền như: (i) Phán quyết về sự vi hiến của các văn bản luật; (ii) Phán quyết về vi phạm quyền con người; (iii) Phán quyết về tính hợp hiến của các hoạt động lập pháp, hành pháp như bầu cử, trưng cầu ý dân, phán quyết khác của Quốc hội, Chính phủ…; (iv) Giải quyết tranh chấp giữa chính quyền trung ương và địa phương trong cơ chế phân quyền…
Tòa án Hiến pháp cũng là cơ quan tư pháp nên hoạt động theo nguyên tắc độc lập tuyệt đối và theo thủ tục tố tụng tư pháp. Vụ việc về vi phạm Hiến pháp chỉ được thụ lý khi có đơn kiện hoặc yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức, kể cả yêu cầu của Tòa án tư pháp thường khi giải quyết một vụ án cụ thể.
– Hai là, giao cho Tòa án nhân dân, nhất là Tòa án nhân dân tối cao nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, luật. Tòa án giải thích Hiến pháp, luật bằng các hình thức khác nhau, không nhất thiết phải bằng một văn bản giải thích như xưa nay chúng ta thường làm.
Một văn bản pháp luật có thể được hiểu khác nhau, nhưng một khi Tòa án đã ra phán quyết và phán quyết đó có hiệu lực thi hành, thì cách hiểu quy phạm pháp luật của Tòa án khi ra phán quyết đó trở thành văn bản giải thích Hiến pháp cũng như luật.
Đồng thời, ngoài giải thích luật, Tòa án nhân dân tối cao cần có thẩm quyền sử dụng các biện pháp khác nhau để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử như phát triển án lệ; tổng kết thực tiễn xét xử, ban hành văn bản giải đáp vướng mắc, thống nhất nhận thức về luật áp dụng trong xét xử của các Tòa án nhân dân.
– Ba là, mở rộng thẩm quyền của Tòa án, giao cho Tòa án nhân dân thẩm quyền phán quyết về mọi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân; đặc biệt là thẩm quyền xử lý, xử phạt hành chính; thẩm quyền giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với quyết định cá biệt và hành vi hành chính của tất cả người có thẩm quyền, bao gồm cả Thủ tướng, các Bộ trưởng…
Để thực hiện được nguyên tắc kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp Điều 2 của Hiến pháp năm 2013, cần có các quy định cho phép Tòa án nhân dân thực hiện việc kiểm soát các hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp. Nếu các chủ thể thực hiện quyền lập pháp, hành pháp được thực hiện quyền của mình đối với bất cứ lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nào của đất nước cũng không nên có “vùng cấm” trong việc thực hiện quyền tư pháp. Việc chỉ cho phép Tòa án nhân dân xem xét lại các quyết định cá biệt của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là chưa đủ. Cần luật định một cách cụ thể, rõ ràng cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã được quy định tại Điều 119 Hiến pháp năm 2013 theo hướng giao cho Tòa án thẩm quyền xem xét tính hợp hiến, hợp pháp các văn bản quy phạm pháp luật.
– Bốn là, là chủ thể có quyền độc lập đưa ra các phán quyết cuối cùng để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì không có lý do gì hoạt động của Tòa án lại bị kiểm soát bởi Viện kiểm sát, mà ngược lại, nên giao cho Tòa án thẩm quyền kiểm soát, kiểm tra các hoạt động có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do, dân chủ và các quyền lợi hợp pháp của cá nhân, công dân, tổ chức.
– Năm là, trước mắt, cần có quy định thời hạn cụ thể để cơ quan có thẩm quyền trả lời kiến nghị về tính vi hiến, trái luật của văn bản pháp luật mà Tòa án làm căn cứ phán quyết để Tòa án có căn cứ ra phán quyết kịp thời đối với các vụ án. Riêng đối với kiến nghị về luật, có thể giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, trả lời và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất để bảo đảm tính kịp thời trong bối cảnh Quốc hội làm việc không thường xuyên ở nước ta..
CHÚ THÍCH
[1] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 127
[2] Thái Vĩnh Thắng, “Nhu cầu bảo hiến và mô hình cơ quan bảo hiến phù hợp với Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Nxb. Thời đại, 2009, tr. 129 – 148.
[3] Đào Trí Úc, Hiến pháp và vấn đề bảo đảm tính hợp hiến ở Việt Nam, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập II, Nxb. Hồng Đức, 2012, tr. 290 – 309.
[4] PGS- TS Trần Văn Độ, “Tòa án nhân dân trong Hiến pháp 2013”, Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động xã hội, 2014, tr. 494 – 506.
Nguồn: Trần Văn Độ – Tạp chí Khoa học pháp lý số 03(115)/2018 – 2018, Trang 03-09
Like fanpage Luật sư Online tại https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời