Quy định về Điều ước quốc tế trong năm bản Hiến pháp của Việt Nam từ năm 1946 đến năm 2013
- Những quy định mới liên quan đến “Điều ước quốc tế” trong Hiến pháp năm 2013
- Nội luật hóa quy định của các “Điều ước quốc tế” về quyền miễn trừ
- Giải thích “Điều ước quốc tế” qua thực tiễn áp dụng của các Cơ quan tài phán quốc tế – những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Về vấn đề thực hiện “Điều ước quốc tế” theo Luật Điều ước quốc tế 2016
- Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
- Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam 2013
- TỪ KHÓA: Điều ước quốc tế, Hiến pháp Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2019
TÓM TẮT
Bài viết phân tích, làm sáng tỏ các quy định liên quan đến Điều ước quốc tế trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cũng như pháp luật của các nước dân chủ, tiến bộ trên thế giới, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất. Do vậy, Hiến pháp chính là “khung pháp lý” để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và là cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ năm 1945 đến năm 1992, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam) đã ban hành 05 bản Hiến pháp gồm: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Mỗi bản Hiến pháp được ban hành trong giai đoạn lịch sử nói trên đều gắn liền với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội đặc thù của đất nước.
1. Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 (sau đây viết tắt là “Hiến pháp năm 1946”): Hiến pháp năm 1946 được Quốc hội khóa I của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành vào ngày 9/11/1946.[1] Về cơ cấu và nội dung, Hiến pháp năm 1946 gồm 7 chương, 70 điều, phản ánh điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước trong những năm đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ. Vì vậy, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp dân chủ và tiến bộ nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ.[2] Tuy nhiên, do điều kiện đất nước có chiến tranh nên Hiến pháp 1946 không được công bố chính thức với quốc dân. Mặc dù vậy, giá trị tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 luôn được Chính phủ Lâm thời, Ban Thường vụ Quốc hội áp dụng để điều hành và quản lý đất nước. Tư tưởng lập hiến của Hiến pháp năm 1946 luôn được kế thừa và phát triển trong các bản Hiến pháp sau này của Việt Nam.
Hiến pháp năm 1946 chỉ dành 02 điều quy định các vấn đề liên quan đến điều ước quốc tế. Cụ thể, Điều 23 về nhiệm vụ và quyền hạn của Nghị viện nhân dân[3] ghi nhận: “Nghị viện nhân dân … chuẩn y[4] các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài”; và tại điểm h Điều 49 về Chủ tịch nước quy định, Chủ tịch nước có nhiệm vụ và quyền hạn “Ký hiệp ước[5] với các nước”. Mặc dù các quy định về điều ước quốc tế trong Hiến pháp năm 1946 còn khá đơn giản nhưng đây là cơ sở pháp lý để khẳng định, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quan tâm đến điều ước quốc tế, cơ sở pháp lý quốc tế để thiết lập và thực hiện mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.
2. Hiến pháp năm 1959
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959 (sau đây viết tắt là “Hiến pháp năm 1959”): Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 31/12/1959 tại Kỳ họp thứ 11. Về cấu trúc và nội dung, Hiến pháp 1959 gồm 10 chương, 112 điều ghi rõ những thắng lợi cách mạng to lớn mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và nêu rõ mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta trong giai đoạn mới, đồng thời quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân nhằm phát huy sức sáng tạo to lớn của nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và thống nhất đất nước.
Hiến pháp 1959 dành 02 điều quy định các vấn đề liên quan đến điều ước quốc tế. Cụ thể, tại khoản 12 Điều 53 về quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hiến pháp quy định, cơ quan này có thẩm quyền“Quyết định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước ký với nước ngoài, trừ trường hợp mà Ủy ban thường vụ Quốc hội xét cần phải trình Quốc hội quyết định”. Tiếp đó, Điều 64 quy định:“Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa … căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà phê chuẩn hiệp ước ký với nước ngoài”. Như vậy, Hiến pháp 1959 không quy định thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế của Quốc hội mà giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế mà Việt Nam dân chủ cộng hòa là thành viên. Đồng thời, Hiến pháp 1959 trao cho Chủ tịch nước thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế trên cơ sở quyết định của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Như vậy, theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa không có thẩm quyền độc lập trong việc đưa ra quyết định phê chuẩn điều ước quốc tế mà chỉ thực hiện thẩm quyền này theo “ý chí” của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đồng thời, Hiến pháp 1959 cũng không trao thẩm quyền gia nhập và chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế cho Chủ tịch nước. Chúng tôi cho rằng, đây là điểm hạn chế của Hiến pháp 1959. Bởi lẽ, hầu hết hiến pháp của các quốc gia trên thế giới vào thời kỳ này đều quy định, Nguyên thủ quốc gia có thẩm quyền phê chuẩn, gia nhập và chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế.
3. Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 (sau đây viết tắt là “Hiến pháp năm 1980”): Hiến pháp 1980 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp khóa VI ngày 18/12/1980.[6] Về cơ cấu và nội dung, Hiến pháp năm 1980 gồm 12 chương, 147 điều, tổng kết và xác định những thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Đồng thời, Hiến pháp năm 1980 quy định các nội dung cơ bản về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý trong xã hội Việt Nam.
Hiến pháp năm 1980 đã dành 02 điều quy định các vấn đề liên quan đến điều ước quốc tế. Cụ thể, tại khoản 15 Điều 83 đã hiến định, Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn: “Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế theo đề nghị của Hội đồng Nhà nước”. Khoản 16 Điều 100 quy định, Hội đồng Nhà nước có nhiệm vụ quyền hạn:“…Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những niệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định”. Theo các quy định trên, Hiến pháp năm 1980 đã trao thẩm quyền phê chuẩn và bãi bỏ điều ước quốc tế cho 02 cơ quan là Quốc hội và Hội đồng Nhà nước[7] mà không giao nhiệm vụ, quyền hạn này cho Chủ tịch nước. Bởi lẽ, theo Hiến pháp 1980 thì Chủ tịch nước là “chế định Chủ tịch tập thể”.
4. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) (sau đây viết tắt là “Hiến pháp năm 1992”): Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/4/1992 và được sửa đổi, bổ sung năm 2001 bằng Nghị quyết số 51/2001/QH10. Về cơ cấu và nội dung, Hiến pháp năm 1992 gồm 12 chương, 147 điều, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý. Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước ta.
Hiến pháp năm 1992 đã dành 3 điều quy định các vấn đề liên quan đến điều ước quốc tế. Cụ thể, khoản 13 Điều 84 Hiến pháp 1992 quy định Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn:“Quyết định… phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước”. Đồng thời, tại khoản 10 Điều 103 quy định Chủ tịch nước có nhiệm vụ và quyền hạn: “…Quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định”. Tiếp đó, khoản 8 Điều 112 quy định, Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn, “… ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia…”.
Khác với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đã trao cho Quốc hội và Chủ tịch nước nhiệm vụ và quyền hạn phê chuẩn, bãi bỏ và tham gia điều ước quốc tế. Đồng thời, Hiến pháp năm 1992 đã trao cho Chính phủ nhiệm vụ và quyền hạn ký kết, tham gia, phê duyệt và chỉ đạo thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Các quy định về điều ước quốc tế trong Hiến pháp năm 1992 là khá hiện đại, tương thích với nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan lập pháp, hành pháp và Nguyên thủ quốc gia theo pháp luật của các quốc gia phát triển thế giới.
5. Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013, là đạo luật quan trọng nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như tổng kết thực tiễn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đồng thời, thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Với bố cục 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992), Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu sắc và toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; đột phá trong việc hiến định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 đã và đang đi vào cuộc sống và ngày càng thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
So với 4 bản hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề pháp lý liên quan đến điều ước quốc tế nhằm khẳng định quan điểm và chính sách đối ngoại của Nhà nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, Việt Nam “tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” tại Điều 12, đồng thời quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập, chấm dứt hiệu lực, chỉ đạo và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế tại các Điều 70, 88, 96, 98 với những nội dung cơ bản sau đây:
– Một là, hiến định việc tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên
Về phương diện pháp luật quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc là nguồn luật quốc tế và là điều ước quốc tế đa phương, toàn cầu quan trọng nhất. Với giá trị pháp lý là “Hiến pháp của cộng đồng quốc tế”, Hiến chương quy định các nội dung cơ bản liên quan đến các quốc gia, dân tộc trên thế giới với tôn chỉ và mục đích“duy trì hòa bình và an ninh quốc tế; phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và tiến hành những biện pháp phù hợp khác để củng cố hòa bình thế giới; thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, và trong việc khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo; trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc, nhằm đạt được những mục đích chung nói trên”.[8]
Từ khi gia nhập Liên hợp quốc đến nay,[9] Việt Nam luôn tuân thủ và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của quốc gia thành viên theo quy định của Hiến chương. Tuy nhiên, các bản Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 cũng như các bộ luật, các luật và văn pháp quy phạm pháp luật khác của Việt Nam được ban hành trước Hiến pháp năm 2013 không có văn bản nào quy định trực tiếp nghĩa vụ tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc. Do vậy, việc Hiến pháp năm 2013 hiến định, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam“tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc” tại Điều 12, là lần đầu tiên Việt Nam cam kết rõ ràng và cụ thể nghĩa vụ quốc tế đặc biệt quan trọng này. Chúng tôi cho rằng, đây là một sự thay đổi lớn, có tính bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đồng thời khẳng định vai trò và tầm quan trọng của Luật quốc tế nói chung, Hiến chương Liên hợp quốc nói riêng đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận trong 69 năm ra đời, tồn tại và phát triển của Liên hợp quốc từ năm 1945 đến nay trên tất cả lĩnh vực của đời sống quốc tế, đặc biệt là hòa bình và an ninh quốc tế, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền con người. Do vậy, hơn lúc nào hết, Việt Nam cần phải hợp tác toàn diện với Liên hợp quốc, dựa vào Liên hợp quốc trong khuôn khổ Hiến chương Liên hợp quốc để xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đa dạng hóa và đa phương hóa các mối quan hệ, hợp tác quốc tế. Chính từ quan hệ hợp tác với Liên hợp quốc mà vị thế, vai trò của nước ta đối với khu vực và thế giới ngày càng được củng cố và nâng cao. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, Hiến định nghĩa vụ tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc trong Hiến pháp là một tất yếu khách quan trong bối cảnh quốc tế ngày nay.
Bên cạnh việc hiến định nghĩa vụ tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 cũng đã ghi nhận nghĩa vụ tuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Mặc dù trước đó, Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005 đã quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…”,[10] chúng tôi cho rằng, hiến định nghĩa vụ tuân thủ điều ước quốc tế trong Hiến pháp có giá trị pháp lý cao nhất và là minh chứng khẳng định mạnh mẽ nhất, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia tôn trọng luật quốc tế, hành xử đúng luật quốc tế và thực hiện các mối quan hệ quốc tế dựa trên cơ sở pháp luật quốc tế. Đồng thời, với cam kết này, các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính phủ trong khu vực và thế giới sẽ tin tưởng hơn trong việc thiết lập và thực hiện các quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học kỹ thuật… với Việt Nam. Bởi lẽ, về phương diện pháp luật quốc tế, các quốc gia có nghĩa vụ“tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế” theo đúng tinh thần và nội dung của nguyên tắc “pacta sunt servanda”, một trong bảy nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Do vậy, có thể khẳng định rằng, hiến định nghĩa vụ “tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” là một sự thay đổi rất lớn về nhận thức của Nhà nước ta đối với luật pháp quốc tế và là sự thay đổi có tính đột phá trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Trên thực tế, để hội nhập quốc tế có hiệu quả đòi hỏi các quốc gia trên thế giới phải dựa vào luật quốc tế, tuân thủ luật quốc tế. Mặt khác, khi quốc gia đã tuân thủ luật quốc tế thì quốc gia đó sẽ có quyền yêu cầu các quốc gia khác cũng phải tuân thủ và thực hiện luật quốc tế. Tinh thần này đã tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa trong Luật Điều ước quốc tế năm 2016.[11] Đồng thời, Việt Nam cũng cam kết “Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp”.[12]
Trên bình diện quốc tế, Hiến pháp của các nước Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,[13] Cộng hòa Pháp,[14] Hàn Quốc,[15] Ba Lan[16] cũng quy định nghĩa vụ tuân thủ và thực hiện điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, Hiến pháp năm 2013 quy định Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới.
– Hai là, quy định cụ thể hơn Hiến pháp năm 1992 về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực đàm phán, ký, phê chuẩn, gia nhập, thực hiện và chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế
Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội trong việc phê chuẩn, gia nhập và chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế. Trước đó, theo quy định tại khoản 13 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, Quốc hội chỉ có thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế theo đề nghị của Chủ tịch nước.[17] Có nghĩa là, Hiến pháp năm 1992 không quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội trong việc quyết định gia nhập điều ước quốc tế. Đồng thời, Hiến pháp năm 1992 cũng không quy định rõ các loại điều ước quốc tế mà Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn phê chuẩn hoặc bãi bỏ. Khắc phục những hạn chế này của Hiến pháp năm 1992, khoản 14 Điều 70 của Hiến pháp năm 2013 đã liệt kê cụ thể các điều ước quốc tế mà Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn phê chuẩn, gia nhập và chấm dứt hiệu lực là các “… điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội”. Chúng tôi cho rằng, Hiến pháp năm 2013 trao cho Quốc hội nhiệm vụ và quyền hạn quyết định việc phê chuẩn, gia nhập và chấm dứt hiệu lực các điều ước quốc tế này là phù hợp nhất nhằm bảo đảm an toàn vận mệnh chính trị, chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế cũng như tính thống nhất và giá trị pháp lý của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia. Bởi lẽ, “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội… quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước…”.[18]
Theo chúng tôi, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có thẩm quyền “quyết định gia nhập điều ước quốc tế”, “quyết định chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế” là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn ký kết, gia nhập điều ước quốc tế của Việt Nam và thế giới. Trên thực tế, từ trước tới nay, Quốc hội nước ta đã quyết định gia nhập rất nhiều điều ước quốc tế khu vực và toàn cầu có tầm quan trọng đặc biệt như Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 1977, Hiệp ước Biên giới trên đất liền giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1999, Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về Phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2001… Mặt khác, Hiến pháp 2013 sử dụng thuật ngữ “chấm dứt điều ước quốc tế” thay cho thuật ngữ “bãi bỏ điều ước quốc tế ” được sử dụng trong Hiến pháp năm 1992 là phù hợp với các quy định của Công ước Vienna về luật điều ước quốc tế năm 1969 mà Việt Nam là thành viên.[19]
– Ba là, quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế của Chủ tịch nước
Theo quy định tại khoản 10 Điều 103 Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước có thẩm quyền “tiến hành đàm phán”,“ký kết điều ước quốc tế” nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định.[20] Chúng tôi cho rằng, Hiến pháp năm 1992 quy định như vậy là không phù hợp với thực tiễn đàm phán, ký kết điều ước quốc tế. Bởi lẽ, trên thực tế, Chủ tịch nước không “tiến hành đàm phán” các điều ước quốc tế. Mặt khác, về phương diện khoa học pháp lý quốc tế, “ký kết điều ước quốc tế” là hành vi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện bao gồm các hoạt động đàm phán, ký, phê chuẩn, phê duyệt để điều ước quốc tế có hiệu lực.[21] Nói cách khác, “ký kết điều ước quốc tế” chính là quá trình cụ thể hóa ý tưởng, cam kết, thoả thuận hợp tác của các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thành văn bản pháp luật quốc tế có hiệu lực để thực hiện. Trước đây, khoản 10 Điều 103 của Hiến pháp năm 1992 quy định, Chủ tịch có thẩm quyền “quyết định tham gia điều ước quốc tế…”. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là không phù hợp với Công ước Vienna về luật điều ước quốc tế năm 1969. Bởi vì, Công ước Vienna về luật điều ước quốc tế năm 1969 sử dụng thuật ngữ “gia nhập” điều ước quốc tế chứ không sử dụng thuật ngữ “tham gia điều ước quốc tế”. Về bản chất, gia nhập điều ước quốc tế là “hành động của chủ thể luật quốc tế đồng ý chấp nhận sự ràng buộc với điều ước quốc tế mà chủ thể đó chưa phải là thành viên”[22] hoặc là hành vi “quốc gia xác nhận sự đồng ý của mình, trên phương diện quốc tế, chịu sự ràng buộc của một điều ước”.[23]
Khắc phục những hạn chế nói trên của Hiến pháp năm 1992, khoản 6 Điều 88 Hiến pháp 2013 quy định Chủ tịch nước có nhiệm vụ, quyền hạn: “6. … quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước”. Với quy định này, Chủ tịch nước có 4 nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến điều ước quốc tế sau đây:
(1) Quyết định đàm phán các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước;[24]
(2) Ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước;
(3) Trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
(4) Quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước khác.
Theo chúng tôi, những sửa đổi và bổ sung nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước liên quan đến điều ước quốc tế như đã phân tích ở trên là khoa học, phù hợp với thực tiễn thực cũng như luật pháp và thông lệ quốc tế.
– Bốn là, quy định rõ các nội dung liên quan đến thẩm quyền đàm phán, ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế và chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế của Chính phủ
Trước đây, theo quy định tại khoản 8 Điều 112 của Hiến pháp năm 1992 thì Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.[25] Như chúng tôi đã phân tích ở trên về ý nghĩa của các thuật ngữ “ký kết điều ước quốc tế ” và “tham gia điều ước quốc tế”. Do vậy, Hiến pháp năm 1992 quy định như vậy là chưa thật sự khoa học và cũng chưa phù hợp với thực tiễn ký kết điều ước quốc tế. Mặt khác,“chỉ đạo” việc thực hiện điều ước quốc tế chỉ có thể là vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân chứ không phải là nhiệm vụ và quyền hạn của tập thể Chính phủ.[26] Chính vì vậy, quy định như Điều 112 khoản 8 Hiến pháp năm 1992 dẫn đến nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực ký kết và thực hiện điều ước chưa rõ ràng và cụ thể.
Khắc phục những hạn chế nói trên của Hiến pháp năm 1992, khoản 7 Điều 96 Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn “Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70…”. Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Chính phủ có 02 nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế sau đây:
(1) Tổ chức đàm phán, ký điều ước nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước;
(2) Quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ[27] (trừ các điều ước liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế trái với luật, nghị quyết của Quốc hội).
Chúng tôi cho rằng, các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế tại khoản 7 Điều 96 của Hiến pháp năm 2013 là khoa học và hợp lý hơn so với các quy định tại khoản 8 Điều 112 của Hiến pháp năm 1992.
– Năm là, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ đối với các hoạt động đàm phán, ký, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
Trong thực tiễn, Thủ tướng Chính phủ có vai trò rất lớn trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 lại không có quy định nào về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực này. Theo chúng tôi, đây là một trong những hạn chế của Hiến pháp năm 1992. Bởi lẽ, với tư cách là người lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật; lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia[28] thì Hiến pháp trao thẩm quyền quyết định việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập các điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, hoặc các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước được Chủ tịch nước ủy quyền là hoàn toàn phù hợp với vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ. Trên thực tế, hầu hết các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên dù được đàm phán, ký kết với danh nghĩa Nhà nước hay Chính phủ đều do các thành viên của Chính phủ tham gia đàm phán, ký kết. Mặt khác, tất cả các điều ước quốc tế được Quốc hội hay Chủ tịch nước phê chuẩn hoặc Chính phủ phê duyệt mới phát sinh hiệu lực hoặc phát sinh hiệu lực sau khi được ký chính thức đều do Chính phủ tổ chức thực hiện thông qua hoạt động của các Bộ, ngành. Do vậy, khoản 5 Điều 98 của Hiến pháp năm 2013 quy định Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn “Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” là hoàn toàn phù hợp với vị trí, vai trò của Thủ tướng Chính phủ, là người đứng đầu Chính phủ, người lãnh đạo cao nhất của Chính phủ đã được Hiến pháp quy định.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất và là đạo luật quan trọng nhất của một quốc gia. Chính vì vậy, nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Hiến pháp năm 2013 thì rà soát tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ và ban hành các luật và văn bản dưới luật nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật nói chung và giá trị pháp lý cũng như hiệu lực tối cao của Hiến pháp nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Với tinh thần đó, ngày 20/11/2014 tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014. Theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội liên quan đến việc phê chuẩn, gia nhập và chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế được quy định tại khoản 14 Điều 70 của Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục được ghi nhận tại Điều 18: “Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước”.
Tiếp đó, ngày 19/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015. So với Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 đã bổ sung nhiều nội dung, trong đó có các nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ liên quan đến điều ước quốc tế phù hợp với quy định tại khoản 7 Điều 96 của Hiến pháp năm 2013 nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập và chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế, qua đó, phát huy mạnh mẽ vai trò nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ nói chung và trong lĩnh vực liên quan đến điều ước quốc tế nói riêng trong tình hình mới. Theo quy định tại khoản 3 Điều 12 của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn:“…3. Trình Quốc hội, Chủ tịch nước xem xét, quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực đối với điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước. Quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ”. Cuối cùng, cả về phương diện khoa học và thực tiễn, việc Quốc hội ban hành Luật Điều ước quốc tế năm 2016 thay thế cho Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 là hoạt động chuyển hóa Hiến pháp vào luật chuyên ngành một cách toàn diện, cụ thể và chi tiết nhất. Bởi lẽ, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 là đạo luật chuyên ngành quan trọng nhất, quy định tổng thể các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động ký kết, bảo lưu, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện, lưu chiểu, lưu trữ, sao lục, đăng tải, đăng ký và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế.
Như đã phân tích ở trên, đối với Việt Nam, hoạt động ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế là cơ sở, nền tảng pháp lý để tăng cường và mở rộng các quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó, công tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Do vậy, việc ban hành Luật Điều ước quốc tế năm 2016 đã, đang và sẽ góp phần to lớn vào hoạt động đàm phán, ký kết điều ước quốc tế của nước ta với các quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ và các vùng lãnh thổ được công nhận là chủ thể của luật quốc tế, qua đó, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong bối cảnh thế giới ngày nay. Trong đó, tuân thủ và áp dụng điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên vào thực tiễn là hoạt động mang tính quyết định kết quả hợp tác giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Bởi lẽ, về phương diện pháp luật quốc tế, tuân thủ và thực hiện điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên là một trong những nghĩa vụ pháp lý quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt của mỗi quốc gia. Mặt khác, nhằm thực hiện đúng cam kết “tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” đã được hiến định tại khoản 2 Điều 12 của Hiến pháp năm 2013 thì tổng kết, đánh giá toàn diện công tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế nhằm thống kê chính xác số lượng điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập đang có hiệu lực từ trước tới nay là hoạt động rất cần thiết và cấp bách. Tiếp đó, chúng ta cần phải tiếp tục rà soát hoạt động nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên vào nội luật.[29] Kể từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 đến nay, các cơ quan có thẩm quyền đã rà soát để nội luật hóa các điều ước quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt đã được quy định tại khoản 14 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, Nghị quyết của Quốc hội.
Về phương pháp nội luật hoá và áp dụng điều ước quốc tế, Việt Nam sẽ thực hiện theo nguyên tắc,“Tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” được hiến định trong Hiến pháp 2013.[30] Nguyên tắc này tiếp tục được cụ thể hoá trong Luật Điều ước quốc tế 2016. Theo đó, nếu “văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề” thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.[31] Trong thực tiễn, nếu điều ước quốc tế có quy định khác với các bộ luật hoặc các luật thì Việt Nam có thể phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập để trở thành viên của điều ước quốc tế sau đó sẽ tiến hành sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với điều ước quốc tế để thực hiện. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ có thể trở thành viên của điều ước có quy định khác với Hiến pháp sau khi đã sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
Mặt khác, căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.[32]
Chúng tôi cho rằng, với những sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, đặc biệt là việc ban hành Luật Điều ước quốc tế 2016 thay thế cho Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 thì tinh thần và nội dung của Hiến pháp 2013 đã được chuyển hoá đầy đủ, cụ thể vào các luật chuyên ngành để các cơ quan nhà nước và cá nhân, tổ chức có thẩm quyền tổ chức thực hiện trên thực tế..
CHÚ THÍCH
[1] Toàn văn Hiến pháp Việt Nam năm 1946.
[2] Tính dân chủ của Hiến pháp năm 1946 thể hiện đặc biệt tại Điều thứ nhất với quy định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giầu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
[3] Nay là Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[4] “Chuẩn y điều ước quốc tế” tức là “phê chuẩn điều ước quốc tế”.
[5] Hiệp ước chỉ là một trong nhiều tên gọi của điều ước quốc tế. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 của Công ước Vienna về Luật Điều ước quốc tế năm 1969 thì: “Thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì”. Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 thì “Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác”.
[6] Ngày 02/7/1976, Quốc hội Việt Nam đã quyết định đổi tên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[7] Hội đồng Nhà nước là chế định đặc biệt theo Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa. Theo đó Hội đồng Nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở Việt Nam, chế độ Hội đồng Nhà nước chỉ tồn tại 12 năm, từ năm 1980 đến năm 1992.
[8] Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc 1945.
[9] Tại phiên họp lần thứ 32 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc ngày 20/9/1977, Việt Nam được chính thức công nhận là thành viên thứ 149 của Liên Hợp quốc.
[10] Điều 3 khoản 6 Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005.
[11] Khoản 4 Điều 3.
[12] Khoản 1 Điều 6.
[13] Xem Điều 6 Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
[14] Xem Điều 55 Hiến pháp Cộng hòa Pháp quy định: “Điều ước hoặc Hiệp ước quốc tế đã được phê chuẩn hoặc phê duyệt theo đúng quy định, thì ngay khi được công bố sẽ có giá trị pháp lý cao hơn luật trong nước, với điều kiện điều ước hoặc Hiệp ước đó cũng được bên ký kết kia tôn trọng, áp dụng”.
[15] Xem Điều 6 Hiến pháp Hàn Quốc.
[16] Xem Điều 9, Điều 87 khoản 1, Điều 91 Hiến pháp của Cộng hòa Ba Lan.
[17] Điều 84 khoản 13 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định, Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: “…phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước”.
[18] Điều 69 Hiến pháp 2013.
[19] Việt Nam gia nhập Công ước Vienna về luật điều ước quốc tế năm 1969 vào ngày 02/10/2001. Tên và các điều khoản liên quan của Phần thứ V (từ Điều 42 đến Điều 72) của Công ước này sử dụng thuật ngữ “chấm dứt hiệu lực”.
[20] Điều 103 khoản 10 Hiến pháp 1992 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước như sau: “10- Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định”.
[21] Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, 2006, tr. 437.
[22] Bộ Tư pháp, tlđd, tr. 283.
[23] Điều 2 khoản 1 điểm b Công ước Vienna về luật điều ước quốc tế năm 1969.
[24] Điều 4 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định: “Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trong các trường hợp sau đây:
a) Điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu Nhà nước khác;
b) Điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
c) Điều ước quốc tế về việc thành lập, tham gia tổ chức quốc tế và khu vực nếu việc thành lập, tham gia, rút khỏi tổ chức đó ảnh hưởng đến chính sách cơ bản của quốc gia về đối ngoại, quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế – xã hội, tài chính, tiền tệ;
d) Điều ước quốc tế làm thay đổi, hạn chế hoặc chấm dứt quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội;
đ) Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.
[25] Điều 112 khoản 8 Hiếp pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn, “8- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài”.
[26] Theo Từ điển Tiếng Việt thì “chỉ đạo” là “điều khiển, dẫn dắt; vai trò chỉ đạo”. Viện Khoa học xã hội và nhân văn, Từ điển Tiếng Việt, Nxb, Từ điển Bách khoa, 2007, tr. 230.
[27] Theo Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Chính phủ trong các trường hợp sau đây:
a) Để thực hiện điều ước quốc tế đã được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước;
b) Điều ước quốc tế về các lĩnh vực, trừ các trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này;
c) Điều ước quốc tế về các tổ chức quốc tế, trừ trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này;
d) Điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Chính phủ theo thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài.
[28] Khoản 1, khoản 2 Điều 98 Hiến pháp năm 2013.
[29] Ở Việt Nam, có 2 quan điểm cơ bản về “nội luật hóa”. Quan điểm thứ nhất cho rằng, nội luật hóa là quá trình pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm chấp nhận hiệu lực ràng buộc của điều ước quốc tế. Quan điểm này gần như đồng nhất hoạt động nội luật hóa với việc quốc gia chấp nhận hiệu lực pháp lý của điều ước. Do đó, sau khi hoàn tất thủ tục pháp lý trong nước để chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế thì các quy định của điều ước có giá trị pháp lý và được áp dụng trên lãnh thổ quốc gia. Quan điểm thứ hai cho rằng, nội luật hóa và quá trình chấp nhận hiệu lực pháp lý của điều ước quốc tế là hai khái niệm pháp lý khác nhau và có mối quan hệ tương đối độc lập với nhau. Việc chấp nhận hiệu lực pháp lý của điều ước là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn tất các thủ tục pháp lý trong nước và thông qua đó thể hiện việc quốc gia tham gia điều ước chấp nhận việc áp dụng các quy định của điều ước đó đối với mình. Trong khi đó, nội luật hóa là quá trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết để chuyển hóa các quy phạm của điều ước quốc tế thành quy phạm của pháp luật quốc gia bằng cách ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật trong nước để cho nội dung của các quy định của điều ước quốc tế chiếm toàn bộ hoặc da số phần nội dung của quy phạm pháp luật trong nước. Chúng tôi đồng thuận với quan điểm thứ hai. Xem: Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Đề tài khoa học cấp bộ Nội luật hóa điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Chủ nhiệm TS. Hoàng Phước Hiệp, 2007, tr. 18.
[30] Khoản 4 Điều 3 Luật Điều ước quốc tế 2016.
[31] Khoản 1 Điều 6 Luật điều ước quốc tế năm 2016.
[32] Khoản 2 Điều 6 Luật điều ước quốc tế năm 2016.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Nội luật hóa điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Chủ nhiệm Hoàng Phước Hiệp, 2007 [trans: Ministry of Justice, Legal Research Institute, Legalize Vietnamese international treaties signed and participated in international economic integration process, Chairman: Hoang Phuoc Hiep, 2007 ]
- Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, 2006 [trans: Ministry of Justice, Legal Research Institute, Law dictionary, Bach Khoa Dictionary Publishing House & Justice Publishing House, 2006]
- Viện Khoa học xã hội và nhân văn, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách khoa, 2007 [trans: Institute of Social Sciences and Humanities, Vietnamese Dictionary, Bach Khoa Dictionary Publishing House, 2007]
- Fanpage Luật sư Online: https://www.facebook.com/iluatsu/
Tác giả: Ngô Hữu Phước – Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05(126)/2019 – 2019, Trang 67-81