Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 – Hiến pháp của tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
- Chất lượng của pháp luật trong nhà nước pháp quyền – ThS. Nguyễn Văn Quân
- Phân tích các giá trị của nhà nước pháp quyền
- Phân tích các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
- Vai trò của cơ quan quản lý bầu cử trong nhà nước pháp quyền – ThS. Trần Thị Thu Hà
TÓM TẮT
Hiến pháp mới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2014. Với nhiều sửa đổi quan trọng liên quan đến các vấn đề phát huy dân chủ, quan điểm nhân quyền và tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp 2013 đã góp phần quan trọng trong việc đưa nước ta tiến xa hơn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện một nhà nước pháp quyền. Thông qua việc phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như những nội dung quan trọng của Hiến pháp năm 2003 về các vấn đề trên, bài viết cho thấy việc sửa đổi Hiến pháp đã mở ra những nền tảng chính trị – pháp lý vững chắc và ổn định cho việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
TỪ KHÓA: Nhà nước pháp quyền
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2014. Là Luật cơ bản của nước CHXHCN Việt Nam và với vị trí pháp lý cao nhất, bằng cả lời văn và tinh thần của nó, Hiến pháp năm 2013 có sứ mệnh tạo nền tảng pháp lý vững chắc và động lực mạnh mẽ cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội và sinh hoạt quốc gia trên nền tảng dân chủ, pháp quyền. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam phản ảnh nhu cầu bức xúc của sự phát triển mọi mặt của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập, bảo đảm sự phù hợp với các giá trị căn bản của thời đại.
Sửa đổi Hiến pháp nhằm mục đích mở ra những nền tảng chính trị – pháp lý vững chắc và ổn định cho việc tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước; tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể chế hóa sâu sắc hơn quan điểm về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người; xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Đồng thời, sửa đổi Hiến pháp còn có mục đích bảo đảm để Hiến pháp có sức sống lâu bền, bảo đảm hiệu lực, tính ổn định cao của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN.
Nhận thức về Hiến pháp là tiền đề quan trọng cho việc ban hành Hiến pháp 2013
Về mặt lý luận, trong hơn một thập niên trở lại đây, các vấn đề về Hiến pháp đã trở thành tâm điểm trong quan điểm lý luận chính trị của Đảng ta.
Thứ nhất, đã bước đầu tạo nhận thức đầy đủ hơn về bản chất của Hiến pháp. Theo đó, Hiến pháp không chỉ đơn thuần và về mặt hình thức là đạo luật có hiệu lực cao nhất trong hệ thống pháp luật mà trước hết là một văn bản thể hiện ý chí của nhân dân, là hiện thân của chủ quyền nhân dân. Bằng Hiến pháp, nhân dân thực hiện trực tiếp và thông qua (ủy quyền) cho các thiết chế Nhà nước.
Thứ hai, Hiến pháp cần có sức sống bền vững nhằm tạo sự ổn định của quá trình phát triển đất nước. Hiến pháp và chỉ có ở mức độ của Hiến pháp mới có thể phá dỡ được các rào cản pháp lý làm cản trở quá trình phát triển đi lên của đất nước và xã hội. Trong số đó có các vấn đề cốt từ về kinh tế – xã hội như sở hữu, các thành phần kinh tế, quản trị tài sản quốc gia, phòng chống tham nhũng.
Cùng với nhận thức về chủ quyền của Nhân dân, sự nhận thức về vị trí, vai trò của Hiến pháp ngày càng đầy đủ hơn rằng, Hiến pháp phải phản ánh, bảo đảm và bảo vệ những lợi ích sống còn của các lực lượng xã hội làm nền tảng pháp lý cho đường lối chính trị chủ đạo nhằm phát triển đất nước và xã hội, vv.
Hiến pháp, cũng như bản thân quyền lực nhà nước, cũng luôn luôn là cơ sở pháp lý của toàn xã hội nhằm ghi nhận và thể hiện những lợi ích tương hợp của các tầng lớp xã hội, lợi ích chung của Nhân dân, của dân tộc, đương nhiên ở đó luôn luôn có tính đến và trên thực tế phải tính đến lợi ích và ý chí của tầng lớp, của giai cấp là lực luợng xã hội chủ đạo trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Cũng vì thế mà những khái niệm “Nhân dân”, “dân tộc” luôn luôn là những khái niệm mở đầu cho các bản Hiến pháp.
Tư tưởng quyền lực thuộc về Nhân dân, Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là kết tinh trí tuệ và văn minh nhân loại, là thành quả đấu tranh bền bỉ của Nhân dân. Tư tưởng đó đã chuyển hóa, phát triển từ quan điểm, học thuyết trong các cuộc tranh luận học thuật và quan điểm thành các chế định dân chủ và pháp quyền được ghi nhận trong các Hiến pháp, pháp luật và trong tổ chức thực hiện quyền lực. Đó là chủ nghĩa lập hiến trong lý luận và trong thực tiễn. Đó là sự ghi nhận, sự thừa nhận điều kiện tiên quyết cho một chính quyền hợp pháp và chính đáng: khi chính quyền đó được hình thành và hoạt động trên cơ sở sự đồng thuận của Nhân dân. Những hoạt động, những tổ chức do Nhà nước tiến hành sẽ bị coi là không hợp pháp, “không có thẩm quyền nếu không có sự ưng thuận của Nhân dân” (J.Locke)[1].
Có thể nói rằng, sửa đổi và phát triển Hiến pháp, sự khẳng định tôn trọng Hiến pháp đã trở thành một nguyên tắc xuyên suốt của tư tưởng Nhà nước pháp quyền về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, và sự minh bạch của nhà nước, khẳng định quyền lực của nhân dân như là lá chắn cho việc bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc chủ đạo của chế độ pháp quyền là nguyên tắc về sự tối thượng của Hiến pháp, là thể hiện sự khẳng định chủ quyền của nhân dân, quyền của nhân dân kiểm soát Nhà nước. Nhà nước chịu sự ràng buộc của Hiến pháp là chịu sự ràng buộc của Nhân dân. Quyền của Nhân dân đối với Nhà nước là quyền của chủ nhân quyền thực hiện khả năng kiểm soát và giám sát người được giao quyền, được ủy quyền. Đó là một nguyên lý chắc chắn không thể nghi ngờ hoặc tranh cãi.
Bản chất xã hội của các Hiến pháp ngày nay phản ánh một giai đoạn mới của chủ nghĩa lập hiến hiện đại. Theo đó các quốc gia cố gắng tìm kiếm những phương thức thể hiện lợi ích vì một sự đồng thuận xã hộiđể phát triển, nhất là trong bối cảnh xung đột sắc tộc, tôn giáo, kinh tế, chính trị đang có chiều hướng gia tăng ở nhiều khu vực trên thế giới. Vì vậy, Hiến pháp đã được trao trở lại sứ mệnh của một bản khế ước về mặt pháp lý của các lực lượng xã hội mà đối tượng điều chỉnh trọng tâm là sự thoả hiệp lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các lực lượng xã hội, v.v
Thứ ba, Hiến pháp có vai trò to lớn trong việc tạo ra những khả năng mới làm cho các yếu tố pháp quyền đầy đủ hơn, chắc chắn hơn. Đó là việc bảo đảm vai trò tối thượng của Hiến pháp và sự tôn trọng Hiến pháp trong đời sống xã hội và trong sinh hoạt quốc gia, nhu cầu thực hiện trực tiếp tinh thần và lời văn của Hiến pháp nhằm tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo đảm và bảo vệ quyền con người; là bảo đảm để có sự thống nhất, sự phân công, phối hợp và kiểm soát hữu hiệu quyền lực giữa các cơ quan trong tổ chức quyền lực nhà nước; đó là sự độc lập của hoạt động xét xử, bảo đảm để nền tư pháp duy trì và bảo vệ công lý, thực sự “là chỗ dựa tin cậy của nhân dân”[2],bảo đảm xử lý đúng đắn mối quan hệ pháp lý giữa Trung ương và địa phương trong các lĩnh vực quản trị quốc gia.
Chỉ số hiệu lực của Hiến pháp được phản ánh thông qua hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước, toàn bộ sinh hoạt quốc gia, đời sống xã hội, ý thức và hành động của công dân. Khi Hiến pháp được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh có thể thấy một nền Hiến pháp vững chắc, một xã hội bền vững và dân chủ pháp quyền được đề cao. Ngược lại, khi Hiến pháp bị pháp luật lấn lướt thì kỷ cương quốc gia, trật tự xã hội, quyền con người có vấn đề, bởi vì, Hiến pháp và văn bản có giá trị pháp lý cao nhất phản ánh chủ quyền tối thượng của nhân dân, của quốc gia, của dân tộc. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã đặt ra một quy định mới chưa từng có trong tiền lệ sinh hoạt quốc gia ở nước ta. Theo đó, “sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp” (khoản 7, Điều 70 Hiến pháp).
Về mặt cơ sở thực tiễn, việc ban hành Hiến pháp năm 2013 ở nước ta xuất phát từ những thay đổi quan trọng trong tiến trình đổi mới đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, Hiến pháp năm 1992 lúc mới ra đời đã có vai trò mở đường cho những quan hệ kinh tế thị trường phát triển ở nước ta. Tuy nhiên, đến thời điểm này thì các quy định của Hiến pháp hiện hành vốn chỉ phù hợp với một loại quan hệ kinh tế thị trường sơ khai trước đây đã không đủ sức ghi nhận nhằm ổn định hóa sự phát triển các quan hệ kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính vì vậy đã diễn ra sự thiếu tương thíchgiữa Hiến pháp và diễn biến thực tế của đời sống kinh tế mà theo cách nói của V.I. Lê-nin là sự khác nhau giữa “Hiến pháp pháp lý”và “Hiến pháp thực tế”. Những hiện tượng tiêu cực như tham nhũng đất đai, sự rối loạn khó kiểm soát của thị trường bất động sản, tình trạng lãng phí và thiếu kiểm soát trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên của đất nước, những bất cập trong hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế nhà nước v.v… là biểu hiện của sự vênh nhau giữa Hiến pháp pháp lý và Hiến pháp thực tế ở nước ta trong thời gian khá dài vừa qua. Những bất cập đó trong thực tế cuộc sống đã tác động đến những phạm trù cơ bản của Hiến pháp nhất thiết phải được đánh giá đúng thực chất như: tính chất của quyền lực nhà nước, giới hạn của quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Trong lĩnh vực chính trị, quá trình đổi mới ở nước ta đã lấy dân chủ làm mục tiêu và động lực cho sự phát triển về chính trị, kinh tế, xã hội. Dân chủ là nội dung xuyên suốt của quá trình đổi mới hệ thống chính trị và đã mang lại nhiều thành tựu.
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế, vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập trong việc thực hành dân chủ: Dân chủ đại diện, thể hiện ở tổ chức và hoạt động của các cơ quan đại biểu cho Nhân dân – Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp chưa thực sự đạt được hiệu quả; Dân chủ trực tiếp thể hiện qua bầu cử và các cơ chế dân chủ cơ sở, sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước còn nhiều hạn chế, thiếu vắng nhiều hình thức. Trong lịch sử lập hiến nước ta, bắt đầu từ Hiến pháp 1959 đến Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đã chưa xác định đúng vị trí và tầm quan trọng của các hình thức dân chủ trực tiếp. Điều đó đã hạn chế khả năng bảo đảm chủ quyền chính trị thực tế của Nhân dân, đã góp phần làm giảm tính chính đáng của quyền lực nhà nước cũng như sức mạnh của nó bắt nguồn từ Nhân dân.
Trong lĩnh vực xã hội, Hiến pháp năm 1992 đã đặt ra những cơ sở pháp lý cao nhất cho sự phát triển con người, bảo đảm các quyền và tự do của con người, cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trên cơ sở đó, một hệ thống các chính sách, pháp luật đã được ban hành và nhiều chính sách, giải pháp thực tế đã đạt được hiệu quả thực tế. Chúng ta đã có đầy đủ tâm thế để tham gia nhiều điều ước quốc tế trong các lĩnh vực bảo đảm quyền con người.
Mặt khác, sự lạc hậu của Hiến pháp và cơ chế thực hiện trực tiếp Hiến pháp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của con người có thể ảnh hưởng đến lòng tin của người dân vào chế độ, vào bộ máy Đảng và Nhà nước, làm giảm hiệu quả của những nỗ lực tạo ra sự đồng thuận xã hội, sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân.
Vào năm 2001, việc sửa đổi Hiến pháp tại Điều 2 đã tạo ra một động lực quan trọng cho sự phát triển tiếp theo của Hiến pháp nước ta.
Tuy nhiên, quy định có tính nguyên tắc tại Điều 2 của Hiến pháp (sửa đổi năm 2001) đã không được tiếp tục cụ thể hóa ngay trong Hiến pháp nhằm “giải mã” cơ chế phân công quyền lực, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực theo chiều ngang giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và theo chiều dọc giữa Trung ương và địa phương; những cơ chế và hình thức kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước vẫn chưa được chế định.
Trong gần 30 năm đổi mới, ở nước ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của hệ thống pháp luật nước nhà, từ đó, đã khắc phục về cơ bản cơ chế pháp lý của hệ thống kinh tế – xã hội tập trung quan liêu, bao cấp và tạo lập một khung pháp luật ban đầu cho cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Cùng với quá trình đó, đã và đang diễn ra một quá trình hội nhập của pháp luật Việt Nam vào nền pháp lý toàn cầu với các không gian pháp lý khác nhau.
Mặc dù còn chưa thực sự đạt được đầy đủ các mục tiêu nói trên, sự phát triển về bề rộng và chiều sâu của hệ thống pháp luật đã đặt ra đòi hỏi về một sự tương thích ngược lại của Hiến pháp so với hệ thống pháp luật. Nói khác đi, những thay đổi và phát triển của pháp luật cần đến một chỗ dựa ổn định hơn, cao hơn nhằm ổn định hóa chính sách và pháp luật trong qúa trình phát triển, triệt để khắc phục nguy cơ pháp luật đi trước Hiến pháp làm ảnh hưởng đến tính ổn định của các quan hệ xã hội trong quá trình phát triển là nguyên nhân làm cho thẩm quyền có tính Hiến định trong nhiều trường hợp đã bị đặt dưới thẩm quyền của pháp luật. Trạng thái đó không thể kéo dài bởi nó làm suy yếu nền tảng hiến định của quốc gia, tạo kẽ hở cho việc tình trạng lạm quyền và tham nhũng cũng như các biểu hiện vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
2. Những nội dung quan trọng của Hiến pháp năm 2013
2.1. Hiến pháp năm 2013 tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”
Hiến pháp quy định rõ các phương thức dân chủ, tức là các phương thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, khác với trước đây là chỉ thông qua Quốc hội và HĐND, tức là chỉ thông qua hình thức dân chủ đại diện.
Hiến pháp đặt nền tảng cho việc hoàn thiện chế định bầu cử – hình thức dân chủ cao nhất, để cử tri thực hiện đầy đủ hơn, thực chất hơn quyền bầu cử và đề cao trách nhiệm của đại biểu dân cử, coi trọng mối liên hệ giữa đại biểu với cử tri, thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu của cử tri tạo cơ chế để cử tri giám sát đại biểu. Theo đó, Hiến pháp đã thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia, một thiết chế hiến định độc lập để phục vụ cho mục đích này, tạo bước đổi mới mạnh mẽ về bầu cử.
Quy định cụ thể hơn các quyền tự do dân chủ của công dân như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý; xác định rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Trên cơ sở của nhận thức mới về quyền lập hiến, Hiến pháp đã bỏ nội dung Điều 83 trước đây quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”và Điều 147: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp”, thay vào đó là cơ chế về khả năng có sự kết hợp giữa thẩm quyền lập hiến của Quốc hội và sáng kiến lập hiến của các cơ quan cấp cao của Nhà nước, của đại biểu Quốc hội với quyền lập hiến của Nhân dân dưới hình thức trưng cầu ý dân về bản Hiến pháp do Quốc hội thông qua.
2.2. Hiến pháp năm 2013 là sự khẳng định rõ ràng và mạnh mẽ quan điểm nhân quyền nhất quán của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Quan điểm chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta là sửa đổi, bổ sung Hiến pháp nhằm tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể chế hóa sâu sắc hơn quan điểm về tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người như một định hướng mục tiêu của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Về mặt cơ cấu hình thức, vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được chuyển dịch từ vị trí chương V trong Hiến pháp năm 1992 lên vị trí Chương II Hiến pháp năm 2013, chỉ sau Chương I về chế độ chính trị. Nhưng trước hết, quyền con người là nội dung được bổ sung ngay trong chương I của Hiến pháp. Hơn thế nữa, tại rất nhiều chương, điều khác, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng hiện diện trong nội dung chức năng và nhiệm vụ của các thiết chế Nhà nước, như: Quốc hội (khoản 14 Điều 70); Chính phủ (khoản 6 Điều 96); Tòa án nhân dân (khoản 3 Điều 102); Viện kiểm sát nhân dân (khoản 3 Điều 107). Đây là những nội dung hoàn toàn mới so với Hiến pháp năm 1992 khi Hiến pháp 2013 trao những chức năng, nhiệm vụ cho các thiết chế, quyền lực nhà nước tương ứng.
Chương II của Hiến pháp ghi nhận quá trình tiếp nhận các giá trị cơ bản của cộng đồng quốc tế về tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Điều này phản ánh rõ nét qua những yếu tố sau đây:
1) Phân biệt quyền con người và quyền công dân trên cơ sở thừa nhận tính phổ quát của quyền con người so với quyền công dân. Điều mới này đã giúp khắc phục được sự thiếu rõ ràng trong quy định của Điều 50 Hiến pháp năm 1992.
2) Xác định rõ trường hợp hạn chế quyền con người, quyền công dân và đòi hỏi căn cứ pháp lý cao nhất đối với sự hạn chế đó.
3) Quy định công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác, Nhà nước Việt Nam bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài.
4) Bổ sung các quyền mới, như: quyền sống; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác; việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể phải được người đó đồng ý; quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình; quyền được bảo đảm an sinh xã hội; quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa; quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.
5) Làm rõ hơn, chuẩn xác hơn và phong phú hơn nội dung một số quyền và tự do trước đây đã được đề cập nhưng chưa rõ, chưa chính xác, chưa đầy đủ so với các chuẩn mực pháp lý quốc tế và thực tiễn ở nước ta. Theo đó, lần đầu tiên ở nước ta đã hiến định đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tộiđối với người bị buộc tội hình sự.
Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng ưu tiên bảo hộ của pháp luật trong Tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền công dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. Đây là nguyên tắc “kinh điển” nhất của Tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (khoản 2, Điều 14). Đặc biệt bản Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc này là “phẩm giá của văn minh nhân loại”.
Nội dung cơ bản và quan trọng nhất của nguyên tắc suy đoán vô tội. Suy đoán theo gốc Latinh (praesumptio) có nghĩa là giả định thể hiện ở yêu cầu: bị can, bị cáo phải được coi là vô tội khi mà lỗi của bị can, bị cáo đó chưa được chứng minh theo một trình tự do pháp luật quy định và được xác định bởi một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Yêu cầu đó đã được Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”(khoản 1 Điều 31). Từ nội dung và đòi hỏi cơ bản nêu trên, nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ đặt ra những đòi hỏi cụ thể hơn mà Tố tụng hình sự Việt Nam phải bảo đảm.
Đặt ra yêu cầu này, Hiến pháp đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho công dân trong cuộc sống và hoạt động của họ. Yêu cầu đặt ra trong nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị năm 1966. Theo đó, “mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật” (Điều 14.2 Công ước).
Nội dung này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế nhưng nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện. Công ước nói trên của Liên hợp quốc khẳng định: “Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định” (Điều 9.1 Công ước).
Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định nội dung của nguyên tắc mới về quyền của người bị buộc tội được tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai – một nội dung quan trọng của quyền tiếp cận công lý của công dân.
Về tổ chức quyền lực nhà nước
Tại lần sửa đổi vào năm 2001, Hiến pháp nước ta đã bổ sung một nguyên tắc rất quan trọng của cơ chế quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(Điều 2). Từ yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội lần thứ XI năm 2011 của Đảng đã bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực vào thành một yếu tố mới của cơ chế quyền lực nhà nước ở nước ta.
Tuy nhiên, việc hiến định tính chất, nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ đó đến nay chưa có những quy định về các yếu tố của cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã tiến thêm một bước mới nhằm tạo ra những yếu tố như vậy, theo đó, Hiến pháp xác định rõ ba bộ phận của quyền lực nhà nước với những thiết chế thực hiện các quyền đó: Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thực hiện quyền lập hiến, quyền lập phápvà giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; Chính quyền địa phương là chế định được thay cho các thiết chế HĐND và UBND trong Hiến pháp hiện hành; hai thiết thế hiến định độc lập mới ra đời là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Đáng chú ý, thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp với quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về sứ mệnh và vị trí của các cơ quan tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra những cơ sở pháp lý mới cao nhất về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cùng với việc xác định TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của TAND được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Có thể thấy đây là những điểm mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam, khẳng định những nguyên tắc của một nền tư pháp hiện đại, như: nguyên tắc hai cấp xét xử mà thực chất là một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem xét lại bản án; nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Đây là những nguyên tắc phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người dân. Từ góc độ của Nhà nước pháp quyền XHCN có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã làm đậm nét tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta.
Cùng với những điểm nhấn mang đậm nét cách tiếp cận về quyền, Hiến pháp năm 2013 cũng đã có những bổ sung quan trọng bảo đảm vị thế và tính độc lập của hoạt động tư pháp – một yêu cầu không thể thiếu được trong cơ chếphân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta.
Theo đó, Hiến pháp đã không tiếp tục quy định yêu cầu về việc Chánh án TAND địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND. Theo các quy định trước đây, chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của tất cả các Thẩm phán đều do pháp luật quy định. Theo quy định mới của Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao trên cơ sở nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội và bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án TAND tối cao và Thẩm phán các Tòa án khác (khoản 7 Điều 70 và khoản 3 Điều 88 Hiến pháp năm 2013).
CHÚ THÍCH
[1] J. Locke. Khảo luận thứ 2 về chính quyền, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007, tr. 19.
[2] Nghị quyết 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Tác giả: GS.TSKH. Đào Trí Úc
Like Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời