Nguyên tắc Paris 1993 và vấn đề thành lập cơ quan quốc gia về quyền con người ở Việt Nam hiện nay: Thành lập cơ quan quốc gia về quyền con người nhằm điều phối một số vấn đề giữa nhà nước với cá nhân, giữa quốc gia với quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trở nên cấp thiết trong giai đoạn hiện nay…
- Hiến pháp 2013 và nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong TTHS – GS.TSKH. Đào Trí Úc
- Hiến pháp 2013 về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân – TS. Phan Nhật Thanh
- Vai trò của Tòa án quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người – ThS. Đặng Công Cường
- Mối quan hệ: Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
- Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – Steven D. Schwinn
- Quyền con người sống trong môi trường trong lành – ThS. Trần Thị Trúc Minh
- Điểm mới của Hiến pháp 2013 về “quyền con người” và “quyền công dân” – TS. Nguyễn Mạnh Hùng & ThS. Phan Nguyễn Phương Thảo
- Sửa đổi các quy định của BLTTHS theo Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
- Nguyên tắc Paris 1993 và vấn đề thành lập cơ quan quốc gia về quyền con người ở Việt Nam hiện nay – TS. Trần Quang Trung & ThS. Vũ Thị Bích Hường
- Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt Nam – TS. Phan Nhật Thanh
- Xử lý tài sản bảo đảm là nhà ở và vấn đề bảo đảm quyền con người – GS.TS. Mai Hồng Quỳ
- Tổng quan về quyền con người trong pháp luật lao động – ThS. Đào Mộng Điệp
TỪ KHÓA: Quyền con người,
TÓM TẮT
Ngày 20.12.1993 Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) thông qua Nghị quyết số 48/134 “Các nguyên tắc liên quan đến địa vị của các cơ quan quốc gia về QCN (gọi tắt là Nguyên tắc Paris 1993) để tham vấn cho các quốc gia có nguyện vọng thành lập cơ quan về quyền con người (QCN). Việt Nam tham gia nhiều công ước quốc tế về QCN; và hiện là thành viên của Hội đồng nhân quyền LHQ, có sứ mệnh cùng cộng đồng quốc tế xây dựng nền văn hóa nhân quyền. Do đó, việc tham vấn Nguyên tắc Paris 1993 để thành lập cơ quan quốc gia về QCN nhằm điều phối một số vấn đề giữa nhà nước với cá nhân, giữa quốc gia với quốc tế trong lĩnh vực QCN trở nên cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
1. Nguyên tắc Paris 1993
Có thể cho rằng, trong khoảng 70 năm qua, LHQ đã tạo dựng một dấu ấn tích cực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như cơ chế thực thi, giám sát, hỗ trợ để bảo vệ và thúc đẩy QCN trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên việc thực thi QCN còn nhiều hạn chế, an ninh về QCN đang bị đe dọa; pháp luật quốc tế và quốc gia về QCN đang có nguy cơ giãy chết ở một số khu vực trên thế giới. Có nhiều nguyên nhân để giải thích thực trạng này, như: tình trạng đói nghèo, nhận thức, ý thức chưa đầy đủ, đúng đắn về QCN; hệ thống pháp luật thiếu tính đồng bộ; đặc biệt; các cơ chế cũng như cơ quan chuyên trách bảo vệ, giám sát thực thi QCN trên phạm vi quốc tế và nhất là trong mỗi quốc gia còn nhiều hạn chế.
Trong các thập kỷ 1960 và 1970, nhiều diễn đàn LHQ thảo luận về cơ quan quốc gia chuyên trách về QCN. Năm 1978, Ủy ban QCN của LHQ tổ chức một cuộc hội thảo nhằm soạn ra các hướng dẫn cho việc tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhân quyền quốc gia tại Geneva và kết quả của cuộc hội thảo được Ủy ban nhân quyền và Đại hội đồng LHQ thông qua. Đến năm 1991, Ủy ban QCN của LHQ tổ chức một hội thảo khác về cơ quan nhân quyền quốc gia ở Paris (từ ngày 7 đến 9/10/1991). Kết luận của Hội thảo được phê chuẩn bởi của Ủy ban QCN trong Nghị quyết 1992/54 với tên gọi “Các nguyên tắc liên quan đến địa vị của các cơ quan quốc gia về QCN[1] (NHRI)” còn được gọi ngắn gọn là Nguyên tắc Paris 1993). Văn kiện này sau đó được phê chuẩn bởi Đại hội đồng LHQ trong Nghị quyết số 48/134 (ngày 20/12/1993) và hiện được coi là những nguyên tắc nền tảng cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ QCN[2] .
Nguyên tắc Paris 1993 có bốn phần chính, gồm: (1) quy định về địa vị pháp lý, thẩm quyền và trách nhiệm của NHRI; (2) cách thức thành lập, các thành phần tham gia và các bảo đảm cho NHRI hoạt động độc lập; (3) các phương pháp hoạt động và (4) một số quy định về thẩm quyền bán tư pháp của NHRI. Lưu ý rằng, Nguyên tắc Paris 1993 chỉ mang tính định hướng, khuyến nghị và đưa ra những chuẩn mực chung nhất cho tổ chức và hoạt động của NHRI. Trên cơ sở đó, mỗi quốc gia tùy thuộc vào điều kiện đặc thù của mình để thành lập và quy định chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của NHRI.
2. Quan niệm và các mô hình NHRI trên thế giới
2.1. Quan niệm và đặc điểm của NHRI
Trước đây có nhiều quan điểm về NHRI: như NHRI là một cơ quan (viện) được thành lập có trách nhiệm bảo vệ và thúc đẩy QCN[3] ; hay NHRI là bất kỳ một cơ quan nào, ở cấp độ quốc gia có mức độ ảnh hưởng/tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc thúc đẩy, và bảo vệ QCN[4] . Trong khi đó, Văn phòng Cao ủy LHQ về QCN cho rằng, NHRI là cơ quan nhà nước có thẩm quyền hiến định và/hoặc luật định trong việc bảo vệ và thúc đẩy các QCN; cơ quan này là một phần của bộ máy nhà nước và được nhà nước cung cấp kinh phí hoạt động[5] .
Tuy nhiên, kể từ khi Nguyên tắc Paris 1993 ra đời, định nghĩa về NHRI được hiểu thống nhất hơn, “NHRI là một tổ chức quốc gia được thiết lập theo quy định trong Hiến pháp hay một đạo luật của quốc hội, được trao thẩm quyền để thúc đẩy và bảo vệ QCN” (khoản 1 và khoản 2). Bên cạnh đó, Nguyên tắc Paris còn nêu ra một số định hướng chủ đạo để tham vấn cho các quốc gia có ý định thành lập NHRI và bảo đảm cho cơ chế này hoạt động đạt hiệu quả cao nhất. Theo Nguyên tắc Paris 1993, NHRI có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về địa vị pháp lý: NHRI là một cơ quan quốc gia trong bộ máy nhà nước, được quy định trong hiến pháp hay đạo luật của quốc hội.Nhận thức rõ dấu hiệu này giúp tránh lầm tưởng rằng, NHRI là một tổ chức phi chính phủ, và cũng không phải là tổ chức quốc tế hình thành trên cơ sở liên kết giữa các chính phủ. Ngược lại, NHRI là một bộ phận trong cấu thành bộ máy nhà nước ở tầm quốc gia (nên gọi là cơ quan quốc gia). Bởi vì, trong phạm vi quốc gia, các hoạt động bảo vệ và thúc đẩy QCN bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội, có mối liên hệ mật thiết với các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhân danh hoạt động bảo vệ và thúc đẩy QCN, trong chừng mực nhất định NHRI có quyền can dự một cách đơn phương và có giới hạn vào các hoạt động của nhà nước và kể cả của tư nhân. Vì lẽ đó, nếu NHRI chỉ là một tổ chức phi chính phủ hay chỉ là cơ quan nhà nước địa phương thì khó có thể đảm đương một cách có hiệu quả việc bảo vệ và thúc đẩy QCN; do vậy, NHRI phải là cơ quan (nhà nước) tầm quốc gia
Bên cạnh đó, dấu hiệu thứ nhất cũng chỉ rõ rằng, NHRI phải được ưu tiên quy định trong hiến pháp; nếu không thì ít ra cũng phải được quy định trong một đạo luật của quốc hội; qua đó, khẳng định tầm quan trọng cũng như vị thế pháp lý của nó trong mối tương quan với các cơ quan hiến định khác ở cấp quốc gia. Điều này chính là sự ủy thác của nhân dân đối với NHRI để thực hiện vai trò bảo vệ QCN, ngăn ngừa hoặc chống lại các tác động có nguy cơ xâm phạm QCN từ phía nhà nước và kể cả từ cộng đồng xã hội.
Thứ hai, NHRI có chức năng chuyên trách là bảo vệ và thúc đẩy QCN. Theo Nguyên tắc Paris 1993 (Mục Thẩm quyền và trách nhiệm), NHRIcó một số nhiệm vụ và quyền hạn như: giám sát các cơ quan nhà nước và xã hội trong các hoạt động liên quan đến QCN; tham gia giải quyết khiếu nại về QCN; tự mình tiến hành hoặc yêu cầu cơ quan hữu quan phối hợp điều tra; ra khuyến nghị hay chuyển cơ quan có thẩm quyền nếu xét thấy có vi phạm QCN; khuyến nghị, đề xuất, kiến nghị quốc hội, chính phủ hay cơ quan nhà nước khác về các chính sách pháp luật về QCN, phê chuẩn các công ước quốc tế về QCN; cung cấp tình hình vi phạm QCN; hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực QCN; tăng cường sự hiểu biết về QCN giữa các quốc gia…
Từ những nhiệm vụ, quyền hạn trên, có thể hiểu NHRI đóng vai trò trung tâm, điều phối đồng thời hai mối quan hệ: quốc gia – quốc tế và nhà nước – xã hội công dân trong lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy QCN. Đây là nét đặc thù của thiết chế NHRI để phân biệt nó với những cơ quan nhà nước khác cũng có chức năng bảo vệ, thúc đẩy QCN. Mặt khác, chính vai trò và chức năng đặc trưng như vừa phân tích nên NHRI cần được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù, trong đó phải thật sự đề cao tính độc lập. Chỉ khi nào được nâng lên tầm hiến định thì NHRI sẽ không bỏ qua bất kỳ cơ hội nào để bảo vệ và thúc đẩy QCN. Đây cũng chính là nguyên nhân cốt lõi để LHQ thông qua Nguyên tắc Paris 1993.
Thứ ba, tổ chức và hoạt động của NHRI có tính độc lập trong bộ máy nhà nước.Điều này được hiểu rằng, là một cơ quan trong bộ máy nhà nước nhưng về phương diện tổ chức và nhất là trong quá trình hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ, NHRI cần được bảo đảm tính độc lập trong mối quan hệ với các cơ quan hay các nhánh quyền lực khác. Về mặt tổ chức, NHRI được khuyến nghị là phải do quốc hội lập ra nhưng có thể không trực thuộc quốc hội hay chính phủ mà tồn tại với tư cách là một bộ phận trong thiết chế hiến định độc lập[6] . Có lẽ Nguyên tắc Paris 1993 cố gắng xây dựng một NHRs có tư cách pháp nhân, khi khuyến nghị nó nên được cung cấp cơ sở vật chất riêng, có nguồn tài khoản riêng biệt được rót từ ngân sách hàng năm do quốc hội phê duyệt; đồng thời được vận động các nguồn lực tài chính từ xã hội dân sự (Nguyên tắc Paris 1993, mục cơ cấu và các bảo đảm cho độc lập và đa dạng).
Tóm lại, về mặt địa vị pháp lý, thiết chế này cần phải được đặt ở tầm hiến định để tạo ra cơ sở bảo đảm pháp lý cao nhất cho tính độc lập. Sự phụ thuộc nào đó vào một nhánh quyền lực hiện hữu sẽ làm mất đi năng lực kiểm soát quyền lực, tính khách quan của sự kiểm soát quyền lực. Sự hiến định chức năng, thẩm quyền và tổ chức của thiết chế này bảo đảm tính bắt buộc cao cho các hệ quả pháp lý của sự kiểm tra, giám sát và kết luận giám sát. Do đó có ý kiến cho rằng, có một nhánh quyền lực nhà nước song song tồn tại với ba nhánh truyền thống lập pháp, hành pháp và tư pháp – đó là nhánh quyền kiểm soát[7] và đối tượng kiểm soát của NHRI là lĩnh vực QCN nhằm bảo đảm xây dựng một nền văn hóa QCN hài hòa, nhân văn không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà cả quốc tế.
2.2. Một số mô hình NHRI phổ biến trên thế giới
Nguyên tắc Paris 1993 chỉ có tính định hướng, khuyến khích và làm nền tảng cho sự nhận thức chung đối với những quốc gia có ý muốn thành lập NHRI mà không mang tính áp đặt. Mặt khác, Nguyên tắc Paris 1993 còn đưa ra một số tiêu chí để mỗi quốc gia có thể tự căn cứ vào đó đánh giá mức độ hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của NHRI. Mặc dù không có chuẩn chung nhưng trên thực tế, mô hình NHRI có hai dạng thức chính là Ủy ban nhân quyền Quốc gia và Thanh tra Quốc hội; ngoài ra còn có một vài mô hình khác nhưng ít phổ biến, như viện/trung tâm/hội đồng… QCN quốc gia.
Một là, Ủy ban nhân quyền quốc gia (UBNQQG). Đây là cơ chế nhân quyền quốc gia phổ biến nhất hiện nay, được thành lập ở khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ[8] . Về tên gọi cũng rất đa dạng, như: Ủy ban nhân quyền độc lập (Afghanistan), Ủy ban về các QCN và cơ hội bình đảng (Australia), Ủy ban nhân quyền và tư pháp (Đông Timor, Ghana), Ủy ban nhân quyền và tự do quốc gia (Cameroon), Ủy ban bảo vệ QCN (Argentina, Bolivia, Colombia…). Tuy nhiên, tên gọi phổ biến nhất và được hầu hết các quốc gia quy định là UBNQQG. Về vị trí pháp lý, UBNQQG là một thiết chế (hiến định hoặc luật định) độc lập, có tư cách pháp nhân và không thuộc bất kỳ nhánh quyền lực nào. Thành viên của UBNQQG thường do nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm hoặc phê chuẩn. Chẳng hạn ở Malaysia, năm 1999 Nghị viện ban hành Đạo luật 597 về việc thành lập Ủy ban Nhân quyền quốc gia và quy định nhà vua bổ nhiệm thành viên của UBNQQG trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng. Ở Hàn Quốc, trong số 11 thành viên UBNQQG, có 4 thành viên do Quốc hội chọn, 4 thành viên do Tổng thống đề cử và 3 thành viên do Chánh án Tòa án tối cao đề cử và thông qua bởi Tổng thống Hàn Quốc[9] .
Chức năng của UBNQQG bao gồm tiếp nhận, xem xét, giải quyết các khiếu kiện, tố cáo về những vụ việc vi phạm QCN; giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật về QCN; tư vấn pháp luật và chính sách về các vấn đề liên quan đến QCN; tham gia làm báo cáo quốc gia về việc thực hiện nghĩa vụ QCN quốc tế (của quốc gia thành viên công ước QCN); điều tra, phát hiện và đề xuất phương án xử lý hoặc thực hiện thẩm quyền tương tự xét xử (quasi-judicial) để giải quyết tình trạng vi phạm QCN[10] . Thực tiễn các nước áp dụng mô hình này cho thấy, hoạt động trọng tâm, cốt lõi của UBNQQG là tập trung vào vai trò tư vấn, tham vấn chính sách về QCN và hỗ trợ chính phủ cung cấp các dịch vụ nhằm nâng cao năng lực QCN cho công chức và các tầng lớp nhân dân.
Hai là, Thanh tra quốc hội(TTQH)(tiếng Anh viết là Parliamentary Ombudsman). Hiện có khoảng 60 quốc gia thành lập mô hình này nhưng phổ biến nhất là ở khu vực Bắc Âu, Tây Âu, một số quốc gia châu Mỹ[11] . TTQH thường do quốc hội thành lập và là một bộ phận của quốc hội; có vị trí pháp lý ngang với các bộ phận hay ủy ban khác trong quốc hội. Thành viên của TTQH là những nghị sĩ và phải bảo đảm sự đa dạng trong tính đại diện cho mọi tầng lớp dân cư. Về mặt hoạt động, TTQH có tính độc lập với các cơ quan nhà nước khác cũng như các thiết chế khác trong quốc hội và chịu trách nhiệm trước quốc hội về hoạt động của mình.
Cũng như UBNQQG, TTQH có nhiệm vụ bảo vệ và thúc đẩy QCN. Để thực hiện nhiệm vụ này, TTQH có một số chức năng cơ bản như: bảo vệ quyền của các cá nhân cho rằng, mình là nạn nhân của những hành động bất công do các cơ quan hành pháp gây ra; bảo đảm tính công bằng và tính pháp lý trong hoạt động hành chính công; nhận đơn khiếu tố từ cộng đồng và tiến hành điều tra các khiếu tố trong phạm vi thẩm thẩm quyền và đưa ra các khuyến nghị cách thức giải quyết các khiếu tố[12] . Nói cách khác, hoạt động của TTQH trong lĩnh vực QCN là chủ yếu tập trung vào những sự vụ cụ thể mà ở đó có dấu hiệu vi phạm QCN. Ngoài những chức năng bán tư pháp này, TTQH còn có một số chức năng khác như giám sát các cơ quan nhà nước trong việc thực thi QCN, tham gia vào các hoạt động giáo dục QCN…
Ba là, một số mô hình khác. Một số quốc gia khác cũng thành lập cơ quan có nhiệm vụ chuyên trách bảo vệ và thúc đẩy QCN nhưng không áp dụng hai mô hình trên. Ngoài ra, phạm vi thẩm quyền, chức năng, mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác cũng không giống nhau. Đặc biệt, tên gọi của các mô hình này rất đa dạng. Chẳng hạn, Điều 55 của Hiến pháp Cộng hòa Ukraina quy định Ủy ban QCN của Nghị viện Ukraina (Ukrainian Parliamentary Commissioner for Human rights) là cơ quan chuyên trách về QCN; Hội đồng QCN quốc gia (Ai Cập, El salvador, Honduras, Pháp), Văn phòng bảo vệ công dân (Gruzia), Viện QCN (Đức), Trung tâm nhân quyền quốc gia (Na Uy, Moldova, Slovakia, Jordan),… Những mô hình nhân quyền này tuy ở tầm quốc gia, chịu trách nhiệm bảo vệ và thúc đẩy QCN nhưng quyền hạn, trách nhiệm, thẩm quyền bị hạn chế rất nhiều (so với hai mô hình phổ biến trên).
Chức năng chủ yếu của các mô hình nhân quyền quốc gia là tham gia vào các hoạt động giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về QCN cho cộng đồng; tham vấn và lưu ý cho chính phủ các chính sách về QCN cũng như tình trạng QCN bị vi phạm ở bất cứ khu vực nào trong nước và đề xuất các biện pháp chấm dứt tình trạng đó; thúc đẩy và đảm bảo sự hài hòa giữa pháp luật, quy định và thực tiễn thi hành của quốc gia với các văn kiện QCN quốc tế mà quốc gia đó là thành viên….
Nhìn chung, mỗi một mô hình đều có những ưu thế nhất định và đều thể hiện nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy phát triển QCN ở các quốc gia đó. Dù các mô hình còn khác nhau về phạm vi thẩm quyền, tên gọi, chức năng, vị trí pháp lý nhưng cơ bản chúng đều đáp ứng được một số chuẩn mực, tiêu chí của Nguyên tắc Paris 1993, nhất là bảo đảm tính độc lập của NHRI trong hoạt động thúc đẩy và bảo vệ QCN. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu nào có tính hệ thống lý giải về những nguyên nhân hay sự khác nhau trong việc lựa chọn mô hình NHRI ở mỗi quốc gia.
Một điều cần lưu ý khác, theo nghiên cứu gần đây (Dự án Hiến pháp so sánh – Comparative Constitutions Project- CCP)[13] , cho phép nhìn nhận rõ hơn về vị trí của NHRI trong hiến pháp các nước trên thế giới. Theo kết quả khảo sát của CCP, ở thời điểm năm 2000, xét chung ở các khu vực, có không quá 20% số hiến pháp quy định việc thành lập Ủy ban nhân quyền quốc gia và có hơn 30% số hiến pháp ở nhiều khu vực quy định việc thành lập cơ quan Thanh tra quốc hội. Tổng hợp cả hai loại hình (chưa tính các mô hình khác), có thể ước tính có khoảng hơn 50% số hiến pháp hiện hành trên thế giới quy định về việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia[14] .
3. Nhu cầu thành lập NHRI ở Việt Nam hiện nay
Nếu xét theo Nguyên tắc Paris 1993 cũng như tham khảo một số mô hình trên thế giới, thì ở Việt Nam chưa tồn tại NHRI theo đúng nghĩa. Mặc dù, hiện có một số viện, trung tâm nghiên cứu về QCN (thuộc Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Luật TP.HCM, Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội… nhưng không thể xem đây là một dạng của NHRI. Ngoài ra, có quan điểm cho rằng, trong chừng mực nhất định, có thể coi ở Việt Nam đã và đang tồn tại một dạng thức đặc biệt của NHRI. Cụ thể như: Ủy ban Dân tộc (của Chính phủ), Ủy ban các vấn đề xã hội, Ủy ban văn hóa, giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng (của Quốc hội), Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội, Ban chỉ đạo QCN của Chính phủ… Đành rằng, những cơ quan này tham gia vào việc bảo vệ, thúc đẩy QCN, có nhiều nhiệm vụ, quyền hạn giống như các mô hình nêu trên nhưng không thể coi là NHRI. Bởi chúng không đáp ứng được những chuẩn mực cần thiết theo Nguyên tắc Paris 1993, nhất là tính độc lập trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Có thể cho rằng, thời điểm này rất chín muồi để Việt Nam tiến hành thành lập NHRI vì:
3.1.Nhu cầu tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực QCN
Việt Nam không thể đứng bên lề của xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, nếu không muốn bỏ qua cơ hội phát triển để làm biến đổi và nâng cao các chuẩn mực sống của người dân. Trên thực tế, Việt Nam đã và đang chọn con đường hội nhập sâu, rộng và phù hợp với xu thế tất yếu của sự phát triển. Một trong những thành tựu hiện hữu rõ nét nhất của sự lựa chọn này là lĩnh vực QCN. Việt Nam tham gia từ rất sớm vào nhiều công ước về QCN cũng như các thiết chế để bảo đảm, thúc đẩy nâng cao khả năng thực thi các giá trị về QCN.
Nói cách khác, nhu cầu tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực về QCN là một trong những tâm điểm của chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, trên bình diện khu vực và quốc tế, Việt Nam còn có nhiều sự khác biệt về thể chế chính trị, kinh tế, xã hội nên ảnh hưởng đến hiệu quả của tiến trình hội nhập này. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần phải vượt qua những khác biệt này, bảo lưu các yếu tố đặc thù và dung hòa các yếu tố phổ quát về QCN để nhận được sự chia sẻ sâu sắc, đồng cảm của bạn bè quốc tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải giải quyết rất nhiều vấn đề và cần phải có một thiết chế chuyên trách về lĩnh vực QCN trong đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên, hiện nay bộ máy nhà nước ta đang thiếu thiết chế này nên những gì liên quan đến QCN trong đối ngoại thì gần như giao khoán cho Bộ Ngoại giao (lập và công bố sách trắng hay báo cáo, giải trình, tham vấn, đối thoại, điều trần… về tình hình QCN; tham gia đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế, tham vấn cho Quốc hội, Chính phủ các đường lối, sách lược đối ngoại về QCN…).
Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của Bộ Ngoại giao, nhất là Nghị định số 58/2013/NĐ-CP, ngày 11.06.2013 thì không có bất cứ quy định nào đề cập vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Ngoại giao trong lĩnh vực QCN; càng bất hợp lý hơn khi Nghị định này quy định cơ cấu Bộ Ngoại giao gồm có 32 đơn vị bên trong, gồm các cục, vụ, viện,… giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, nhưng không có bất kỳ đơn vị nào trong đó phụ trách đối ngoại trong lĩnh vực QCN. Trong khi đó, yêu cầu hội nhập toàn diện hiện nay tạo áp lực rất lớn và đòi hỏi tính chuyên nghiệp của quốc gia trong việc lập cáo cáo, giải trình, tham vấn, đối thoại, điều trần… về tình hình QCN trước cộng đồng quốc tế. Sự bất cập giữa chức năng, nhiệm vụ và các thiết chế tương ứng sẽ gây ra những trở ngại lớn trong hợp tác quốc tế về QCN.
Mặt khác, để các hoạt động trên có tính thuyết phục và đạt hiệu quả cao nhất, Bộ Ngoại giao phải vừa nắm tổng thể, vừa nắm cụ thể tình hình thực thi và bảo vệ QCN ở trung ương, ở mỗi địa phương, của mỗi bộ ngành hữu quan…; đồng thời để thực hiện điều này thì Bộ phải có quyền kiểm tra, giám sát, đơn phương can dự có giới hạn vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thì mới có thể có những thông tin xác thực, khách quan về tình hình QCN. Tuy nhiên, điều này là vượt quá giới hạn thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của một Bộ vốn chỉ được giao nhiệm vụ giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đối ngoại. Vì vậy,việc nhanh chóng thúc đẩy triển khai, thành lập NHRI, một cơ quan độc lập, chuyên trách về lĩnh vực QCN sẽ hỗ trợ rất lớn cho không chỉ Bộ Ngoại giao hay Chính phủ, mà cho các cơ quan nhà nước trong đối nội, đối ngoại về các vấn đề liên quan đến QCN.
3.2. Việt Nam đã trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ(Human Rights Council, HRC) nhiệm kỳ 2014 – 2016
HRC được thành lập theo Nghị quyết số 60/251 ngày 3.4.2006 của Đại hội đồng LHQ để thay thế Ủy ban QCN (CHR). HRC có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản như: thúc đẩy các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và xây dựng năng lực về QCN ở các quốc gia cũng như việc thực thi đầy đủ các nghĩa vụ về QCN ở các quốc gia… Về cơ cấu tổ chức, HRC có 47 nước thành viên với nhiệm kỳ 3 năm và được phân bổ theo khu vực địa lý, trong đó, khu vực châu Á 13 ghế thành viên. Ngày 13.11.2013, với 184 phiếu thuận trên tổng số 192 phiếu, Việt Nam trúng cử với số phiếu cao nhất trong số 14 nước thành viên mới và lần đầu tiên trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trong nỗ lực triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, tích cực theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế[15] .
Như vậy, việc Việt Nam trở thành thành viên HRC vừa là thách thức, vừa là thời cơ để bảo đảm và thúc đẩy QCN. Trên bình diện quốc tế, chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm, bản lĩnh trong các mối quan hệ quốc tế đa phương, song phương về nhân quyền. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ 3 năm làm thành viên HRC, Việt Nam sẽ có cơ hội đóng góp trực tiếp với tinh thần xây dựng và trách nhiệm vào công cuộc bảo vệ và thúc đẩy các giá trị QCN trên phạm vi toàn thế giới; cũng như có điều kiện chia sẻ và học hỏi những kinh nghiệm tốt từ bạn bè quốc tế, nhằm đảm bảo sự thụ hưởng ngày càng tốt hơn các quyền của mỗi người dân Việt Nam.
Việc chúng ta trúng cử vào HRC với số phiếu gần như tuyệt đối có ý nghĩa rất quan trọng; thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy QCN ở Việt Nam trong thời gian qua. Đây cũng là cơ hội để chúng ta chia sẻ cho bạn bè thế giới những kinh nghiệm, bài học trong việc hiện thực hóa một cách có hiệu quả các giá trị QCN trong quá trình hội nhập và đổi mới. Chúng tôi cũng tán đồng ý kiến cho rằng, việc Việt Nam trở thành thành viên HRC chúng ta sẽ có tiếng nói rất quan trọng, làm cho thế giới rõ hơn vấn đề QCN ở mỗi quốc gia được thể hiện thế nào và để thế giới hiểu rõ hơn về QCN ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, chúng ta phải chứng minh bằng hành động, bằng thực tế của đất nước[16] .
3.3. Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ và QCN
Đây vừa là định hướng, mục tiêu và cũng là động lực phát triển của Nhà nước ta. Chúng ta đã và đang xóa bỏ cơ chế bao cấp, đồng thời chuyển sang hội nhập toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa…. Trong điều kiện hội nhập này, đối với lĩnh vực QCN chúng ta thật sự chưa có nhiều kinh nghiệm; công tác bảo vệ, đấu tranh nhân quyền còn nhiều hạn chế, yếu kém, có lúc có nơi còn bị động, lúng túng[17] . Nhất là, nhận thức về QCN của những người làm chính sách chưa đầy đủ, tư duy áp đặt, ban phát và ưu tiên cho sự thuận lợi trong việc quản lý nhà nước hơn là bảo đảm QCN. Từ đó, một số “giới hạn đỏ”về QCN được vạch ra nhưng lẫn trong đó nhiều bất cập, thiếu thực tế, thậm chí phản cảm, gây ra những ức chế, phản đối từ cộng đồng.
Chẳng hạn, Bộ Công an ban hành Thông tư số 02/2003/TT-BCA, ngày 13.1.2003 quy định mỗi người được đăng ký một xe môtô hoặc xe máy là vi hiến. Bởi Điều 58 Hiến pháp 1992 “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,…”. Bất chấp sự không đồng tình của người dân, Bộ Công an vẫn áp đặt thi hành Thông tư này. Tuy nhiên, cho đến 2 năm sau, trước áp lực quá lớn từ dư luận, báo chí… ngày 21.11.2005 Bộ Công an ban hành Thông tư 17/2005/TT-BCA để bãi bỏ quy định vi hiến trước đó. Một ví dụ khác, ngày 26.4.2013, Cục CSGT Đường bộ, Đường sắt – Bộ Công an (Cục C67) ban hành Văn bản số 1042/C67-P3/2013 cấm việc quay phim, chụp ảnh hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm khi chưa được phép của CSGT đang làm nhiệm vụ đã gây làm sóng phản đối trong dư luận. Văn bản này trái quyền tố cáo của công dân được quy định trong Luật Tố cáo, Luật phòng chống tham nhũng, Luật Báo chí… Tuy nhiên, lãnh đạo Cục C67 khẳng định sẽ không thu hồi văn bản này. Cho đến khi cơ quan chức năng vào cuộc thì lãnh đạo Cục C67 mới chịu ra quyết định hủy bỏ[18] .
Không những văn bản dưới luật xâm phạm QCN hoặc cản trở thực hiện QCN mà kể cả Hiến pháp hiện hành của Việt Nam cũng chưa thật bảo đảm thúc đẩy QCN. Chúng tôi rất thuyết phục với quan điểm cho rằng, việc quy định quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam có tính chất ban phát, còn tiềm ẩn một nguy cơ là những quyền không được liệt kê, tức là không được thừa nhận, không được ban phát thì lẽ đương nhiên công dân không được hưởng quyền này. Điều này là không phù hợp với sự phát triển của nhân quyền. Bởi việc liệt kê các QCN cụ thể sẽ phủ nhận hay hạ thấp các quyền khác của người dân và QCN luôn phát triển theo thời gian. Do đó, việc thay đổi cách thức quy định về QCN, quyền công dân có một ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm QCN trong nhà nước pháp quyền[19] .
Những dẫn chứng trên cho thấy Nhà nước cũng có thể vi phạm QCN, trong khi đó lẽ ra Nhà nước phải bảo đảm QCN và xử lý những hành vi vi phạm QCN. Như vậy, trong chừng mực nhất định, thực trạng nhận thức và ứng xử về các chuẩn mực QCN ở Việt Nam đang đứng trước nhiều chiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, cách tiếp cận hoặc cực tả hoặc cực hữu về QCN đều một chiều, thiếu tính biện chứng và dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường trong tương lai nếu không tìm ra những giải pháp hữu hiệu, khách quan, công bằng. Việc thành lập NHRI sẽ góp phần giải tỏa những bất cập đó. Bởi như trên đã phân tích, NHRI mặc dù là một phận (cơ quan) trong bộ máy nhà nước nhưng nếu bảo đảm tốt tính độc lập của cơ quan này theo các chuẩn mực trong Nguyên tắc Paris 1993 thì nó vẫn có khả năng vừa đại diện cho xã hội dân sự và vừa đại diện cho nhà nước để dung hòa sự khác biệt và nâng cao hiểu biết, chia sẻ, đồng cảm trong lĩnh vực QCN.
Như vậy, với vị thế đặc biệt, NHRI là cơ quan hữu ích giúp nhà nước giải tỏa những yêu cầu, khó khăn khách quan và chủ quan vừa nêu. Thiết chế này có thể cung cấp những ý tưởng, tư vấn và trợ giúp độc lập, khách quan trên tinh thần xây dựng cho nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy QCN; làm trung gian giúp giảm thiểu và hóa giải những bất đồng giữa chính phủ – xã hội dân sự (cũng như dân chúng) trong vấn đề QCN. Trong quá trình chịu trách nhiệm và thực hiện các biện pháp bảo vệ, thúc đẩy QCN, Nhà nước (thông qua các cán bộ, công chức) vẫn có thể vi phạm QCN. Vì vậy, cần một cơ quan tư vấn có tính độc lập tương đối để góp ý, trợ giúp và khắc phục bất cập này; giúp cân bằng giữa hai thái cực: sự quá hữu (bảo thủ, trì trệ…) của các cơ quan nhà nước cũng như sự quá tả (cực đoan, một chiều…) của xã hội dân sự và dân chúng trong lĩnh vực QCN[20] .
3.4. Sự cần thiết quy định thiết chế NHRI trong Hiến pháp
Thiết chế NHRI cần được quy định trong Hiến pháp bởi những lý do sau:
Thứ nhất, việc quy định thiết chế NHRI trong Hiến pháp tạo cơ sở hiến định để nâng cao vị thế của NHRI.Như trên đã phân tích, NHRI có vai trò là cơ quan chuyên trách trong lĩnh vực QCN và hoạt động có tính độc lập. Tuy nhiên để xác định và nâng cao vị thế của thiết chế này, trước hết cần phải có khuôn khổ pháp luật mà trước hết là cơ sở hiến định. Trước xu thế hội nhập quốc tế và khu vực trên lĩnh vực QCN ngày càng mạnh mẽ, Việt Nam phải nỗ lực tối đa trong việc kiến tạo các thiết chế chuyên trách bảo đảm, thúc đẩy QCN phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Chúng ta cần cân nhắc lựa chọn một mô hình phù hợp để bảo đảm thiết chế này góp phần thực hiện có hiệu quả sứ mệnh bảo vệ, thúc đẩy QCN trong giai đoạn hiện nay. Để thể hiện quyết tâm chính trị này, dù lựa chọn mô hình nào chăng nữa thì việc ghi nhận trong Hiến pháp thiết chế này là rất cần thiết, tạo ra cơ sở pháp lý cao nhất và nâng cao vị thế pháp lý của NHRI. Trên cơ sở hiến định, Quốc hội sẽ ban hành một đạo luật quy định cụ thể hơn về mô hình tổ chức, vị trị pháp lý, vai trò, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn,…của NHRI. Điều này, hoàn toàn với ý nguyện của của LHQ và được thể hiện rõ nét nhất trong Nguyên tắc Paris 1993. Khoản 1 và khoản 2 của Nguyên tắc này đề xuất: “một cơ quan quốc gia sẽ được trao quyền thúc đẩy và bảo vệ QCN, những quyền này sẽ được ghi cụ thể trong bản Hiến pháp,…”[21] . Bên cạnh đó, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của cộng đồng các quốc gia thành viên LHQ, bởi hiện có khoảng hơn 50% quốc gia đã đưa thiết chế NHRI vào Hiến pháp hiện hành[22] .
Thứ hai, việc quy định thiết chế NHRI trong Hiến pháp phù hợp với quan điểm lãnh đạo của Đảng trong công tác QCN. Vấn đề QCN luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta. Ngay từ những năm vừa tiến hành đổi mới, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ban hành Chỉ thị 12/CT-TW về “Vấn đề QCN và quan điểm của Đảng ta”. Kể từ đó, QCN trở thành một trong những chủ đề không thể thiếu trong các lần Đại hội Đảng sau này. Tuy nhiên, cho đến khi Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Chỉ thị 44/CT-TW ngày 20.7.2010 về công tác QCN trong tình hình mới thì mới chính thức đặt vấn đề về xây dựng một thiết chế nâng cao hiệu quả bảo vệ, thúc đẩy QCN. Đoạn 8, Chỉ thị 44/CT-TW ghi rõ “nghiên cứu sắp xếp tổ chức lại cơ quan chỉ đạo về QCN ở Trung ương, đủ sức chủ trì, chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn các bộ, ban ngành Trung ương và địa phương thực hiện công tác bảo vệ và đấu tranh về QCN; kiện toàn ban chỉ đạo về QCN của các địa phương đảm bảo có bộ máy lãnh đạo chuyên trách… nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong lĩnh vực bảo vệ và đấu tranh QCN”. Có thể cho rằng, Chỉ thị 44/CT-TW là cơ sở về mặt chính trị quan trọng nhất để từ đó hoàn thiện thiết chế bảo vệ và thúc đẩy QCN. Bổ sung thiết chế này vào Hiến pháp cũng chính là cụ thể quan điểm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác QCN.
Yêu cầu của Chỉ thị 44/CT-TW là thành lập cơ quan QCN tầm quốc gia (một dạngNHRI)phải đủ mạnh, đủ sức chỉ đạo, kiểm tra các cơ quan nhà nước khác ở trung ương và địa phương trong công tác QCN. Như vậy có hai vấn đề đặt ra trước yêu cầu này: (1) để cơ quan QCN Trung ương có đủ năng lực pháp lý, có khả năng kiểm tra các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương để thực hiện nhiệm vụ như Chỉ thị 44/CT-TW giao cho thì phải nâng nó lên tầm hiến định; (2) để thực thi tốt nhiệm vụ, quyền hạn như Chỉ thị 44/CT-TW giao cho thì quan QCN Trung ương phải bảo đảm tính độc lập trong hoạt động với các cơ quan nhà nước khác.
Thứ ba, quy định thiết chế NHRItrong Hiến pháp phù hợp với định hướngquyền lực nhà nước cần phải có sự kiểm soát. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) viết “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều này đã được thể chế hóa trong Điều 2 của Hiến pháp năm 2013. Như trên đã trình bày, việc thành lập NHRI là một trong những cách thức kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy QCN. Nhà nước dùng quyền lực của mình để bảo vệ QCN nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng lạm quyền xâm phạm QCN nên việc tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước để ngăn ngừa tình trạng này là rất cần thiết. Trong bối cảnh đó, để hình thành một thiết chế độc lập và nâng cao vị trí pháp lý của thiết chế này để kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ và thúc đẩy QCN, khó có cách nào tốt hơn là thành lập NHRI và quy định về nó trong Hiến pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng “Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải có tính khả thi và ở tầm hiến định để phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”[23] .
4. Kết luận
Việc thành lập NHRI ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và nâng nó lên tầm hiến định là hoàn toàn có cơ sở về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, lựa chọn mô hình nào cho NHRI và đặt nó trong mối quan hệ như thế nào với các nhánh quyền lực khác thì cần phải có nhiều nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa. Tuy nhiên, xuất phát từ những lập luận và phân tích trên, theo chúng tôi, NHRI ở Việt Nam nên theo hướng sau:
– Nên được quy định trong Hiến pháp;
– Do Quốc hội thành lập và có thểlà một bộ phận thuộc Quốc hội;
– Tên gọi có thể là “Ủy ban tư vấn và giám sát QCN”;
– Hoạt động độc lập và thiên về vai trò tham vấn, giám sát, tuyên truyền, hợp tác quốc tế,.. về QCN;
– Sắp xếp lại tổ chức và hoạt động các Ủy ban chuyên môn của Quốc hội nếu có sự trùng lắp về chức năng, vai trò với NHRI.
CHÚ THÍCH
[1] Trong tiếng Anh có hai cách viết về cơ quan quốc gia QCN, gồm: National Human Rights Institutions – viết tắt là NHRIs; và còn có một cách viết khác là “National Institutions for Protection and Promotion of Human Rights” dịch là: cơ quan (tổ chức) quốc gia về khuyến khích và bảo vệ QCN. Tuy nhiên, cách viết “National Human Rights Institutions” được sử dụng phổ biến hơn.
[2] Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người, Khoa Luật – ĐHQGHN, Nxb CTQG, 2009, tr. 494 – 502.
[3] United Nations, National Institutions for the Promotion and Protection of Human Rights, Factsheet 19, on http://www.ohchr.org/Documents/Publications/FactSheet19en.pdf.
[4] Tường Duy Kiên: “Mô hình bộ máy quốc gia về QCN ở một số nước và suy nghĩ về cơ chế bảo đảm QCN”. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 152, tháng 8.2009.
[5] http://www.dienngon.vn ngày 21.02.2013.
[6] Theo GS.TSKH Đào Trí Úc, để được xác định là thiết chế hiến định độc lập phải thỏa mãn các điều kiện: (1) thiết chế đó phải bao gồm những cơ quan không chịu sự phụ thuộc theo quan hệ trên – dưới đối với một cơ quan thuộc nhánh quyền lực khác hay của cơ quan khác; (2) có những chức năng pháp lý và đặc điểm tổ chức được hiến pháp quy định; (3) các cơ quan trong thiết chế là một hệ thống tổ chức, có thể tập trung hoặc phi tập trung nhưng thống nhất về chức năng, nhiệm vụ; (4) các chức năng, thẩm quyền của các cơ quan trong thiết đó phải mang tính chất là những chức năng, thẩm quyền phổ quát mà không mang tính quản lý ngành. Các cơ quan trong thiết này phổ biến như Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng (Ủy ban) Bảo hiến, Ủy ban Bầu cử Quốc gia ở một số quốc gia, NHRIs,… (xem thêm: GS.TS Đào Trí Úc: Các thiết chế hiến định độc lập, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6 năm 2012, tr. 6).
[7] GS.TSKH Đào Trí Úc: “Các thiết chế hiến định độc lập”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6 năm 2012, tr. 6.
[8] .http://en.wikipedia.org/wiki/National_human_rights_institutions.
[9] Xem thêm trên trang web của Ủy ban Nhân quyền Malaysia, http://www.suhakam.org.my.
[10] Hoàng Văn Nghĩa: “Nguyên tắc Paris 1993 và các cơ chế bảo đảm QCN quốc gia trên thế giới” bài cập nhật lúc 15h, ngày 25.03.2013 trên http://www.tks.edu.vn/portal/detailtks.
[11] http://en.wikipedia.org/wiki/Ombudsman.
[12] Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, QCN, tập tài liệu chuyên đề của LHQ, Nxb Công an nhân dân, năm 2010, tr. 346.
[13] CCP khảo sát 550/800 bản Hiến pháp thành văn đã được ban hành trên thế giới từ năm 1789, trong đó hơn 90% được thông qua sau chiến tranh thế giới II. Xem thêm dữ liệu của CCP tại http://www.constitutionmaking.org/reports.htmlơ.
[14] Dẫn theo: TS. Vũ Công Giao, “Cơ quan QCN quốc gia, vị trí của nó trong Hiến pháp trên thế giới và gợi ý cho Việt Nam” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23/2012).
[15] Theo báo Vnexpress.net, Thứ tư, 13/11/2013.
[16] Phát biểu của ông Trần Văn Hằng – Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội trên: www. dantri.com.vn, ngày 14.11.2014.
[17] Chỉ thị 44/CT-TW của Ban Bí thư ngày 20.7.2010.
[18] Báo Người Lao Động số ra ngày 21.8.2013.
[19] Phần viết của PGS.TS Trương Đắc Linh trong cuốn Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp, kinh nghiệm thế giới và Việt Nam, Nxb Giáo Dục, năm 2010, tr. 236.
[20] TS.Vũ Công Giao, “Cơ quan QCN quốc gia, vị trí của nó trong Hiến pháp trên thế giới và gợi ý cho Việt Nam” Tạp chí NCLP, số 3/2012.
[21] Nguyên văn tiếng Anh đoạn này trong Nguyên tắc Paris 1993 là: “(1) A national institution shall be vested with competence to promote and protect human rights; (2) A national institution shall be given as broad a mandate as possible, which shall be clearly set forth in a constitutional or legislative text, specifying its composition and its sphere of competence”.
[22] CCP khảo sát 550/800 bản Hiến pháp thành văn đã được ban hành trên thế giới từ năm 1789, trong đó hơn 90% được thông qua sau Chiến tranh thế giới II. Xem thêm dữ liệu của CCP tại http://www.constitutionmaking.org/reports.htmlơ.
[23] Tờ trình số 11/TTr-UBTVQH13 ngày 02.8. 2011 về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
Tác giả: Trần Quang Trung, Vũ Thị Bích Hường
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2014 (84)/2014 – 2014, Trang 64-72
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời