Mục lục
Vai trò của các tiêu chuẩn quốc tế khi ban hành các quy định đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu
TÓM TẮT
Bên cạnh những lợi ích mang lại từ quá trình toàn cầu hóa, quá trình này cũng đặt ra một số vấn đề về chất lượng và an toàn thực phẩm nhập khẩu. Vấn đề đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay trở nên cấp thiết để đảm bảo quyền cơ bản của con người – quyền được cung cấp thực phẩm an toàn. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nước trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization – WTO), cần thiết có những quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hiệu quả để đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu vừa phải tuân thủ những quy định của WTO. Việt Nam nên áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế khi ban hành các quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu. Bài viết sẽ tập trung phân tích định nghĩa tiêu chuẩn quốc tế; điều kiện áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế; ý nghĩa của việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế khi ban hành các quy định an toàn thực phẩm, các quy định kỹ thuật nhằm đảm bảo chất lượng thực phẩm.
Xem thêm:
- Đi tìm điểm cân bằng giữa tuân thủ luật WTO và bảo đảm an toàn thực phẩm: Đáp án nào cho Việt Nam – PGS.TS. Trần Thị Thùy Dương
- Thực trạng phòng ngừa các hành vi vi phạm về an toàn thực phẩm – ThS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
- Những bất cập về thời hiệu và thời hạn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm – TS. Cao Vũ Minh
- Cần thí điểm thành lập ban quản lý an toàn thực phẩm tại các thành phố trực thuộc trung ương – TS. Thái Thị Tuyết Dung
- Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm: nhìn từ khía cạnh quản lý nhà nước và quyền lợi người tiêu dùng – ThS. Nguyễn Tuấn Vũ
TỪ KHÓA: Tiêu chuẩn quốc tế, An toàn thực phẩm, Nhập khẩu, Tạp chí Khoa học pháp lý
Trong bối cảnh toàn cầu hóa thị trường thực phẩm, người tiêu dùng từ các nước khác nhau được hưởng lợi từ việc tiếp cận thực phẩm rẻ hơn và có thể chọn lựa đa dạng hơn các sản phẩm nông nghiệp khác nhau trong bất cứ mùa nào trong năm.Thương mại thực phẩmtrên toàn thế giớiđã tăng từ224 tỉ đô la Mỹtrongnăm 1972 đến438 tỉ đô la Mỹ trongnăm 1998[1] . Giá trịthương mại thực phẩmtoàn cầutiếp tục tăng lêntrong thập kỷđầu tiên củathế kỷ XXI, đạt 1114 tỉ đô la Mỹtrongnăm 2008 và chiếmhơn 10% thương mại hàng hóa toàn cầu.[2] Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa đặt ra một số vấn đề về chất lượng và an toàn thực phẩm nhập khẩu. Một sự cốan toàn thực phẩmđiển hình được công bốtạiTrung Quốcvào tháng 09/2008. Melamine, một hóa chất giàu nitơđược sử dụng trongcác sản phẩmcông nghiệp, chẳng hạn nhưnhựa,vảichống cháyvàđồ dùng nhà bếp[3] đãđược các nhà sản xuất thêm vàosữa nguyên liệuđểtăng hàm lượng protein biểu hiện bên ngoài[4] . Hình thứcgiả mạoxảy ra bởi vìcác phương phápthường được sử dụngđể phân tíchproteinkhông thểgiúp xác định xemsự hiện diệnnguồn protein là từ nitơtrongsữahoặc từ các nguồnprotein khác. Hậu quảcho sức khỏecủaviệc trộn melaminetrong sữa bao gồmsỏi thận, suy thận, vàtrongmột số trường hợpgây tử vong[5] . Sản phẩmnhiễm melaminetừsữa bột ảnh hưởng đến trẻ em khôngchỉở Trung Quốc mà còn ở 46quốc gia khác[6] . Thậnvà các bệnhđường tiết niệu,bao gồmsỏi thận,ảnh hưởng đến khoảng300.000trẻ sơ sinh vàtrẻ em, hơn 50.000trẻ em phải nhập việnvà 6ca được báo cáo đã tử vong[7] . Phạm vicủamelaminenhiễm bẩn trong cácsản phẩmtừTrung Quốctiếp tụcmở rộngđể bao gồmcác sản phẩmkhông chế biến từ sữanhưtoàn bộtrứng, trứnggàtươivàkemsữa.[8]
Sữa nhiễm melamine từ Trung Quốc cũng đã được nhập khẩu vào Việt Nam gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người tiêu dùng. Gần đây, cảnh báo được đưa ra sau khi Công ty sữa Fonterra New Zealand, vốn là nhà xuất khẩu sữa lớn nhất thế giới, thông báo 3 mẻ Whey protein được sản xuất vào tháng 05/2012 được kiểm tra dương tính với Clostridium botulinum. Fonterra thừa nhận Whey protein bị nhiễm đã được dùng sản xuất nhiều sản phẩm, trong đó có sữa bột dành cho trẻ sơ sinh và thức uống dành cho người chơi thể thao. Một quan chức New Zealand cho hay lượng Whey protein bị nhiễm đã được dùng tạo ra 870 tấn sản phẩm, vốn đã được bán trong nhiều thị trường khác nhau.[9] Trong một động thái khác, Cục An toàn thực phẩm (ATTP), Bộ Y tế cho biết ngày 03/08/2012 đã nhận được thông tin từ Đại sứ quán New Zealand tại Việt Nam thông báo về việc Bộ Công nghiệp cơ bản xác nhận sữa nhiễm vi khuẩn Clostridium botulinum xuất khẩu sang Việt Nam, Trung Quốc, Úc và Arab Saudi. Thông tin cảnh báo cho biết, sản phẩm xuất khẩu sang Việt Nam là sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ 1-3 tuổi Similac GainPlus Eye-Q. Theo Cục ATTP, đây là sản phẩm của Công ty Abbott được sản xuất bởi Công ty Fonterra New Zealand (công ty có sản phẩm Whey protein bị nhiễm vi khuẩn Clostridium botulinum). Tại Việt Nam, sản phẩm Similac GainPlus Eye-Q dành cho trẻ 1-3 tuổi do Công ty TNHH dinh dưỡng 3A (địa chỉ: 72-74 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.3, TP.HCM) nhập khẩu. Ngày nhập khẩu: 17/06/2013 và 03/07/2013.
Vấn đề đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay trở nên cấp thiết để đảm bảo quyền cơ bản của con người – quyền được cung cấp thực phẩm an toàn[10] . Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nước trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên WTO, cần thiết có những quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hiệu quả để đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu vừa phải tuân thủ những quy định của WTO. Việt Nam nên áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế. Vậy tiêu chuẩn quốc tế được hiểu như thế nào theo Hiệp định SPS và TBT? Điều kiện áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế là gì? Ý nghĩa của việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế khi ban hành các quy định an toàn thực phẩm, các quy định kỹ thuật nhằm đảm bảo chất lượng thực phẩm là gì? Bài viết sẽ tập trung giải quyết những vấn đề nêu trên.
1. Định nghĩa các tiêu chuẩn quốc tế
Trong Hiệp định SPS, “tiêu chuẩn quốc tế” được định nghĩa dưới dạng giới hạn về tổ chức ban hành tiêu chuẩn quốc tế. Theo đó, tiêu chuẩn quốc tế đối với an toàn thực phẩm là tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị được thiết lập bởi Codex, Ban thư ký Công ước bảo vệ thực vật quốc tế và những bảo trợ dưới sự phát triển của Văn phòng kiểm dịch động thực vật quốc tế[11] . Tất cả ba tổ chức này là ba tổ chức liên chính phủ. Phụ lục A(3)(d) cung cấp những vấn đề không thuộc phạm vi những tổ chức nói trên đó là các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị phù hợp được công bố bởi các tổ chức quốc tế khác có liên quan mà các Thành viên có thể gia nhập do Ủy ban xác định. Đối với vấn đề an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn quốc tế có liên quan là tiêu chuẩn của Codex[12] . Điều này cũng đã được Cơ quan phúc thẩm ghi nhận trong vụ tranh chấp Mỹ/Canada – tiếp tục đình chỉ: “Các “tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn hay khuyến nghị” liên quan được đề cập đến tại Điều 3.1 và 3.2 là những tiêu chuẩn được thiết lập bởi các tổ chức quốc tế được liệt kê trong Phụ lục A, khoản 3 của Hiệp định SPS, trong đó bao gồm Codex là tổ chức thiết lập tiêu chuẩn liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm.”[13] Như vậy, Theo Hiệp định SPS trong lĩnh vực an toàn thực phẩm chỉ có tiêu chuẩn, khuyến nghị của Codex mới được coi là tiêu chuẩn quốc tế. Do đó,mặc dùkhông ràng buộcvề mặt pháp lýtrong bản chất,tiêu chuẩn Codexđã trở thànhtiêu chuẩn tham chiếuthông quaHiệp định SPS[14] . Cácgiả địnhvề sự phù hợpđược đặt ra bởiHiệp định SPSđã nângCodexđến mộtvị trí “bán lập pháp”[15] và các tiêu chuẩnCodexđã trở thành “ràng buộctrên thực tế”(de facto binding)[16] .
Hiệp định TBT không định nghĩa rõ ràng về “các tiêu chuẩn quốc tế”. Ban hội thẩm trong vụ tranh chấp EC – cá mòiđịnh nghĩa “tiêu chuẩn quốc tế” là “tiêu chuẩn được phát triển bởi các tổ chức quốc tế”[17] . Điều này tất nhiên đặt ra câu hỏi làm thế nào để xác định thuật ngữ “tiêu chuẩn” và “tổ chức quốc tế”. “Tiêu chuẩn” được định nghĩa trong Hiệp định TBT: “Tiêu chuẩnlà tài liệu được chấp nhận bởi một tổ chức được công nhận, đề ra, để sử dụng chung và nhiều lần, các quy tắc, hướng dẫn, hoặc đặc tính của sản phẩm hoặc các quy trình và phương pháp sản xuất sản phẩm đó mà việc thực hiện là không bắt buộc”[18] . Lưu ý rằng các tiêu chuẩn theo Hiệp định TBT có thể liên quan đến bản thân sản phẩm cũng như quá trình sản xuất hoặc phương pháp theo đó các sản phẩm được sản xuất ra. Hiệp định TBT định nghĩa về “tổ chức quốc tế” là “tổ chức hoặc hệ thống để ngỏ để các cơ quan có liên quan của ít ra là tất cả các Thành viên có thể trở thành thành viên”[19] . Cho đến thời điểm hiện nay, các quốc gia hay sử dụng các tiêu chuẩn của các tổ chức như: Cơ quan Tiêu chuẩn đo lường và kiểm định chất lượng quốc tế – Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO); hợp tác công nhận lẫn nhau giữa các phòng thí nghiệm quốc tế (International Laboratory Accreditation Cooperation – ILAC); Diễn đàn công nhận quốc tế (International Accreditation Forum – IAF); Văn phòng quốc tế về Trọng lượng và các phương pháp đo lường (International Bureau of Weights and Measures – BIPM); Tổ chức quốc tế về hệ thống đo lường (International Organization of Legal Metrology – OIML).
Điểm khác nhau giữa SPS và TBT, đó là nếu 3 tổ chức quốc tế được giới hạn trong Hiệp định SPS là các tổ chức liên chính phủ thì tổ chức quốc tế trong Hiệp định TBT có thể là liên chính phủ (như CODEX) hoặc là liên kết tư nhân (semiprivate) (như ISO). Tuy nhiên, các tổ chức phi chính phủ được giới hạn trong các cơ quan có quyền lực pháp lý để buộc thi hành một quy định kỹ thuật[20] .
Hiệp định TBT không liệt kê những tổ chức quốc tế có đủ tiêu chuẩn để ban hành các tiêu chuẩn quốc tế, cũng không chỉ ra các nội dung cũng như thủ tục thông qua tiêu chuẩn quốc tế. Điều này dẫn đến những kết quả sau: Đầu tiên, có thể là có nhiều tiêu chuẩn quốc tế đối với một sản phẩm hoặc quy trình và phương pháp sản xuất do các cơ quan quốc tế khác nhau ban hành. Việc tôn trọng quyền tự chủ của quốc gia sẽ cho phép quốc gia lựa chọn tiêu chuẩn mà quốc gia thích. Thứ hai,các thành viên WTO có thể tạo ra các cơ quan liên kết, ví dụ một số thành viên có thể tạo ra tổ chức quốc tế, để ban hành các tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo chất lượng thực phẩm nhập khẩu. Cuối cùng,định nghĩa của tiêu chuẩn quốc tế trong Hiệp định TBT dường như nhấn mạnh vào các thành viên của các tổ chức quốc tế hơn là vào quá trình phát triển của các tiêu chuẩn quốc tế có quá trình phát triển đáp ứng nhu cầu thị trường toàn cầu. Định nghĩa tiêu chuẩn quốc tế trong TBT hiện nay rất rộng, cho phép các thành viên có sự áp dụng linh hoạt nhằm mục đích đảm bảo chất lượng thực phẩm nhập khẩu.
Như vậy, không phải tiêu chuẩn của tất cả các tổ chức quốc tế đều được xem là tiêu chuẩn quốc tế theo quy định của Hiệp định SPS/TBT. Khái niệm tiêu chuẩn quốc tế trong Hiệp định TBT dường như rộng hơn so với khái niệm tiêu chuẩn quốc tế được quy định tại Hiệp định SPS.
2. Ý nghĩa của việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế khi ban hành biện pháp SPS/TBT
Điều XX (b) GATT 1994 và Lời nói đầu Hiệp định SPS ghi nhận các thành viên WTO được quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe của con người. Hiệp định SPS ghi nhận: “Các biện pháp vệ sinh động – thực vật tuân thủ các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị quốc tế sẽ được cho là cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động vật, thực vật và được coi là phù hợp với các điều khoản liên quan của Hiệp định này và của GATT 1994”[21] . Điều 2.5, Hiệp định TBT quy định: “Khi một quy định kỹ thuật được chuẩn bị, thông qua hoặc áp dụng cho một trong những mục tiêu hợp pháp đã được đề cập đến trong khoản 2, và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan thì quy định này sẽ được coi là không tạo ra cản trở không cần thiết cho thương mại quốc tế”. Như vậy, tiêu chuẩn trong nước được áp dụng theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ được cho là phù hợp với các nghĩa vụ khác và “miễn dịch” với những thách thức từ cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO.
Điều 3.2 Hiệp định SPS quy định rằng “các biện pháp SPS tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế sẽ được cho là cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe con người động vật, thực vật và được coi là phù hợp với các điều khoản liên quan của Hiệp định này và của GATT 1994”. Cần phải nhấn mạnh rằng chỉ có các biện pháp SPS “tuân thủ” những tiêu chuẩn quốc tế mới được hưởng những lợi ích của giả định này. AB cho rằng ý nghĩa thực tế của thuật ngữ “tuân thủ” có nghĩa là một thành viên xác nhận đầy đủ những tiêu chuẩn quốc tế như những tiêu chuẩn trong nước, không có độ lệch[22] . Ngược lại, nếu các thành viên lựa chọn chỉ là “cơ sở” (base) biện pháp SPS “trên” (on) các tiêu chuẩn quốc tế, chẳng hạn như biện pháp được ban hành một số, nhưng không phải là tất cả các yếu tố của tiêu chuẩn quốc tế, thành viên sau đó không được hưởng lợi từ giả định về tính thống nhất và vẫn phải chịu sự giám sát đầy đủ theo Hiệp định SPS, cụ thể là trên cơ sở bằng chứng khoa học đầy đủ và có đánh giá nguy cơ[23] .
Như vậy, nếu các tiêu chuẩn quốc tế liên quan tồn tại, có 3 mối quan hệ có thể có giữa các tiêu chuẩn quốc tế và các biện pháp SPS trong nước. Trước tiên, một thành viên có thể lựa chọn để biện pháp SPS dựa trên cơ sở (nhưng không tuân thủ) các tiêu chuẩn quốc tế. Các biện pháp đó vẫn chịu sự giám sát đầy đủ của các Ban hội thẩm WTO để thống nhất với tất cả các quy tắc SPS. Thứ hai, một thành viên có thể lựa chọn tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế và do đó tận hưởng giả định biện pháp SPS của mình phù hợp với tất cả các quy định khác của SPS cũng như Hiệp định GATT 1994.Thứ ba, một thành viên có thể thiết lập một mức bảo vệ cao hơn (chặt chẽ hơn) các tiêu chuẩn quốc tế hoặc thấp hơn các tiêu chuẩn quốc tế.
Đi chệch khỏi các tiêu chuẩn quốc tế, một thành viên có thể đưa ra tiêu chuẩn cao hơn hoặc thấp hơn các tiêu chuẩn quốc tế. Đối với trường hợp cao hơn, Điều 3.3 Hiệp định SPS cho phép một thành viên có thể đi chệch khỏi các tiêu chuẩn quốc tế nếu một thành viên tìm kiếm sự bảo hộ cao hơn tiêu chuẩn quốc tế, bởi vì việc thiết lập mức độ bảo hộ thích hợp là quyền tự chủ quan trọng của tất cả các thành viên WTO. Điều 3.3 ngầm vạch ra một kịch bản là các tiêu chuẩn quốc tế không đủ đạt được mức độ bảo hộ theo đuổi[24] . Tuy nhiên, mức độ bảo hộ cao hơn phải dựa trên bằng chứng khoa học. Mặt khác, nếu một thành viên lựa chọn để đi chệch lại các tiêu chuẩn quốc tế và cố gắng để thiết lập một mức độ bảo vệ cao hơn so với tiêu chuẩn quốc tế thì phải giải trình cụ thể độ lệch đó nếu bị khởi kiện bởi các Thành viên khác[25] . Mục tiêu của các tiêu chuẩn quốc tế là thúc đẩy sự hài hòa của các biện pháp SPS trên cơ sở rộng nhất có thể, trong khi thừa nhận và bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các Thành viên, bảo vệ lợi ích phi thương mại đối với công dân của họ[26] .
Nếu áp dụng biện pháp SPS trên các tiêu chuẩn quốc tế, không được hưởng giả định thì thành viên áp dụng cũng có thể dễ dàng hơn so với khi phải chứng minh biện pháp SPS được ban hành trên cơ sở bằng chứng khoa học[27] . Ngoài ra, Điều 2.5, Hiệp định TBT quy định: “Khi một quy định kỹ thuật được chuẩn bị, thông qua hoặc áp dụng cho một trong những mục tiêu hợp pháp đã được đề cập đến trong khoản 2, và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan thì quy định này sẽ được coi là không tạo ra cản trở không cần thiết cho thương mại quốc tế”.
Sự khác biệt trong phạm vi giả định có thể được giải thích bởi tính chất của các cơ quan tiêu chuẩn hóa là các tổ chức quốc tế khác nhau. Hiệp định SPS xác định danh mục các tiêu chuẩn quốc tế có tham chiếu đến 3 tổ chức quốc tế cụ thể, với ý nghĩa chúng hoạt động trên cơ sở đại diện quốc gia và tạo ra những quyết định liên chính phủ. Vì vậy, các thành viên dự kiến sẽ chấp nhận các tiêu chuẩn quốc tế như chính họ tạo ra chúng. Hiệp định TBT không chỉ định bất kỳ một tổ chức có liên quan đến hoạt động của chúng.
3. Điều kiện áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế
Để được hưởng giả định biện pháp SPS/TBT là biện pháp cần thiết để bảo vệ cuộc sống, sức khỏe con người thì biện pháp SPS/TBT phải thỏa mãn một số điều kiện sau
3.1. Điều kiện về phạm vi thời gian của các tiêu chuẩn quốc tế
Khi không có các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan tại thời điểm đó, Điều 2.4 của Hiệp định TBT và Điều 3.1 của Hiệp định SPS không được áp dụng đối với các biện pháp TBT / SPS tranh chấp. Mặt khác, tiêu chuẩn quốc tế mới được thông qua không áp dụng cho các biện pháp TBT / SPS đã tồn tại trước đó, do đó áp đặt nghĩa vụ đối với các thành viên để liên tục đánh giá lại các quy định TBT / SPS hiện tại của họ. Trong EC – Cá mòi, EC cho rằng Điều 2.4 chịu một hạn chế thời gian, đó là, tiêu chuẩn quốc tế chỉ áp dụng cho việc chuẩn bị và áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia mới và không áp dụng đối với các tiêu chuẩn quốc gia tồn tại từ trước. AB bác bỏ lập luận của EC trên ba cơ sở. Đầu tiên, văn bản của Điều 2.4 không hỗ trợ sự cần thiết bản chất giới hạn thời gian của các tiêu chuẩn quốc tế được lập luận bởi EC. Quan trọng hơn, AB nhắc lại phán quyết của mình trong EC – Hormonestrong đó AB khẳng định rằng quy định tiêu chuẩn quốc tế của SPS áp dụng cho tất cả các các biện pháp trong nước hiện tại và trong tương lai. Không có bằng chứng về ý định miễn trừ biện pháp hiện tại ra khỏi nguyên tắc SPS.[28] Với cấu trúc tương tự giữa TBT và Hiệp định SPS, AB cho rằng việc giải thích tương tự được thông qua trong EC – Cá mòi. Thứ hai, AB ủng hộ quan điểm của mình bằng cách xem xét bối cảnh của Điều 2.4. Những bối cảnh này bao gồm Điều 2.5 và Điều 2.6. Cụ thể, Điều 2.5 áp đặt một nghĩa vụ thành viên “chuẩn bị, thông qua, hoặc áp dụng” quy chuẩn kỹ thuật để cung cấp sự biện minh đối với quy chuẩn kỹ thuật đó. Việc sử dụng thuật ngữ “áp dụng” (apply) xác nhận rằng các yêu cầu nêu trong Điều 2.4 được áp dụng đối với quy chuẩn kỹ thuật hiện hành[29] . Điều 2.6 yêu cầu các thành viên WTO tham gia vào phát triển các tiêu chuẩn đối với các sản phẩm mà họ đã áp dụng các biện pháp TBT trong nước. AB lý luận rằng nếu một thành viên tham gia phát triển các tiêu chuẩn quốc tế và sau đó khẳng định rằng tiêu chuẩn này không áp dụng đối với các tiêu chuẩn quốc gia hiện có sẽ làm cho Điều 2.6 dư thừa và trái với nguyên tắc hiệu quả trong giải thích điều ước quốc tế.[30] Cuối cùng, AB nhắc lại rằng một trong những mục tiêu chính của Hiệp định TBT là để hài hòa tiêu chuẩn quốc gia và kết luận rằng loại trừ tiêu chuẩn sản phẩm hiện có sẽ thiết lập “quyền miễn trừ” (grandfather rights) đối với các biện pháp này, một kết quả mà các nhà đàm phán của WTO không thể có ý định[31] . Như vậy, AB xác nhận quan điểm cho rằng các thành viên WTO có nghĩa vụ liên tục đánh giá lại quy chuẩn kỹ thuật hiện có phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế mới hoặc sửa đổi.
3.2. Tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng là tiêu chuẩn quốc tế có liên quan
AB trong vụ tranh chấp US/Canada – Tiếp tục đình chỉyêu cầu một cách rõ ràng rằng các thành viên WTO sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở cho các quy định biện pháp vệ sinh động – thực vật của mình khi các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan[32] . Trong tranh chấp EC – Hormones, năm 1998, EU đưa ra pháp luật thiết lập mức tối đa mới của độc tố aflatoxin trong thực phẩm. Aflatoxin là một hình thức độc tố mà khi ăn, có thể tạo ra hội chứng nhiễm độc ở người và động vật. Trong hơn một thập kỷ Ủy ban quốc tế Codex đã và đang xem xét việc thành lập các giới hạn tối đa cho aflatoxin trong thực phẩm. Một đề xuất sửa đổi đã được đưa ra thảo luận trong một cuộc họp tháng 3/1998. Vì vậy, các sáng kiến của EU và quốc tế đã được phát triển song song. Theo yêu cầu của Hiệp định SPS, trong tháng 01/ 1998, EU đã thông báo về ý định chỉnh sửa giới hạn tối đa cho aflatoxin B1 và tổng aflatoxin trong lạc, các loại hạt, trái cây sấy khô, ngũ cốc, sữa và các sản phẩm chế biến. EC lập luận không có tiêu chuẩn hướng dẫn hay khuyến nghị quốc tế. EC ban đầu đã đưa ra một thời gian khá ngắn để lấy ý kiến[33] Cơ quan đại diện của các quốc gia Gambia, Argentina, Ấn Độ, Senegal, Malaysia, Thái Lan, Brazil, Úc, New Zealand, Iran, Mỹ, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Philippines và Peru phản đối bằng văn bản với các biện pháp đề xuất. Nhưng một số nước khác rõ ràng gặp khó khăn khi đáp ứng giới hạn thời gian của EU thiết lập.EC cho rằng những tiêu chuẩn của Codex là không có liên quan vì EC thiết lập lệnh cấm còn những tiêu chuẩn của Codex là thiết lập dư lượng tối đa. Ban hội thẩm đã bác bỏ lập luận của EC, vì rõ ràng rằng các tiêu chuẩn quốc tế và các quy định của EC bao gồm các chất được sử dụng cho mục đích giống nhau và áp dụng cho các loại sản phẩm tương tự nhau[34] .
Khác với Hiệp định SPS, Điều 2.4 của Hiệp định TBT yêu cầu một cách rõ ràng rằng các thành viên WTO sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở cho các quy định kỹ thuật của mình khi các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan đã tồn tại hoặc sắp được hoàn chỉnh. Quy định này áp đặt một nghĩa vụ lên các thành viên WTO đối với việc xem xét không những những tiêu chuẩn đã được ban hành mà còn cả những tiêu chuẩn sẽ được ban hành trong tương lai gần. Trong Hiệp định TBT, để một tiêu chuẩn quốc tế được coi là “liên quan”, nó sẽ phải “ảnh hưởng đến”, “liên quan đến”, hoặc là “thích hợp” đối với những tiêu chuẩn trong nước[35] . Nếu chúng đề cập cùng một sản phẩm, các tiêu chuẩn quốc tế chắc chắn là có liên quan. Hơn nữa, nếu các tiêu chuẩn quốc tế có phạm vi rộng hơn, nó vẫn là một tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, chỉ cần là nó bao gồm một loạt các sản phẩm mà quy chuẩn kỹ thuật trong nước điều chỉnh[36] .
3.3. Các biện pháp SPS/TBT nên “dựa trên” (based on) các tiêu chuẩn quốc tế
Điều 3.1 của Hiệp định SPS yêu cầu các thành viên WTO làm cơ sở biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm của họ trên các tiêu chuẩn quốc tế, nơi chúng tồn tại. Hiệp định SPS không định nghĩa một cách rõ ràng thuật ngữ “dựa trên” (based on). Câu hỏi mức độ “dựa trên” như thế nào vẫn chưa được giải quyết. Nếu nó được giải thích quá hẹp, quyền tự chủ của quốc gia sẽ bị hạn chế đáng kể và một tiêu chuẩn quốc tế tự nguyện có thể được chuyển đổi thành tiêu chuẩn quốc gia bắt buộc một chính phủ quốc gia phải tuân theo. Trong EC – hormones, Ban hội thẩm đánh đồng “dựa trên” (based on) với “tuân thủ với” (conform to) và tiếp tục phán quyết rằng một biện pháp vệ sinh được dựa trên tiêu chuẩn quốc tế, biện pháp mà cần phải phản ánh mức độ bảo vệ giống như tiêu chuẩn quốc tế[37] . AB đưa ra quan điểm trái ngược quan điểm của Ban hội thẩm và cho rằng một biện pháp SPS dựa trên “tiêu chuẩn quốc tế có nghĩa là các tiêu chuẩn trong nước có “lập trường, quan điểm” (stand)hoặc là “ được thành lập” (founded) hoặc “ được xây dựng” (built) theo hoặc “được hỗ trợ bởi” các tiêu chuẩn quốc tế[38] . Ngược lại, “tuân thủ” tiêu chuẩn quốc tế có nghĩa là các biện pháp SPS là hiện thân tiêu chuẩn quốc tế hoàn toàn, thay vì sử dụng thuật ngữ “dựa trên” như trong Hiệp định SPS, Điều 2.4 của Hiệp định TBT yêu cầu tiêu chuẩn quốc tế được sử dụng “làm cơ sở cho” (as a basis for) các quy định kỹ thuật trong nước. AB kiểm tra định nghĩa từ điển của “cơ sở” (basis) và nhấn mạnh ý nghĩa của từ này là “thành phần chủ chốt”, “nguyên tắc cơ bản” và “thành phần chính”. AB sau đó kết luận rằng phải có “mối quan hệ rất mạnh mẽ và gần gũi” giữa hai tiêu chuẩn quốc tế và quốc gia.[39] Trong EC – Cá mòi, vì quy định EC trái với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, Codex Stan 94, Codex Stan 94 không thể nói để phục vụ “làm cơ sở cho” quy định EC.[40] Đáng chú ý, AB phản đối trong EC – Cá mòirằng “làm cơ sở cho” tại Điều 2.4 đồng nghĩa với việc có “mối quan hệ hợp lý” giữa các tiêu chuẩn quốc tế và quy chuẩn kỹ thuật có liên quan.[41] EC cho rằng các tiêu chí về “làm cơ sở cho” không phải là liệu các tiêu chuẩn quốc tế là thành phần nguyên tắc hoặc nguyên tắc cơ bản của quy chuẩn kỹ thuật hay không mà là liệu có một mối “quan hệ hợp lý” giữa các tiêu chuẩn quốc tế và quy chuẩn kỹ thuật hay không[42] . Một mối quan hệ hợp lý tập trung vào các khía cạnh chất lượng của các mối quan hệ nội dung tồn tại giữa các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan và quy chuẩn kỹ thuật. Trong EC – Cá mòi, AB xác nhận rằng giải thích từ “dựa trên” tại Điều 3.1 của Hiệp định SPS trong EC – hormones có liên quan đến việc giải thích “làm cơ sở cho” trong Hiệp định TBT.[43] AB từ chối xác định xem liệu rằng “làm cơ sở cho” trong Hiệp định TBT có cùng một nghĩa là “dựa trên” trong Hiệp định SPS hay không.[44] Có thể lập luận rằng, so với Hiệp định SPS, Hiệp định TBT đòi hỏi một mối quan hệ gần gũi hơn giữa các tiêu chuẩn quốc tế và các biện pháp kỹ thuật tranh chấp. Trong EC – Cá mòi, EC cũng cho rằng quy định của EC dựa trên tiêu chuẩn quốc tế Codex Stan 94 và nhắc nhở Ban hội thẩm tham khảo lịch sử đàm phán của Codex Stan 94, thay vì bám vào ý nghĩa đơn giản của nó.[45] EC yêu cầu rằng Ban hội thẩm tham khảo ý kiến với Codex để làm rõ ý nghĩa thực sự của Codex Stan 94. Tuy nhiên, Ban hội thẩm đã từ chối yêu cầu, kết luận rằng không có nhu cầu tìm kiếm thông tin từ Codex.[46] AB tôn trọng quyết định của Ban hội thẩm trong việc quyết định xem có nên tìm lời khuyên bên ngoài.[47]
Như vậy, khi ban hành các biện pháp SPS/TBT nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu, Việt Nam nên sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan để được hưởng giả định biện pháp SPS/TBT đó là cần thiết để đảm bảo sức khỏe của con người. Ngay cả khi không được hưởng giả định này, thì Việt Nam cũng nên tham khảo, dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế để ban hành các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu vì mặc dù không được hưởng giả định nhưng những biện pháp này dễ dàng được chứng minh thỏa mãn yêu cầu bằng chứng khoa học theo quy định Hiệp định SPS/TBT. Khái niệm tiêu chuẩn quốc tế được quy định trong Hiệp định TBT rộng hơn so với khái niệm tiêu chuẩn quốc tế được quy định tại Hiệp định SPS, do đó cho phép Việt Nam vận dụng một cách linh hoạt hơn khi ban hành các quy định nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm nhập khẩu.
CHÚ THÍCH
* ThS Luật học, giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật, Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Mickey Chopra, A Global Response to a Global Problem: The Epidemic of Overnutrition, 80 BULL. WORLD HEALTH ORG. 2002, tr. 952-953.
[2] WTO, International Trade Statistics 2009,tr. 33.
[3] WHO, Melamine and Cyanuric Acid: Toxicity, Premininary Risk assessment and Guidance on Levels in Food,2008; http://tinyurl.com/452v9m.
[4] Cathy A. Brown, Outbreaks of Renal Failure Asssociated with Melamine and Cyanuric Acid in Dogs and Cats in 2004 and 2007, 19 J. Veterinary Diagnostic Investigation , 2007, tr. 525.
[5] WHO, Questions and Anwers on Melamine,http://tinyurl.com/y8hdhyy.
[6] Céline Marie-Elise Gossner, The Melamine Incident: Implications for International Food and Feed Safety, 117 ENVTL. HEALTH PERSP. 1803, 2009.
[7] WHO, Ottawa, Toxicological and Health Aspects of Melamine and Cyanuric Acid: Report of a WHO Expert Meeting in Collaboration with FAO Supported by Health Canada,at 15–16 (2009).; http://tinyurl.com/2cvjobc.
[8] Centre for Food Safety ,Latest Test Results for Melamine, ngày 28/10/ 2008 ; http://tinyurl.com/26kwgu5.
[9] .http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130804/new-zealand-canh-bao-sua-nhiem-khuan-vao-viet-nam.aspx
[10] .World Health Organization (1978), The Declaration of Alma-Atain Report of the International Conference on Primary Health Care, Article VII, Geneva.
[11] Phụ lục A (3), Hiệp định SPS.
[12] Một tổ chứcquốc tếcó tầm quan trọngrất quan trọngđối với an toànthực phẩmtoàn cầulà Ủy ban An toàn thực phẩm, được thành lập theo quy định củahai nghị quyếtđược thông qua tạikỳ họpthứ mườicủa Hội nghịFAOnăm 1961vàXVI của WHO vào năm 1963. Tính đến ngày 29/09/2013 , CODEX có 186 thành viên và 220 quan sát viên.
[13] WT/DS320/AB/R, đoạn 693.
[14] Muc 3, Phụ lục A, Hiệp định SPS.
[15] Joel P. Trachtman, The World Trading System, the International Legal System and Multilevel Choice, 12 EUR. L.J. 469, 2006, tr. 480.
[16] Steve Charnovitz, Triangulating the World Trade Organization,96 AM. J. INT’ L. 28, 51 (2002); Sol Picciotto, Rights, Responsibilities and Regulation of International Business, 42 COLUM. J. TRANSNAT’L L. 131, 2003, tr. 146.
[17] WT/DS231/R, đoạn 7.63
[18] Phụ lục 1 (2), Hiệp định TBT.
[19] Phụ lục 1 (4), Hiệp định TBT.
[20] Phụ lục 1 (8), Hiệp định TBT.
[21] Điều 3.2, Hiệp định SPS.
[22] WT/DS26/AB/R, đoạn 163.
[23] WT/DS26/AB/R, đoạn 171.
[24] WT/DS26/ AB/R, đoạn 172
[25] Điều 3.3, Hiệp định SPS.
[26] WT/DS26/AB, đoạn 177.
[27] Vì Điều 2.2, Hiệp định SPS yêu cầu biện pháp SPS phải được áp dụng trên cơ sở bằng chứng khoa học và không được duy trì khi không đủ bằng chứng khoa học. Trong khi đó, toàn bộ Hiệp định SPS không có định nghĩa như thế nào là “bằng chứng khoa học”. Điều này gây phức tạp cho việc chứng minh biện pháp SPS được ban hành trên cơ sở bằng chứng khoa học. Xem tranh chấp EC – Hormones (WT/DS48/AB/R, footnote 72), Nhật Bản – Táo (WT/DS249/R), đoạn 8.92.
[28] WT/DS26/AB/R, para.128.
[29] WT/DS231/AB/R, đoạn 7.55.
[30] WT/DS231/AB/R, đoạn 7.76.
[31] WT/DS231/AB/R, đoạn 208 – 215
[32] WT/DS320/AB/R, đoạn 693.
[33] Ngày 15/02/1998 là thời hạn cuối cùng để lấy ý kiến, thời hạn này sau đó đã được mở rộng đến ngày 20/03/1998.
[34] WT/DS26/R/USA , đoạn 8.58 – 70.
[35] WT/DS231/AB, đoạn 229.
[36] WT/DS231/AB/R,đoạn 218.
[37] WT/DS26/R, đoạn 8.76.
[38] WT/DS26/AB/R, đoạn 163.
[39] WT/DS231/AB/R, đoạn 245.
[40] WT/DS231/AB/R, đoạn 249.
[41] WT/DS231/AB/R, đoạn 247.
[42] WT/DS231/AB/R, đoạn 241.
[43] WT/DS231/AB/R, đoạn 244.
[44] WT/DS231/AB/R, footnote 169.
[45] WT/DS231/AB/R, đoạn 239.
[46] WT/DS231/R, đoạn 6.8.
[47] WT/DS231/AB/R, đoạn 302.
- Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Thu Thảo
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2014 (84)/2014 – 2014, Trang 57-63
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý