Một số vấn đề chung về quyền con người của người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp
TÓM TẮT
Trong bài viết này, trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về quyền con người, lý luận và thực tiễn thi hành án phạt tù, tác giả đưa ra khái niệm và nội dung các quyền con người của người chấp hành án phạt tù trong thi hành án hình sự. Với nhận thức đó, tác giả kiến nghị các biện pháp bảo đảm quyền con người của người chấp hành án phạt tù trong quá trình thi hành án hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Xem thêm bài viết về “Quyền con người“
- Lịch sử về chống tra tấn và cơ chế bảo đảm quyền của người bị buộc tội khỏi bị tra tấn trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Những nội dung mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong tố tụng hình sự – TS. Hoàng Anh Tuyên
- Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – GS. The John
- Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
- Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt Nam – TS. Phan Nhật Thanh
Quyền con người (QCN) là một giá trị thiêng liêng cao quý, là kết quả đấu tranh chung của toàn thể nhân loại nhằm vươn tới một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Bảo đảm QCN nói chung và QCN của người chấp hành án phạt tù nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và là một yếu tố rất quan trọng khi xây dựng, ban hành các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay vẫn còn hành vi xâm phạm QCN xảy ra, đặc biệt là trong lĩnh vực thi hành án phạt tù (THAPT). THAPT là một hoạt động tư pháp đặc thù, tác động trực tiếp đến QCN và đặc biệt là quyền con người của người chấp hành án phạt tù. THAPT là nơi các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất và vì vậy là nơi QCN dễ bị xâm hại nhất. Bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù là một trong những nội dung và cũng là mục đích của chiến lược cải cách tư pháp của Nhà nước ta đến năm 2020. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, QCN; đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.”[1] Để bảo đảm tốt hơn QCN của người chấp hành án phạt tù trong thi hành án hình sự (THAHS), chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về QCN của người chấp hành án phạt tù, chẳng hạn như khái niệm, nội dung và các biện pháp bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS.
1. Khái niệm quyền con người của người chấp hành án phạt tù khi thi hành án phạt tù
QCN là phạm trù có tính lịch sử, phát triển lâu đời, được nhiều ngành khoa học nghiên cứu trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Cách hiểu về QCN cũng có sự khác nhau nhất định giữa các học thuyết, trường phái nghiên cứu về QCN, giữa các quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Mặc dù vậy, dựa trên các văn kiện quốc tế về QCN, đặc biệt là Bộ luật quốc tế về QCN, quan niệm phổ biến hiện nay thừa nhận:“QCN là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con người, được ghi nhận, bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.”[2]
Các nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan đó chính là các quyền tự nhiên của con người. Con người khi sinh ra có quyền được hưởng các quyền tự nhiên để tồn tại và pháp triển. Tuy nhiên, để các quyền tự nhiên đó trở thành QCN thì phải được Nhà nước ghi nhận và tạo cơ sở pháp lý để có thể thực thi trên thực tế. Đồng thời, Nhà nước có những quy định pháp luật để bảo vệ các QCN đó. “QCN chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.[3] Điều này thể hiện tính chất phức tạp của sự thống nhất lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng xã hội.
Như vậy, chúng ta đã có nhận thức thống nhất về QCN. Để hiểu rõ hơn về nội hàm của QCN, chúng ta cần phân biệt QCN với quyền công dân. QCN và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi nhưng không hoàn toàn đồng nhất. “QCN chính là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con người, được ghi nhận, bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.”[4] “Quyền công dân chính là các QCN được các nhà nước thừa nhận và quy định cho công dân của mình.”[5] Xét riêng ở góc độ nội dung thì QCN có nội dung rộng hơn quyền công dân. Nội dung quyền công dân là những QCN được một nhà nước thừa nhận trong hệ thống pháp luật và áp dụng cho công dân của mình. Nội dung QCN bao gồm quyền công dân nêu trên và những quyền hiển nhiên con người phải có để sống như một con người. Tuy có sự khác nhau, nhưng giữa QCN và quyền công dân lại có mối quan hệ tác động qua lại. Sự phát triển của quyền công dân sẽ góp phần làm cho QCN được thực hiện, QCN được thể hiện phần nào qua quyền công dân.
Những nhận thức trên là cơ sở quan trọng để xây dựng khái niệm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS. Bởi vì, QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS là một lĩnh vực cụ thể của QCN nói chung. Ngoài ra, để xây dựng được khái niệm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS, đòi hỏi chúng ta có nhận thức đúng đắn về đối tượng người chấp hành án phạt tù. Người chấp hành án phạt tù là người có tội, bị Tòa án kết án phạt tù và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Họ có địa vị pháp lý hạn chế hơn những công dân bình thường khác và phải chịu áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, đó là hình phạt tù. Xuất phát từ những nhận thức trên, có thể đưa ra khái niệm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS như sau:
QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con người được ghi nhận trong Hiến pháp và không bị luật tước bỏ hay hạn chế khi người đó chấp hành án phạt tù.
2. Nội dung các QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc (LHQ) năm 1948; Công ước của LHQ về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; Công ước của LHQ về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 đã quy định đầy đủ về các QCN. Trên cơ sở đó, các QCN có thể chia thành hai nhóm chính, đó là nhóm các quyền dân sự, chính trị và nhóm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Ở Việt Nam QCN và quyền công dân được quy định ở Chương II Hiến pháp năm 2013. trong đó có các quyền như quyền sống, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền tự do tư tưởng, tín ngưởng và tôn giáo, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền học tập, lao động, quyền được bảo vệ sức khỏe…
Xuất phát từ địa vị pháp lý của người chấp hành án phạt tù trong THAHS, triển khai quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, THAHS Việt Nam đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập các QCN của người chấp hành án phạt tù. Văn bản nổi bật quy định vấn đề này là Luật THAHS năm 2010 tại Chương 3, từ Điều 21 tới Điều 49. Những nội dung QCN của người chấp hành án phạt tù quy định trong các văn bản trên cũng phù hợp với Các quy tắc về tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân của LHQ năm 1955, Công ước CAT của LHQ năm 1984, Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào của LHQ năm 1988 và Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân của LHQ năm 1990.
Dựa trên cơ sở quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế về QCN của người chấp hành án phạt tù cũng như thực trạng bảo đảm các quyền này trong THAHS, có thể nêu ra nội dung các QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS như sau:
2.1. Nhóm các quyền về dân sự, chính trị của người chấp hành án phạt tù trong thi hành án hình sự
– Quyền sống
Điều 19 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.”.[6] Người chấp hành án phạt tù phải chấp hành bản án phạt tù ở các cơ sở giam giữ, họ bị tước và bị hạn chế một số QCN nhưng họ được đảm bảo quyền sống. Quyền sống là quyền cơ bản của con người mà trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, cũng không thể bị vi phạm.
Quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là sự toàn vẹn về tính mạng. Hơn thế, quyền này bao gồm cả những khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại của con người. Đối với người chấp hành án phạt tù,mục 2 Chương III Luật THAHS (Điều 42, 43) quy định trong thời gian chấp hành án ở các cơ sở giam giữ, họ được hưởng chế độ ăn, mặc, ở theo quy định của Nhà nước đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con người. Cụ thể, trong thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân (PN) được bảo đảm tiêu chuẩn về định lượng thức ăn theo quy định của pháp luật. PN lao động nặng nhọc, độc hại thì lượng thức ăn được tăng thêm. PN được bảo đảm ăn uống vệ sinh, được ở trong theo buồng giam tập thể và được bảo đảm chế độ ăn, mặc, tư trang của mình. Việc tổ chức các dịch vụ phục vụ nhu cầu ăn, mặc, sinh hoạt của PN phải không được mang tính kinh doanh, mà chỉ nhằm mục đích phục vụ là chủ yếu.
– Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm là một trong những quyền hiến định, được ghi nhận tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.”[7] Đối với người chấp hành án phạt tù, mặc dù bị tước quyền tự do đi lại, cư trú, phải chấp hành án ở các cơ sở giam giữ, nhưng họ vẫn còn có quyền tự do về thân thể, được tôn trọng danh dự và nhân phẩm. Điều đó được quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật THAHS năm 2010 về nguyên tắc THAHS. Theo đó, quá trình THAHS phải “bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án”.[8]
Trong thời gian chấp hành án, người chấp hành án phạt tù phải được tổ chức giam giữ đúng quy định và bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người chấp hành án phạt tù trong quá trình giam giữ. Tổ chức giam giữ đúng pháp luật là cơ sở, điều kiện để tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người chấp hành án phạt tù được bảo đảm. Đây cũng là mục đích, yêu cầu mà quá trình giam giữ phải hướng tới. Biểu hiện tập trung nhất của quyền này là người chấp hành án phạt tù được đối xử với sự nhân đạo, tôn trọng về danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe được bảo đảm.
– Quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin được quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013. Trong thời gian chấp hành án phạt tù, người chấp hành án phạt tù được cung cấp thông tin về thời sự, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây mới chỉ là quyền được thông tin của người chấp hành án phạt tù. Quyền tiếp cận thông tin người chấp hành án phạt tù nên được hiểu theo nghĩa rộng hơn bao gồm quyền được chấp hành án ở cơ sở giam giữ theo đúng quy định của pháp luật; quyền được thăm gặp, nhận, gửi thư, liên lạc điện thoại và quyền được thông tin của PN …
– Quyền được chấp hành án ở cơ sở giam giữ theo đúng quy địnhĐịa điểm chấp hành án phạt tù của người chấp hành án phạt tù có ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục cải tạo, tư tưởng và việc liên lạc, thăm gặp của họ. Khi bản án, quyết định phạt tù có hiệu lực pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành các thủ tục trong thời hạn theo luật định để tổ chức đưa người chấp hành án phạt tù đến cơ sở giam giữ để chấp hành hình phạt theo quy định của pháp luật. Trong đó cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có trách nhiệm ra quyết định đưa người chấp hành án tù vào trại giam để chấp hành hình phạt. Địa điểm của cơ sở giam giữ mà người chấp hành án phạt tù phải chấp hành án phải thuận lợi cho người chấp hành án phạt tù, phải gần nơi ở của người chấp hành án hoặc địa điểm nơi xảy ra tội phạm.
– Quyền được thăm gặp, nhận, gửi thư và liên lạc điện thoại
Quyền này của PN có ý nghĩa quan trọng trong công tác giáo dục cải tạo PN, tạo điều kiện cho gia đình và xã hội tham gia vào công tác giáo dục PN nhằm giúp cho PN an tâm tư tưởng, cải tạo tiến bộ. Tuy nhiên, để phòng ngừa các hành vi lợi dụng quyền này để vi phạm chế độ quản lý giam giữ, cung cấp các thông tin ảnh hưởng tới an ninh trật tự ở cơ sở chấp hành hình phạt tù, nội dung bảo đảm quyền này được quy định rất cụ thể và tổ chức thực hiện rất chặt chẽ. Theo Điều 46 Luật THAHS năm 2010, PN được gặp thân nhân một lần trong một tháng, mỗi lần không quá một giờ. PN chấp hành nghiêm chỉnh nội quy trại giam hoặc lập công được gặp vợ hoặc chồng ở phòng riêng không quá 24 giờ. Tại cơ sở giam giữ, PN được gặp thân nhân và đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được gửi thư, trường hợp cấp bách thì được gửi điện tín, thư. Điện tín mà PN gửi và nhận phải qua kiểm tra, kiểm duyệt của cơ sở giam giữ. Cũng theo nội dung này, PN được liên lạc điện thoại trong nước với thân nhân. Cơ sở chấp hành hình phạt tù có trách nhiệm thông báo tình hình chấp hành án của PN với gia đình họ, chính quyền cơ sở nơi PN cư trú trước khi đi chấp hành án 6 tháng một lần.
– Quyền khiếu nại, tố cáo
Điều 30 của Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ về quyền khiếu nại, tố cáo của con người. Trong THAHS, người chấp hành án phạt tù có quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Chương XIII (từ Điều 150 đến Điều 169) Luật THAHS năm 2010. Theo đó, người chấp hành án phạt tù có quyền khiếu nại, tố cáo những quyết định, hành vi trái pháp luật của cán bộ, cơ quan tham gia THAPT, của bất kỳ cá nhân nào khác vi phạm pháp luật trong THAPT và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi khiếu nại, tố cáo của mình. Đơn thư khiếu nại, tố cáo của người chấp hành án phạt tù phải được chuyển đến cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm giải quyết.
– Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Hiến pháp năm 2013 quy định:“Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.”[9]
Đối với người chấp hành án phạt tù, “quyền thực hành tôn giáo, tín ngưỡng là một trong những QCN của người chấp hành án phạt tù không bị tước bỏ bởi các bản án hình sự kết tội họ, do đó quyền này phải được bảo lưu trong thời gian họ chấp hành án phạt tù”.[10] Nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng là một nhu cầu có thật và cũng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo PN, giúp cho PN có chỗ dựa về tinh thần, có sự hướng thiện và kiểm soát hành vi của bản thân, có quyết tâm cải tạo tốt hơn. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật THAHS chưa quy định về trình tự, thủ tục thực hiện quyền này cho PN.
2.2. Nhóm các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa của người chấp hành án phạt tù trong thi hành án hình sự
– Quyền lao động
Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc.”[11] Người chấp hành án phạt tù mà cụ thể là PN trong thời gian chấp hành án được bảo đảm quyền lao động của mình. Quyền này của PN được quy định tại Điều 29, 30 Luật THAHS năm 2010. Những hoạt động này phải không mang tính khổ sai, ép buộc. PN được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe, yêu cầu quản lý giáo dục, hòa nhập cộng đồng. PN nữ được bố trí làm những công việc phù hợp với giới tính, sức khỏe, độ tuổi, không làm công việc nặng nhọc, độc hại thuộc danh sách cấm. PN nữ, PN mắc bệnh, có nhược điểm về thể chất, tinh thần được miễn giảm thời gian lao động. PN được nghỉ lao động các ngày thứ bảy, chủ nhật, lễ, tết. Thời gian lao động, học tập không quá 8 giờ/1 ngày, trừ trường hợp đột xuất hoặc thời vụ có thể lao động thêm, nhưng không quá 2 giờ một ngày và được nghỉ bù hoặc bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật. Việc sử dụng kết quả lao động của PN được công khai, việc sử dụng chủ yếu để tăng cường hiệu quả quản lý giáo dục PN, bổ sung mức thức ăn của PN, lập quỹ tái hòa nhập cộng đồng, khen thưởng PN, đầu tư nâng cấp cơ sở giam giữ.
– Quyền học tập
Điều 39 Hiến pháp 2013 năm quy định: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”.[12] Đối với PN, quyền học tập của họ được quy định tại Điều 28 Luật THAHS năm 2010. Theo đó, trong thời gian chấp hành án, họ được hưởng chế độ về học tập, học nghề, cụ thể PN được học pháp luật, học văn hóa, học nghề. PN là người nước ngoài được khuyến khích học tiếng Việt. PN được bố trí ngày thứ bảy để học tập, học nghề và được nghỉ ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định pháp luật.
– Quyền được chăm sóc sức khỏe
Quyền được chăm sóc sức khỏe được quy định tại Điều 38 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.”[13] Người chấp hành án phạt tù cũng được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe theo quy định tại Điều 48 Luật THAHS năm 2010. Về chế độ chăm sóc y tế đối với PN, PN được hưởng chế độ phòng chống dịch bệnh. Các cơ sở giam giữ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan y tế, tổ chức khám sức khỏe cho PN. PN bị ốm đau, bệnh tật được khám và điều trị tại cơ sở y tế của cơ sở giam giữ. Nếu PN bị bệnh nặng vượt quá khả năng điều trị của cơ sở y tế của cơ sở giam giữ thì được chuyển đến cơ sở y tế cấp huyện, cấp tỉnh để điều trị phù hợp với tình trạng sức khỏe, bệnh tật của người đó. PN bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, điều chỉnh hành vi của mình được chữa bệnh tại cơ sở chuyên khoa y tế, PN nghiện ma túy được tổ chức cai nghiện. Kinh phí cho hoạt động chăm sóc y tế này do nhà nước cấp.
Xem thêm bài viết về “Người đang chấp hành án phạt tù” và “Phạm nhân”
- Thực trạng về tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù – TS. Ngô Hữu Phước
- Cơ sở khoa học của việc thành lập trại giam dành riêng cho phạm nhân chưa thành niên – ThS. Nguyễn Quang Vũ
- Một số vấn đề về giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với phạm nhân – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Nguyễn Quang Vũ
- Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự về Quản lý, giam giữ phạm nhân – ThS. Hoàng Đức Mạnh
- Bảo đảm quyền của người chưa thành niên là con của phạm nhân trong pháp Luật Thi hành án hình sự Việt Nam – ThS. Vũ Thị Thúy & ThS. Nguyễn Thị Kiều Oanh
3. Biện pháp bảo đảm quyền con người của người chấp hành án phạt tù trong thi hành án hình sự
3.1. Nâng cao nhận thức về QCN của người chấp hành án phạt tù trong thi hành án hình sự của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia thi hành án phạt tù và của người chấp hành án phạt tù“Các chủ thể nhà nước là thủ phạm chính của những vi phạm QCN, song đồng thời cũng có vai trò cốt yếu trong việc bảo vệ và thúc đẩy các QCN.”[14] Để tăng cường bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù, trước tiên cần thay đổi nhận thức của những cán bộ, công chức, viên chức, những người làm việc trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về QCN của người chấp hành án phạt tù.
Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của chính đội ngũ cán bộ, chiến sĩ tham gia THAPT. Đây là chủ thể có điều kiện, khả năng vi phạm QCN của người chấp hành án phạt tù và cũng là chủ thể cơ bản có nghĩa vụ bảo vệ và thúc đẩy các QCN của người chấp hành án phạt tù, có trách nhiệm phòng chống các hành vi vi phạm QCN của người chấp hành án phạt tù.
Đối với người chấp hành án phạt tù, họ vừa là chủ thể có nguy cơ bị xâm hại QCN cao nhất, nhưng cũng là chủ thể có khả năng, điều kiện để xâm hại QCN của người chấp hành án phạt tù khác. Điều đó đòi hỏi người chấp hành án phạt tù nâng cao nhận thức của mình. Họ cần phải được giáo dục cải tạo tốt, có ý thức phấn đấu vươn lên trong giáo dục cải tạo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, được tuyên truyền giáo dục đầy đủ, chủ động tìm hiểu để có nhận thức đúng về QCN. Từ đó, người chấp hành án phạt tù có ý thức bảo vệ QCN của mình và không vi phạm QCN của những người khác tham gia THAPT.
3.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền con người của người chấp hành án phạt tù trong thi hành án hình sự
Pháp luật về QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAPT.
Pháp luật về QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS liên quan đến quy định của toàn bộ hệ thống pháp luật, tập trung ở các quy định của Hiến pháp, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật THAHS nhằm bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS, bao gồm các nội dung cơ bản là: quy định về QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định về tội phạm, hình phạt với việc bảo đảm QCN, nguyên tắc bảo đảm QCN trong tố tụng hình sự nói chung, THAPT nói riêng, quyền của người chấp hành án phạt tù, nghĩa vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và người có thẩm quyền tham gia THAPT.
Như vậy, pháp luật về QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS phải có các thuộc tính là toàn diện, đồng bộ, khả thi và minh bạch. Ngoài ra, lĩnh vực pháp luật này cũng phải được thường xuyên hệ thống hóa, pháp điển hóa nhằm sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn, loại bỏ những văn bản pháp luật đã lạc hậu. Từ đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần kịp thời ban hành các văn bản pháp luật mới, điều chỉnh những vấn đề bức xúc liên quan đến QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS.
Có thể nói, pháp luật về QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS là yếu tố đầu tiên rất quan trọng để QCN của người chấp hành án phạt tù được thực hiện, bởi vì không có pháp luật thì QCN không thể được bảo đảm.
3.3. Tăng cường các yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về quyền con người của người chấp hành án phạt tù trong thi hành án hình sự
– Kiện toàn tổ chức, hoạt động của các cơ quan tham gia THAPT và tăng cường cơ chế phối hợp trong THAPT
Trong hệ thống tổ chức THAPT ở Việt Nam, hoạt động của các cơ quan tham gia THAPT có liên quan trực tiếp tới các quyền của người chấp hành án phạt tù. Chính vì vậy, để QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS được thực hiện thì cần phải đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan này.
Bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS là một quá trình chặt chẽ bao gồm nhiều hành vi, phương thức khác nhau. Để thực hiện tốt hoạt động này, cần xác định rõ địa vị pháp lý, tổ chức nguyên tắc hoạt động của các cơ quan tham gia THAPT. Quá trình này cũng không thể diễn ra đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao nếu các chủ thể tham gia không phối hợp với nhau. Chính vì vậy, bảo đảm cơ chế phối hợp trong thực hiện pháp luật là một yêu cầu quan trọng, thông qua đó QCN của người chấp hành án phạt tù được bảo đảm.
Để bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù, cơ chế phối hợp giữa các chủ thể này cần được tiến hành thông qua việc xác định về mặt pháp lý các mối quan hệ. Trong đó, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, cơ chế cách thức phối hợp với nhau, nội dung phối hợp cần tập trung vào các vấn đề cấp thiết có liên quan tới QCN của người chấp hành án phạt tù. Đây chính là cơ sở để xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể tham gia bảo đảm QCN của người chấp hànhán phạt tù trong THAHS, hạn chế sự xâm hại tới QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS.
Nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác THAPT.
Đội ngũ cán bộ làm công tác THAPT có trách nhiệm bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù. Đối tượng quản lý của đội ngũ cán bộ này chủ yếu là những PN có nhân thân xấu, lĩnh vực THAPT lại rất phức tạp, các vi phạm QCN rất dễ xảy ra. Vì thế, phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ tham gia THAPT chính là một bảo đảm để QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS được thực hiện.
Để bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS, đội ngũ cán bộ này phải thường xuyên được giáo dục về chính trị, tư tưởng, nâng cao phẩm chất đạo đức, có ý thức trách nhiệm cao, tôn trọng bảo vệ QCN của người chấp hành án phạt tù. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ này phải đủ về số lượng, có trình độ phù hợp với nhiệm vụ được giao. Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ nhà nước, cán bộ tham gia THAPT nhất là những người công tác tại các cơ sở giam giữ cần có những kỹ năng, hiểu biết về tâm lý và phương pháp giáo dục cải tạo PN.
-Tăng cường hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra việc bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS
Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra việc bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS cần phải được thực hiên thường xuyên, liên tục nhằm hiện thực hóa QCN của người chấp hành án phạt tù. Hoạt động này cũng nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền trong THAPT.
Để thực hiện tốt điều này, cần xác định rõ các vấn đề cơ bản về chủ thể, nội dung, phương thức thực hiện, làm cho hoạt động này có hiệu lực trong thực tiễn cuộc sống. Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra trên cũng chỉ có hiệu quả trên thực tế khi xác định rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan. Việc xác định cần thực hiện theo hướng phân định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan với cá nhân của từng cơ quan đó, giữa lãnh đạo với cán bộ thực hiện nhiệm vụ, làm rõ trách nhiệm của chủ thể có quyền yêu cầu giám sát, thanh tra, kiểm tra với các chủ thể phải chịu sự giám sát, thanh tra, kiểm tra.
– Xử lý nghiêm hành vi vi phạm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS
Hành vi vi phạm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS bao gồm nhiều loại khác nhau. Có loại từ phía các cơ quan tham gia THAPT, do cán bộ, chiến sĩ ở các cơ quan đó thực hiện. Những hành vi vi phạm loại này nảy sinh do những yếu kém của các cơ quan tham gia THAPT, nó đặc biệt phát triển khi tổ chức hoạt động của các cơ quan đó còn bất cập, trách nhiệm pháp lý của các cơ quan cũng như của cán bộ, chiến sĩ có thẩm quyền không được quy định rõ ràng.
Vi phạm trong quá trình bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS cũng có thể nảy sinh trong nội bộ PN, có cơ sở khách quan từ những mâu thuẫn lợi ích. Loại hành vi vi phạm này cũng rất dễ xảy ra trong môi trường của cơ sở giam giữ. Đặc biệt là khi hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra việc bảo đảm QCN ở môi trường này không được đảm bảo.
Những vi phạm có thể do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau. Thế nhưng, đã có vi phạm thì phải xử lý nghiêm minh theo nguyên tắc công bằng, đúng pháp luật. Ý nghĩa của việc xử lý vi phạm trong quá trình bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS thể hiện ở chỗ, việc xử lý vi phạm bảo vệ được QCN của người chấp hành án phạt tù, giáo dục người vi phạm và những người khác biết tôn trọng QCN của người chấp hành án phạt tù.
-Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong THAPT nhằm bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù
Bảo đảm QCN của người chấp hành án phạt tù trong THAHS đòi hỏi cơ sở vật chất kỹ thuật rất lớn, đó là trụ sở làm việc, công cụ phương tiện làm việc, trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ, tiền lương, tiền thù lao cho những người tham gia THAPT. Bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật trong THAPT có nghĩa là làm cho hoạt động THAPT có đầy đủ điều kiện vật chất cần thiết, phù hợp để vận hành có hiệu quả. Để đáp ứng yêu cầu này, cơ sở vật chất kỹ thuật trong THAPT phải luôn được đầu tư nâng cấp cả về số lượng, chất lượng. Trong đó, cần đặc biệt chú ý tới tính hiện đại của các phương tiện khoa học kỹ thuật. Bởi vì, ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động này là một xu thế tất yếu hiện nay, khi việc quản lý PN trở nên rất phức tạp, đặc biệt ở các trại giam bị quá tải về số lượng PN, các vi phạm QCN còn bị che giấu dưới nhiều phương thức thủ đoạn tinh vi./.
Xem thêm bài viết về “Cải cách tư pháp”
- Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo yêu cầu cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp 2013 – GS.TSKH. Đào Trí Úc
- Quy định về Viện kiểm sát trong Hiến pháp 2013 – Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
CHÚ THÍCH
* ThS, NCS Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
[1] Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, 2005, tr. 1.
[2] Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Giáo trình Lý luận và pháp luật về QCN, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 38.
[3] Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
[4] Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, tlđd, 2009, tr. 38.
[5] Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, tlđd, 2009, tr. 82.
[6] Điều 19 Hiến pháp năm 2013
[7] Điều 20 Hiến pháp năm 2013.
[8] Khoản 3 Điều 4 Luật THAHS năm 2010.
[9] Điều 24 Hiến pháp năm 2013 .
[10] Lê Lan Chi, “Thi hành án phạt tù trong văn kiện quốc tế và ở một số quốc gia – Kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Tạp chí Nội Chính, (26), 2015, tr. 48 – 55.
[11] Điều 35 Hiến pháp năm 2013.
[12] Điều 39 Hiến pháp năm 2013.
[13] Điều 38 Hiến pháp năm 2013.
[14] Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, tlđd, 2009, tr. 75.
- Tác giả: TS. Lê Hữu Trí
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 01(104)/2017 – 2017, Trang 26-33
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời