Những điểm mới cơ bản của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và một số kiến nghị: Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu một số điểm mới cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 so với Hiến pháp 1992 hiện hành, đặc biệt là những sửa đổi, bổ sung liên quan đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và một số kiến nghị…
- Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam năm 2013 – TS. Nguyễn Mạnh Hùng & PGS.TS. Trương Đắc Linh
- Những điểm mới về “Chế độ chính trị” trong Hiến pháp 2013 – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Những điểm mới của chương “Chính phủ” trong Hiến pháp 2013 – TS. Nguyễn Mạnh Hùng
- Điểm mới của Hiến pháp 2013 về “quyền con người” và “quyền công dân” – TS. Phan Nhật Thanh
- Quy định mới liên quan “Điều ước quốc tế” trong Hiến pháp 2013 – TS. Ngô Hữu Phước
- Hội đồng bầu cử Thái Lan và góp ý quy định về hội đồng bầu cử quốc gia trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam – TS. Phan Nhật Thanh
TỪ KHÓA: Điểm mới của Luật, Góp ý sửa đổi Luật, Hiến pháp 1992,
Ngày 02/3/2013, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã công bố bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 để lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức và các tầng lớp nhân dân trong cả nước. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gồm 11 chương, 124 điều. So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp giảm 1 chương, 23 điều; giữ nguyên 12 điều, quy định mới 11 điều, bỏ 4 điều; sửa đổi, bổ sung, ghép và sắp xếp lại 128 điều của Hiến pháp năm 1992.
Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu một số điểm mới cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 so với Hiến pháp 1992 hiện hành, đặc biệt là những sửa đổi, bổ sung liên quan đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và một số kiến nghị.
1. Nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” được quy định đầy đủ hơn, có sự đổi mới về nhận thức lý luận, tuy chưa thật đầy đủ và triệt để
“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” là nguyên tắc nền tảng được ghi nhận trong bốn bản Hiến pháp Việt Nam: Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Tuy nhiên, trừ Hiến pháp năm 1946, việc thể hiện nguyên tắc này trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và nhất là Hiến pháp năm 1992 hiện hành còn thiếu nhất quán và chưa phù hợp với điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Dưới ánh sáng của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có các quy định mới sau đây:
Thứ nhất, khắc phục hạn chế của Điều 6 của Hiến pháp 1992 hiện hành quy định phiến diện, không đầy đủ rằng: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND các cấp”, Điều 6 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định: nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hai hình thức là: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện[1].
Vì nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ thông qua các cơ quan đại diện là Quốc hội và HĐND mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (như: Chính phủ, Chủ tịch nước, các Bộ, UBND các cấp v.v.) và nhất là thông qua quyền quyết định trực tiếp của nhân dân bằng trưng cầu ý dân như Điều 30 của Dự thảo quy định.
Thứ hai, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên nhân dân phải kiểm soát được quyền lực nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta (sửa đổi bổ sung năm 2011) đã bổ sung “kiểm soát quyền lực nhà nước” là một nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm: kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên trong bộ máy nhà nước giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; kiểm soát trong nội bộ mỗi quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài, bao gồm: kiểm soát của nhân dân thông qua các tổ chức chính trị – xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng. Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước đã được thể hiện trong Hiến pháp không những thừa nhận thành một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (Điều 2) mà còn bổ sung quy định ở các điều khoản về sự lãnh đạo của Đảng (Điều 4), về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9), về Công đoàn (Điều 10) và các điều trong các chương về tổ chức bộ máy nhà nước. Đặc biệt, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này có một chương mới (Chương X) qui định về các thiết chế hiến định độc lập mang tính chất là cơ quan chuyên môn góp phần thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực nhà nước, như Hội đồng Hiến pháp (Điều 120), Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 121) và Kiểm toán nhà nước (Điều 122).
Thứ ba, trong nhà nước dân chủ, nhân dân là chủ thể tối cao của toàn bộ quyền lực nhà nước và nhân dân là chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Hiến pháp là hình thức pháp lý cao nhất thể hiện chủ quyền nhân dân, bằng việc thực hiện quyền lập hiến, nhân dân ủy thác quyền lập pháp cho Quốc hội, quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho Tòa án. Ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều “phái sinh” từ quyền lập hiến. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến” (Điều 83) và “Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” (Điều 147) là không thống nhất với nguyên tắc:“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mà Điều 2 của Hiến pháp đã khẳng định. Vì thế, Điều 74 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến…”, bỏ quy định: “duy nhất” và “chỉ có Quốc Hội…” khi quy định về quy trình lập hiến. Điều này được hiểu là: Quốc hội được Hiến pháp (tức là nhân dân) giao cho một số quyền của quyền lập hiến, như: quyết định sửa đổi Hiến pháp, thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp, thảo luận và biểu quyết thông qua Hiến pháp sửa đổi… (Điều 124)[2] v.v.
Tuy nhiên, quy định của Dự thảo mặc dù có một số đổi mới như trên so với Hiến pháp năm 1992, nhưng những đổi mới này còn chưa triệt để và nhất quán, cần phải được sửa đổi, bổ sung các điều sau:
– Điều 6 của Dự thảo quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp …” mới chỉ là tuyên bố mang tính lý thuyết, trong khi quy định của Hiến pháp cần cô đọng, súc tích, nhưng rõ ràng, cụ thể. Vì vậy, Điều 6 nên sửa là: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước một cách trực tiếp bằng biểu quyết toàn dân, hoặc thông qua những cơ quan đại diện do dân bầu và các cơ quan khác của Nhà nước” sẽ rõ hơn, đầy đủ hơn.
– Cần khẳng định quyền ban hành, sửa đổi Hiến pháp thuộc về nhân dân trong Lời nói đầu, Điều 30 và khoản 4 Điều 124 của Dự thảo. Vì Hiến pháp là bản khế ước của nhân dân, nên để chủ quyền của nhân dân là thực sự thì quyền ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp phải thuộc về nhân dân[3].
2. Quyền con người, quyền công dân thể hiện trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có bước phát triển mới về nhận thức và cách thức thể hiện
Có thể khẳng định ngay rằng: trong 11 chương của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, các quy định của Chương II Dự thảo “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” là chương thể hiện rõ nhất sự đổi mới, phát triển cả về nhận thức và cả về cách thức thể hiện.
Trước hết, Dự thảo đổi tên chương V của Hiến pháp 1992 “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và đưa chương này lên vị trí trang trọng của Hiến pháp (Chương II) ngay sau Chương I”Chế độ chính trị”. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức lý luận và giá trị thực tiễn khi không đồng nhất quyền con người với quyền công dân[4]; khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của các quy định về quyền con người, quyền công dân cùng với các quy định về chủ quyền nhân dân và tổ chức quyền lực nhà nước là hai nội dung cốt lõi của bất kỳ bản Hiến pháp dân chủ nào trên thế giới[5]. Chính vì thế hầu hết các điều của chương này trong Dự thảo thay vì quy định “công dân” như Hiến pháp năm 1992 đã quy định “mọi người”, “không ai” và trong tổng số 11 điều mới của Dự thảo so với Hiến pháp năm 1992 thì có tới 5 điều quy định về các quyền mới của con người, của công dân.
Thứ hai, Dự thảo quy định một số quyền mới của con người, quyền và nghĩa vụ mới của công dân, như: có quyền sống (Điều 21); Quyền được sống trong môi trường trong lành và nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 46); “Quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa” (Điều 44); “Quyền xác định dân tộc” (Điều 45), quyền không bị trục xuất, giao nộp cho Nhà nước khác (Điều 49) v.v. Điều này thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển các quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới hơn 1/4 thế kỷ ở Việt Nam. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các điều khác của Dự thảo phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân sự và Công ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà nước ta trước nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.
Thứ ba, trong Dự thảo, lần đầu tiên giới hạn của các quyền được quy định thành nguyên tắc hiến định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 15). Theo nguyên tắc này, từ nay không chủ thể nào, kể cả các cơ quan nhà nước được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp[6].
Thứ tư, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đưa các quyền được quy định ở các chương khác của Hiến pháp 1992 về chương này, đồng thời sắp xếp các điều quy định về các quyền, các nghĩa vụ theo trật tự hợp lý hơn so với Hiến pháp 1992: từ các nguyên tắc chung về quyền con người, quyền công dân đến các quyền về dân sự và chính trị; các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội và các nghĩa vụ của công dân.
Thứ năm, điểm mới rất quan trọng của Dự thảo là bỏ cách quy định của Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước bảo đảm …”, “Nhà nước tạo điều kiện …”, “Nhà nước bảo hộ …” thay vào đó Dự thảo quy định trực tiếp “mọi người có quyền …”, “công dân có quyền “ để khẳng định rõ đây là những quyền đương nhiên của con người, của công dân được Hiến pháp ghi nhận và Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền này, chứ không phải Nhà nước “ban phát”, “ban ơn” các quyền này cho con người, cho công dân.
Các quy định liên quan đến các quyền bất khả xâm phạm của con người, của công dân (như quyền được sống, quyền không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật v.v.) là các quy định có hiệu lực trực tiếp; chủ thể của các quyền này được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo vệ các quyền của mình khi bị xâm phạm. Các quyền, tự do cơ bản khác của con người, của công dân và quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa nhưng phải bằng luật do Quốc hội, – cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân ban hành, chứ không phải quy định chung chung “theo quy định pháp luật”[7] như rất nhiều điều của Hiến pháp năm 1992 hiện hành quy định v.v.
Tuy nhiên, các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Dự thảo cũng còn một số nội dung quy định, theo chúng tôi, cần phải được trao đổi để hoàn thiện thêm. Chúng tôi có một số ý kiến góp ý như sau:
– Dự thảo qui định nguyên tắc giới hạn quyền con người chưa chặt chẽ: mới chỉ qui định lý do giới hạn và lý do này còn rộng, chưa qui định thẩm quyền và hình thức văn bản giới hạn. Do vậy, chúng tôi kiến nghị khoản 2 Điều 15 Dự thảo nên qui định như sau: “2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn bằng luật trong trường hợp cần thiết vì lý do an ninh quốc gia và sức khỏe của cộng đồng. Việc liệt kê các quyền con người trong Hiến pháp này không có ý nghĩa hạn chế và hạ thấp các quyền con người khác”.
– Để thống nhất với qui định mang tính nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” (Khoản 2 Điều 20), đồng thời, tránh sự lạm quyền từ phía các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản dưới luật tùy tiện “cắt xén” các quyền hiến định của con người, của công dân[8], nên thay cụm từ “…theo quy định của pháp luật” bằng “… theo quy định của luật” trong các điều sau của Dự thảo: Điều 24, Điều 26, khoản 4 Điều 32, khoản 2 Điều 38.
– Điều 21 Dự thảo khẳng định: “Mọi người có quyền sống” là quyền mới đặc biệt quan trọng của con người, của công dân. Đây là quyền cơ bản khởi đầu và cũng sẽ là điểm dừng, chấm dứt khi quyền này không còn (với cái chết) của tất cả các nhóm quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khác. Nhưng nếu Hiến pháp quy định dứt khoát như thế này thì Bộ luật hình sự 1999 của nước ta phải bỏ ngay hình phạt tử hình. Đây là điều chưa thể thực hiện được ở nước ta hiện nay vì những lý do khách quan và chủ quan. Chính vì vậy, cả 3 lần vào các năm 2007, 2008 và 2010, Việt Nam đều bỏ phiếu trắng đối với dự thảo nghị quyết của Liên hợp quốc về xóa bỏ hình phạt tử hình. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị: Điều 21 Dự thảo cần quy định: “1. Quyền được sống là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. 2. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm tính mạng của mọi người. 3. Hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với một số rất ít tội phạm nguy hiểm theo luật định”.
– Điều 30 Dự thảo nên khẳng định: “Công dân có quyền quyết định về Hiến pháp và những vấn đề hệ trọng của quốc gia bằng trưng cầu ý dân. Trình tự, thủ tục trưng cầu ý dân do luật định”. Điều này thể hiện rõ nhất nguyên tắc chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp, kế thừa Điều 21, 32 và 70 của Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo và cũng là cơ sở hiến định phù hợp cho định hướng ban hành Luật Trưng cầu ý dân sau này[9].
– Không nên quy định “Quyền con người không tách rời nghĩa vụ công dân” (khoản 1 Điều 20). Quy định như vậy gây ra sự nhầm lẫn và không phù hợp về phương diện khoa học pháp lý. Quan niệm quyền không tách rời nghĩa vụ chỉ đúng trong tổng thể các quyền và nghĩa vụ, còn đối với từng quyền cụ thể thì quyền của một người là nghĩa vụ của Nhà nước và người khác phải tôn trọng.
- Bộ máy nhà nước trong Dự thảo Hiến pháp được tiếp tục đổi mới theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dânMột là, mặc dù Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã quy định quyền lực nhà nước được cấu thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2), nhưng lại chưa chỉ rõ cơ quan nào thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp. Khắc phục hạn chế này của Hiến pháp năm 1992, Dự thảo đã chỉ rõ: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp (Điều 74), Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 99) và Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (khoản 1 Điều 107). Việc Dự thảo khẳng định các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp như trên là một bước tiến quan trọng, có ý nghĩa về nhận thức lý luận và thực tiễn so với các quy định của Hiến pháp năm 1992 hiện hành. Đây chính là cơ sở hiến định để xác định thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta.
Hai là, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã có sự xác định đúng đắn, phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, của Chủ tịch nước và chính quyền địa phương, như:
+ Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất không có nghĩa là cơ quan có toàn quyền, vì thế Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã bỏ bớt một số quyền hạn, nhiệm vụ không phù hợp, như: không phải là “cơ quan duy nhất có quyền lập hiến” như Hiến pháp hiện hành quy định; phân định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế; những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc hành pháp chuyển về cho Chính phủ và quy định phù hợp, khả thi hơn việc Quốc hội chỉ quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước (không còn quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm, 5 năm để Chính phủ chủ động, năng động hơn trong điều hành, quản lý đất nước).
+ Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo các vị trí pháp lý đó, đặc biệt làm rõ các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc thực hiện quyền hành pháp (hoạch định, soạn thảo, thẩm định các chính sách quốc gia dưới dạng các dự án luật, các dự án trọng điểm quốc gia). Mặt khác, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng đã phân định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ với tư cách là một tập thể với Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ và với Bộ trưởng là người đứng đầu một Bộ, thành viên của Chính phủ.
+ Tòa án nhân dân được Dự thảo Hiến pháp xác định là cơ quan thực hiện quyền tư pháp với nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đồng thời bổ sung các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án theo đòi hỏi của cải cách tư pháp, như: nguyên tắc tranh tụng trước phiên tòa và chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được đảm bảo; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm (Điều 108). Tổ chức Tòa án cũng được quy định theo hướng không xác định các cấp Tòa án cụ thể để mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án.
+ Về Chủ tịch nước: Dự thảo sửa đổi tiếp tục giữ các quy định của Hiến pháp hiện hành về vị trí, vai trò của Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại. Đồng thời Dự thảo cũng sắp xếp, bổ sung để làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Ví dụ như: Trong mối quan hệ với Quốc hội, làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế hoặc quyết định phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế theo thẩm quyền do Quốc hội quy định (khoản 6 Điều 93). Trong mối quan hệ với Tòa án, làm rõ hơn thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án tối cao căn cứ vào Nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội, bổ sung thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thẩm phán của các Tòa án khác cho phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp. Là thống lĩnh các lực lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, Chủ tịch nước có quyền phong hàm cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân, bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam … (khoản 5 Điều 93).
+ Về chính quyền địa phương: Điểm mới cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là đổi tên chương “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” thành “Chính quyền địa phương” để thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa hai thiết chế Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Dự thảo quy định phân chia các đơn vị hành chính – lãnh thổ, còn tổ chức các cơ quan chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính – lãnh thổ sẽ do luật định “phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính lãnh thổ và phân cấp quản lý” nhằm mở đường cho việc tổ chức chính quyền ở đô thị và nông thôn là khác nhau (Điều 115).
Ba là, kiểm soát quyền lực nhà nước và phát huy dân chủ được tăng cường hơn trong tổ chức bộ máy nhà nước. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thiết kế ba thiết chế hiến định độc lập: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Đây là những thiết chế mới, xuất phát từ yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước và các hình thức dân chủ. Hội đồng Hiến pháp có nhiệm vụ giúp Quốc hội kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội và các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành. Kiểm toán nhà nước giúp Quốc hội kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn tài sản quốc gia. Hội đồng bầu cử Quốc gia có nhiệm vụ tổ chức các cuộc bầu cử, góp phần đảm bảo cho các cuộc bầu cử thật sự dân chủ, khách quan.
Liên quan đến chương về tổ chức bộ máy nhà nước trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tác giả có một số ý kiến sau đây:
– Cần thu hẹp thẩm quyền của Ủy ban thường Quốc hội để hướng tới tăng số đại biểu Quốc hội chuyên trách, Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, không phải chỉ mỗi năm 2 kỳ thường lệ như hiện nay, để tránh ngộ nhận “Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan lãnh đạo Quốc hội”. Cần bỏ quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội “Hướng dẫn và giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”, “Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” của khoản 6 và 7 Điều 79 Dự thảo.
– Điều 99 Dự thảo cần khẳng định dứt khoát “Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp”, không cần thiết quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Mặt khác, không cần qui định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, vì Chính phủ trong nhà nước pháp quyền trước hết và chủ yếu là một thiết chế đề xuất, khởi xướng, hoạch định soạn thảo, tổ chức xây dựng và đưa trình các chính sách quốc gia, chứ không phải là cơ quan giải quyết các vấn đề hành chính sự vụ.
– Nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ quy định ở Điều 101 Dự thảo theo cách thức liệt kê vừa không đủ bao quát, vừa thừa lại vừa thiếu. Ở các nước, Hiến pháp chỉ quy định nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội và tư pháp thật đầy đủ chi tiết còn lại là của hành pháp (Chính phủ). Có như vậy mới tạo điều kiện cho Chính phủ năng động sáng tạo trong việc thực hiện quyền hành pháp, không dựa dẫm, ỷ lại hoặc “bó tay” Chính phủ. Do tính chất của quyền hành pháp, không nên quy định nhiệm vụ quyền hạn theo cách thức liệt kê.
– Kiểm soát quyền lực nhà nước được bổ sung vào Dự thảo với tư cách là một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước (Điều 2), nhưng ngoài việc thiết kế thêm ba thiết chế độc lập như nói trên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cả bên trong (giữa ba quyền) và bên ngoài (kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân, của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và của các phương tiện thông tin đại chúng) chưa định hình rõ nét.
– Việc bổ sung thêm thiết chế độc lập Hội đồng hiến pháp là điều rất mới ở nước ta, nhưng theo chúng tôi, nên trao cho thiết chế này thẩm quyền “phán quyết các vi phạm Hiến pháp trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp” như Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định[10], chứ không phải chỉ có nhiệm vụ yêu cầu và kiến nghị giống như các Ủy ban của Quốc hội theo Hiến pháp 1992 hiện hành.
4. Các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường được thể hiện một cách khái quát, mang tính định hướng cho sự phát triển
– Dự thảo đã gộp các Chương II và III của Hiến pháp năm 1992 thành một chương: Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường” từ 29 điều của Hiến pháp 1992 chỉ còn lại 16 điều, để quy định những vấn đề có tính nguyên tắc, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường.
– Về chế độ kinh tế, Dự thảo đã làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế (Điều 53, Điều 54), vai trò quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (Điều 55), chế độ sở hữu, quyền tự do kinh doanh (Điều 56) và bổ sung một điều mới (Điều 59) về quản lý sử dụng ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác.
– Về các thành phần kinh tế, Dự thảo không liệt kê các thành phần kinh tế mà thể hiện một cách khái quát, cô đọng về kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với tính chất của đạo luật cơ bản, còn tên gọi và vai trò của từng thành phần kinh tế sẽ quy định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước. Tuy nhiên, qua thảo luận cũng có ý kiến đề nghị nên viết cụ thể tên và vai trò của các thành phần kinh tế để làm rõ tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
– Về văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, Dự thảo đã kế thừa những nội dung cơ bản về từng lĩnh vực trong Hiến pháp năm 1992 nhưng viết một cách khái quát, mang tính nguyên tắc còn những chính sách cụ thể do luật quy định.
– Về đất đai, Dự thảo tiếp tực khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật[11].
5. Quy định về quy trình ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp
Điều 147 Hiến pháp 1992 quy định: “Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ý kiến nhất trí hai phần ba số đại biểu biểu quyết tán thành”.
Điều 124 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 quy định về quy trình lập hiến tương đối cụ thể:
– Chủ thể có quyền kiến nghị về ban hành mới, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.
– Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp.
– Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp.
– Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trương cầu ý kiến về Hiến pháp do Quốc hội quyết định.
Theo chúng tôi, cần sửa khoản 4 Điều 124 Dự thảo, như sau: “Dự thảo Hiến pháp được nhân dân quyết định bằng trưng cầu ý dân” để khẳng định quyền lập hiến thuộc về nhân dân.
CHÚ THÍCH
* GS-TS, Hiệu trưởng Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh, Thành viên Ban Biên tập sửa đổi Hiến pháp 1992.
[1] Điều 6 Dự thảo (sửa đổi, bổ sung Điều 6 Hiến pháp năm 1992): “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
[2] Xem: GS-TS Trần Ngọc Đường, Một số nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Kỷ yếu Hội thảo “Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” do Trường ĐH Luật Tp. HCM và Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tổ chức ngày 01/3/2013.
[3] Xem: PGS-TS Nguyễn Cửu Việt, Về nguyên tắc chủ quyền nhân dân của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Kỷ yếu Hội thảo: “Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” do Trường ĐH Luật Tp. HCM và Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tổ chức ngày 01/3/2013.
[4] Hiến pháp năm 1992 có 24/34 điều quy định “công dân có quyền…”, “công dân có nghĩa vụ …” kể cả các quyền, các nghĩa vụ không chỉ dành cho công dân Việt Nam mà còn cho mọi cá nhân có liên quan sinh sống, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, như quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 71), về chỗ ở (Điều 73), nghĩa vụ đóng thuế (Điều 80) v.v.
[5] Bản Hiến pháp năm 1787 của nước Mỹ (Hiến pháp thành văn đầu tiên trên thế giới) được 55 đại biểu của 13 bang của nước Mỹ lúc bấy giờ tham gia soạn thảo, nhưng chỉ có 39 đại biểu ký vào bản Hiến pháp này, còn các đại biểu khác từ chối ký mà một trong những lý do là Hiến pháp chỉ có 7 điều quy định về tổ chức quyền lực nhà nước, không có quy định nào về quyền và tự do của con người, của công dân. Vì vậy, 2 năm sau, năm 1789, 10 bổ sung đầu tiên của Hiến pháp này là về các quyền và tự do của con người, của công dân.
[6] Xem: GS-TS Trần Ngọc Đường, Một số nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tài liệu đã dẫn.
[7] Ở nước ta, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, UBND xã, phường cũng có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
[8] Ví dụ, Thông tư số 02/2003/TT-BCA ngày 13/1/2003 của Bộ Công an quy định mỗi người ở Hà Nội, Tp. HCM chỉ được đăng ký 1 môtô hoặc xe máy, trong khi Điều 58 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, … tư liệu sinh hoạt (tác giả nhấn mạnh), tư liệu sản xuất …”. Phải 2 năm sau, Bộ Công an mới ban hành Thông tư số 17/2005/TT-BCA ngày 21/11/2005 bãi bỏ quy định trái Hiến pháp này (Xem: Trương Đắc Linh, “Bàn về tài phán Hiến pháp và thẩm quyền của cơ quan tài phán Hiến pháp ở Việt Nam”. Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3 năm 2007, tr. 3-11).
[9] Điều 6 Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân được Quốc hội giao cho Hội Luật gia Việt Nam soạn thảo năm 2006 đã quy định một trong những vấn đề đầu tiên thuộc trưng cầu ý dân là: quyết định về Hiến pháp.
[10] Xem: Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.126-127.
[11] Xem: GS-TS Trần Ngọc Đường, tài liệu đã dẫn
Tác giả: GS.TS.Mai Hồng Quỳ – Hiệu trưởng trường ĐH Luật TP. HCM
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 01/2013 (74)2013 – 2013, Trang 03-09
Like Fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/