Mục lục
Pháp luật thuế nội địa Việt Nam trong bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN
Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Thu Hiền
TÓM TẮT
Bài viết nghiên cứu, phân tích những vấn đề mà ASEAN Economic Community (AEC) đặt ra cho pháp luật thuế nội địa Việt Nam; những giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế nội địa nhằm đạt được các mục tiêu: i) bảo đảm sự hài hòa về pháp luật thuế nội địa giữa Việt Nam và các quốc gia ASEAN, (ii) bảo đảm thuế nội địa là công cụ hiệu quả trong điều tiết vĩ mô kinh tế-xã hội, tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước phát triển, từ đó phát huy tối đa những thuận lợi mà AEC mang lại, iii) bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước trong điều kiện thuế nhập khẩu ngày càng giảm do Việt Nam thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA).
Xem thêm:
- Cộng đồng kinh tế ASEAN: Những thách thức về thể chế cho sự vận hành – TS. Trần Thăng Long
- Xác định thị trường liên quan trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) – TS. Hà Thị Thanh Bình
- Chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo quy định của ASEAN – TS. Lê Minh Tiến
- Hài hòa hóa pháp luật trong ASEAN từ góc độ Việt Nam – TS. Nguyễn Thanh Tú
- Hiện tượng chệch hướng thương mại từ quy tắc xuất xứ ưu đãi chặt chẽ: Tương lai của hàng dệt may ASEAN và Việt Nam trong bối cảnh hội nhập – TS. Trần Thị Thuận Giang & ThS. Ngô Nguyễn Thảo Vy
TỪ KHÓA: AEC, ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN,
Ngày 31/12/2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC – ASEAN Economic Community) chính thức được thành lập với mục tiêu hợp nhất các quốc gia trong khu vực thành một thị trường, một cơ sở sản xuất duy nhất, có khả năng hội nhập và cạnh tranh với các khu vực còn lại của thế giới, trên cơ sở di chuyển tự do của các dòng hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, công nhân lành nghề và vốn. Như bất kỳ cộng đồng kinh tế nào khác, để gặt hái đầy đủ các lợi ích của sự hợp nhất, AEC cần hài hòa các thể chế kinh tế – thương mại ảnh hưởng đến toàn bộ cộng đồng, trong đó hài hòa về chính sách thuế là khâu quan trọng.
Hài hòa về thuế là một yêu cầu quan trọng của bất kỳ sự hội nhập kinh tế nào, dưới hình thức liên minh thuế quan hay một cộng đồng kinh tế để trở nên cạnh tranh hơn. Nội dung chính của việc hài hòa thuế bao gồm việc loại bỏ những khác biệt hoặc không tương thích giữa hệ thống thuế của các thành viên, hoặc làm những khác biệt không tương thích trở nên có thể so sánh được.[1] Theo đó, hài hòa hệ thống thuế nội địa của các quốc gia ASEAN sẽ giúp xóa bỏ hoặc giảm chi phí phát sinh từ những khác biệt giữa các hệ thống thuế nội địa của các quốc gia ASEAN, nhất là những khác biệt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự di chuyển tự do của đầu tư, của các dòng vốn và ảnh hưởng gián tiếp đến sự vận động của hàng hóa, dịch vụ và lao động lành nghề.
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi sẽ làm rõ những vấn đề đặt ra đối với pháp luật thuế nội địa Việt Nam trong bối cảnh AEC, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nội địa nhằm bảo đảm tính tương thích của hệ thống pháp luật thuế nội địa với các quốc gia trong AEC, đồng thời bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước và thúc đẩy kinh tế nội địa phát triển.
1. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật thuế nội địa Việt Nam trong bối cảnh tham gia AEC
AEC là một khu vực gắn kết 10 quốc gia Đông Nam Á với bốn mục tiêu: (i) một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông qua tự do lưu chuyển hàng hóa, tự do lưu chuyển dịch vụ, tự do lưu chuyển đầu tư, tự do lưu chuyển vốn và tự do lưu chuyển lao động có tay nghề; (ii) một khu vực kinh tế cạnh tranh được xây dựng thông qua các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử; (iii) phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN; (iv) hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu.[2]
Để hiện thực hóa các mục tiêu nêu trên, các quốc gia thành viên của AEC cam kết thực hiện bốn khuôn khổ hội nhập, bao gồm: (i) cam kết về thuận lợi hóa thương mại dựa trên Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ASEAN Trade In Goods Agreement – ATIGA); (ii) cam kết về thương mại dịch vụ dựa trên Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (ASEAN Framework Agreement on Services – AFAS), và Thỏa ước thừa nhận lẫn nhau trong ngành dịch vụ (Mutual Recognization Agreement – MRA); (iii) cam kết về đầu tư dựa trên Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ASEAN Comprehensive Investment Agreement – ACIA); (iv) cam kết hội nhập tài chính ASEAN (ASEAN Financial Intergration). Trong các cam kết này, ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết đã được thống nhất trong CEPT/ AFTA của các nước ASEAN trước đó cùng với các hiệp định, nghị định có liên quan. Trước đó, vào năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh các nước ASEAN đã quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area – AFTA). Cơ chế để thực hiện AFTA là Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariffs – CEPT), với ba vấn đề chủ yếu là cắt giảm thuế quan, loại bỏ hàng rào thuế quan và hài hóa các thủ tục hải quan.[3]
Xét về nội dung, các hiệp định trong khuôn khổ AEC dù không trực tiếp song đều gián tiếp tác động đến pháp luật thuế nội địa của các quốc gia thành viên. Về tổng quan, hệ thống pháp luật thuế nội địa bao gồm pháp luật thuế thu vào hàng hóa, dịch vụ (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường); pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp, pháp luật thuế thu nhập cá nhân và pháp luật thuế thu vào đất đai và tài nguyên. Theo đó, việc thực hiện mục tiêu quan trọng nhất của AEC là thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông qua tự do lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ, tự do đầu tư, tự do lưu chuyển vốn và lao động có tay nghề sẽ chịu sự tác động mạnh mẽ từ hệ thống thuế nội địa của từng quốc gia thành viên bởi: (i) thuế nội địa có thể ảnh hưởng đến chi phí sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ và do đó thay đổi khả năng cạnh tranh khu vực ở một số lĩnh vực, thúc đẩy thay đổi cơ cấu; (ii) dịch vụ và mua sắm xuyên biên giới có thể ảnh hưởng đến nhu cầu của người nước ngoài đối với hàng hóa và dịch vụ trong nước, do đó ảnh hưởng đáng kể đến các loại thuế thu vào hàng hóa, dịch vụ; (iii) thuế thu nhập cá nhân có thể ảnh hưởng đến người lao động, đặc biệt là những người đang được trả lương cao, tùy thuộc vào quốc gia mà họ làm việc; (iv) thuế thu nhập doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa điểm để đặt nhà máy, doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các công ty đa quốc gia… Chính vì vậy, để đạt được các mục tiêu mà AEC đặt ra thì các quốc gia ASEAN, đặc biệt là Lào, Campuchia, Myanma và Việt Nam phải cải cách và hoàn thiện hệ thống thuế nội địa theo hướng phù hợp với thông lệ khu vực và quốc tế để phát huy lợi thế cạnh tranh, đồng thời giảm thiểu những khác biệt có thể dẫn tới bất lợi so với các nước khác trong khu vực.
Trên thực tế, các quốc gia thuộc AEC vẫn chưa có được sự hài hòa về chính sách, pháp luật thuế nội địa. Vì thế, các nhà đầu tư ngoại khối sẽ phải đối diện với 10 chính sách thuế khác nhau khi đầu tư vào Đông Nam Á.[4] Điều này có thể dẫn đến cạnh tranh thuế giữa các quốc gia vì cạnh tranh thuế sẽ xuất hiện khi người nộp thuế có thể giảm bớt gánh nặng về thuế bằng cách chuyển vốn hoặc lao động từ quốc gia đánh thuế cao sang quốc gia có thuế thấp. Sự dịch chuyển này có thể làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia đánh thuế cao cũng như tạo ra “phần thưởng” cho quốc gia đánh thuế thấp hơn. Ở một phương diện nhất định, cạnh tranh thuế có những tác động tích cực đến nền kinh tế, nhưng mặt trái của cạnh tranh thuế là có thể dẫn đến “cuộc đua tới đáy” về cắt giảm thuế giữa các quốc gia, gây ra thiếu hụt nguồn thu về thuế cho ngân sách nhà nước và làm tổn hại tới nền kinh tế.[5] Trong bối cảnh đó, nhiều vấn đề đã được đặt ra cho hệ thống thuế nội địa Việt Nam, một hệ thống thuế được đánh giá là còn nhiều hạn chế, bất lợi so với các thành viên khác của AEC và được dự báo là sẽ gặp nhiều khó khăn, thử thách nếu không có những giải pháp cải cách thuế phù hợp, kịp thời và hiệu quả.[6]
Một cách cụ thể, những vấn đề mà AEC đặt ra đối với pháp luật thuế nội địa thể hiện ở các khía cạnh tiêu biểu sau đây:
Thứ nhất, nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu ngày càng giảm sút dưới tác động của việc thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AEC đòi hỏi phải gia tăng nguồn thu từ thuế nội địa nhằm bù đắp thiếu hụt, ngăn ngừa gia tăng nợ công và lạm phát.[7]
Nội dung quan trọng nhất của tất cả các cam kết về hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là cắt giảm, hủy bỏ hàng rào thuế quan. Theo đó, việc thực hiện các cam kết về cắt giảm, hủy bỏ thuế quan (thuế suất thuế nhập khẩu giảm, hoặc áp dụng thuế nhập khẩu 0%) khi Việt Nam hội nhập và tham gia vào AEC sẽ kéo theo tình trạng làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước. Trên thực tế, nguồn thu từ thuế nhập khẩu hiện đang giảm dần qua từng năm, năm 2010 là 23,3% tổng thu thuế, 2011 là 21,6%, 2012 là 17,2%…[8] Trước thực trạng này, để bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước, bù đắp phần thu thuế nhập khẩu đang ngày càng giảm do hội nhập, đòi hòi hệ thống thuế nội địa cần phải được điều chỉnh theo hướng tăng dần nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của Nhà nước.
Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội to lớn của AEC trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua công cụ thuế nội địa
Một trong những thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp trong nước khi AEC hình thành là có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang các nước trong khu vực do thuế quan được bãi bỏ, từ đó phát triển sản xuất nội địa. Tuy nhiên, do cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và các nước trong khu vực là tương đồng nhau; do hàng hóa nội địa chưa có khả năng cạnh tranh với hàng hóa tương tự của các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore về giá cả, chất lượng; do các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa quan tâm, am hiểu và thực hiện đúng quy tắc xuất xứ hàng hóa để được hưởng ưu đãi về thuế quan từ các nước trong AEC nên hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang các nước trong khu vực đang có xu hướng giảm. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN năm 2015 là 18,24 tỷ USD, giảm 4,6% so với 2014; 8 tháng đầu năm 2016 là 11,14 tỷ USD, giảm 9,9% so với cùng kỳ năm 2015.[9] Trước thực trạng này, để phát huy lợi thế của việc hội nhập sâu vào AEC, các chính sách thuế nội địa cần được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc hình thành cơ cấu hàng hóa xuất khẩu phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam, đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, giảm giá thành hàng hóa, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam so với các nước trong khu vực.
Thứ ba, pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là pháp luật về kiểm soát chuyển giá còn nhiều hạn chế nên chưa phát huy được hiệu quả thực tế của thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời tình trạng chuyển giá diễn biến ngày càng phức tạp, gây thất thu thuế và mất công bằng trong việc điều tiết thuế thu nhập doanh nghiệp giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài[10]
Với việc thực hiện các FTA[11] và đặc biệt là các cam kết trong AEC, Việt Nam đã và sẽ có cơ hội thu hút các luồng vốn đầu tư nước ngoài từ các nước trong khu vực và ngoại khối để góp phần tăng trưởng kinh tế nội địa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, thực trạng “xói mòn” cơ sở thu thuế và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (BEPS – Base erosion and profit shifting), có xu hướng ngày càng tăng, diễn biến ngày càng phức tạp. Theo các chuyên gia của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), BEPS thường do các công ty đa quốc gia thực hiện thông qua phương thức tránh thuế bằng việc khai thác các “lỗ hổng” pháp luật về thuế để làm giảm lợi nhuận chịu thuế hoặc chuyển lợi nhuận sang các quốc gia, lãnh thổ khác có ít hoặc không có hoạt động kinh tế, nhưng lại là nơi có thuế thấp hoặc được miễn thuế nhằm giảm thiểu thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của một tập đoàn.
Những nguyên nhân quan trọng dẫn đến BEPS là:
(i) Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự tương thích với pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp của nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Ví dụ: trong AEC, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam là 20%, tức ở mức trung bình, nhưng còn khá cao so với các nước khác như Singapore có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 17%.[12]
(ii) Pháp luật về chống chuyển giá của Việt Nam còn nhiều bất cập. Cơ sở pháp lý về chống chuyển giá hiện nay gồm có: khoản 6, 7 Điều 1 Luật Quản lý thuế năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012): “cơ quan thuế áp dụng cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) với người nộp thuế, với cơ quan thuế các nước, vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký kết Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế thu nhập”. Trên cơ sở quy định này của Luật Quản lý thuế năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) và Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết và Thông tư 201/2013/TT-BTC hướng dẫn việc áp dụng thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế. Mới đây nhất, ngày 24/02/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Đây là bước tiến trong việc xây dựng khung pháp lý cho việc đấu tranh với hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù vậy, có thể thấy là cơ sở pháp lý cho công tác chống chuyển giá của Việt Nam chưa cao, do chưa có luật chống chuyển giá riêng nên các quy định pháp lý liên quan đến kiểm soát định giá chuyển giao còn chưa mang tính hệ thống, làm hạn chế khả năng chống chuyển giá của cơ quan thuế.
Thứ tư, các quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp còn phức tạp, gây khó khăn trong quản lý, chưa thật sự là công cụ để thu hút đầu tư trong và ngoài nước
Việc nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của pháp luật liên quan đến thu hút đầu tư nước ngoài như pháp luật thuế, pháp luật kế toán, pháp luật đầu tư, pháp luật quản lý ngoại hối, các thỏa thuận song phương, đa phương về tránh đánh thuế trùng và ngăn ngừa trốn thuế chỉ ra rằng các công ty đa quốc gia hầu như không được hưởng lợi thực sự từ các chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp khi họ thực hiện một dự án đầu tư mới vào quốc gia có quy định ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Lý do là vì pháp luật thuế thu vào thu nhập của hầu hết các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc đánh thuế theo đối tượng cư trú và đánh thuế theo nguồn phát sinh thu nhập, kết hợp với nguyên tắc quản lý quốc tịch. Để giảm thiểu nghĩa vụ thuế, tối đa hóa lợi nhuận, các chuyên gia thuế của các tập đoàn đa quốc gia thường có nhiệm vụ hoạch định phương án thành lập doanh nghiệp tại quốc gia, lãnh thổ nào và đầu tư vào đâu để số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp là thấp nhất. Điều này có thể dẫn đến một hiện tượng là ưu đãi thuế của quốc gia này nhưng lại mang lại số thu thuế nhiều hơn cho quốc gia khác. Vì vậy, các nước phát triển như Mỹ, Tây Âu hầu như không áp dụng cơ chế ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp vì nó làm “méo mó” chính sách thuế, và khi quản lý không chặt chẽ thì sẽ dễ dàng bị lợi dụng để tránh thuế và trốn thuế.[13]
2. Một số kiến nghị
Xuất phát từ những vấn đề mà AEC đặt ra đối với pháp luật thuế nội địa Việt Nam, việc nhanh chóng cải cách, hoàn thiện pháp luật thuế nội địa theo hướng phù hợp thông lệ quốc tế và khu vực là một yêu cầu cấp bách nhằm tận dụng những thuận lợi, cơ hội mà AEC mang lại để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định, bền vững, đồng thời chủ động phòng ngừa các rủi ro phát sinh trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Về nguyên tắc, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nội địa trong bối cảnh AEC phải bảo đảm các mục tiêu chủ yếu sau:
i. Bảo đảm tính tương thích, phù hợp của hệ thống pháp luật thuế nội địa với pháp luật thuế của các nước thành viên AEC, phù hợp với thông lệ quốc tế góp phần chủ động tham gia hội nhập, thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế và đầu tư nước ngoài, bảo vệ lợi ích quốc gia.
ii. Xây dựng mức động viên hợp lý đối với từng loại thuế; mở rộng cơ sở thuế để phát triển và bao quát hết nguồn thu; cơ cấu lại nguồn thu theo hướng tăng thu thuế nội địa nhằm bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội trong giai đoạn khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ; đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
iii. Đơn giản hóa, minh bạch hóa hệ thống thuế; hiện đại hóa công tác quản lý thuế để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế.
Để hiện thực hóa các mục tiêu trên cần phải có một kế hoạch cải cách, hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật thuế nội địa, bao gồm cả luật nội dung và luật hình thức. Ở khía cạnh luật nội dung, việc hoàn thiện pháp luật thuế nội địa cần tập trung vào các vấn đề sau đây:
– Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: là một trong những loại thuế sẽ chịu sự tác động đầu tiên và trực tiếp trong tiến trình hài hòa thuế trong bối cảnh AEC, cần hoàn thiện các quy định về thuế suất, chế độ ưu đãi thuế và quy định về chống chuyển giá. Cụ thể:
Thứ nhất, thực hiện điều chỉnh giảm mức thuế suất chung (thuế suất phổ thông) xuống dưới 20% theo lộ trình phù hợp để thu hút đầu tư, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ hai, để tránh thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp từ việc làm xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (BEPS) của các công ty, tập đoàn đa quốc gia, đồng thời bảo đảm nguyên tắc lợi nhuận của doanh nghiệp phải bị đánh thuế tại nơi mà hoạt động kinh tế thực sự diễn ra và là nơi mà giá trị kinh tế được tạo lập, cần phải nhanh chóng hoàn thiện quy định pháp luật về chống chuyển giá trên cơ sở có xem xét đến các chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (BEPS) theo khuyến nghị của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD).Mới đây nhất, ngày 24/02/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết, sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/05/2017. Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về nguyên tắc, phương pháp, trình tự, thủ tục xác định giá giao dịch liên kết; nghĩa vụ của người nộp thuế trong kê khai, xác định giá của giao dịch liên kết và kê khai nộp thuế; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế đối với người nộp thuế có phát sinh giao dịch liên kết. Trong bối cảnh môi trường thuế toàn cầu ngày một thay đổi về tính minh bạch và nỗ lực chống né thuế, đồng thời các giao dịch qua biên giới ngày càng gia tăng về số lượng cũng như mức độ phức tạp, Nghị định số 20/2017/NĐ-CP ra đời đã đánh dấu mốc phát triển quan trọng trong hệ thống quy định pháp luật về kiểm soát chuyển giá ở Việt Nam. Tuy nhiên, một số nội dung của Nghị định số 20/2017/NĐ-CP còn ở mức độ tổng quát, chưa có hướng dẫn cụ thể cách thức thực hiện gây lo ngại về tính khả thi của văn bản này. Ví dụ như quy định về các phương pháp so sánh xác định giá của giao dịch liên kết; quy định về việc người nộp thuế lập và lưu giữ hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết bao gồm hồ sơ toàn cầu, Hồ sơ quốc gia; chưa hướng dẫn cụ thể về cách thực hiện điều chỉnh giá giao dịch liên kết… Do vậy, để Nghị định 20/2017/NĐ-CP nhanh chóng phát huy vai trò là công cụ hiệu quả trong quản lý giá chuyển nhượng của giao dịch liên kết, chống chuyển giá, chống thất thu ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính cần nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể các vấn đề nêu trên. Thêm vào đó, yêu cầu đặc biệt quan trọng nhằm chống chuyển giá là phải tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thuế chuyên sâu về chuyển giá và bổ sung quy định cơ quan thuế có thẩm quyền điều tra.[14] Khi cơ sở pháp lý đầy đủ, cơ quan thuế có đủ thẩm quyền và có nguồn nhân lực chuyên trách thì việc đấu tranh với các hành vi gian lận qua giá chuyển nhượng sẽ mang lại hiệu quả, làm giảm tình trạng thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay, bảo đảm công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngoài.
Thứ ba, chế độ ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cần được sửa đổi theo hướng thu hẹp lĩnh vực ưu đãi, chỉ tập trung ưu đãi cho các ngành sản xuất hàng hóa có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, dịch vụ chất lượng cao theo định hướng chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời, để thực hiện mục tiêu của AEC là phát triển kinh tế cân bằng giữa các quốc gia thành viên, trong đó có nội dung hành động quan trọng là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chế độ ưu đãi của thuế thu nhập doanh nghiệp cần được sửa đổi theo hướng tạo thuận lợi nhất cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, đối với các doanh nghiệp có doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng, áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, đây cũng là mức thuế suất phổ thông của thuế thu nhập doanh nghiệp.[15] Chúng tôi cho rằng để khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cần điều chỉnh giảm mức thuế suất áp dụng đối với các đối tượng này xuống còn 17% hoặc 15%. Quy định này sẽ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện tăng tích tụ, tích luỹ tái đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; đồng thời, không ảnh hưởng nhiều tới số thu ngân sách nhà nước do số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm phần lớn trong nền kinh tế nhưng tỷ trọng đóng góp vào ngân sách nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp là tương đối khiêm tốn.
Thêm vào đó, quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành như trên chưa bao quát hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. Cụ thể, theo Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên).
Bên cạnh đó, theo Bản dự thảo mới nhất của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (dự thảo lần thứ 4 ngày 30/05/2016),[17] thì có hai tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh thu và số lao động của doanh nghiệp. Cụ thể, khoản 1 Điều 5 Dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp đáp ứng một trong các tiêu chí sau đây: a)Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của năm trước liền kề không vượt quá 100 tỷ đồng; b) Lao động bình quân năm của năm trước liền kề không quá 300 người”.
Vì vậy, bên cạnh việc bổ sung quy định về một mức thuế suất ưu đãi dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cần mở rộng tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa được áp dụng mức thuế suất ưu đãi sao cho thống nhất với quy định của pháp luật doanh nghiệp, từ đó góp phần tạo động lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
– Đối với thuế giá trị gia tăng: là loại thuế có phạm vi điều tiết rộng, tác động đến hầu hết các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế, cần hoàn thiện các quy định về thuế suất và phương pháp tính thuế. Cụ thể:
Thứ nhất, trong Luật số 13/2008/QH12 về Thuế giá trị gia tăng được sửa đổi bởi Luật số 31/2013/QH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008) cần sửa đổi quy định về phương pháp tính thuế giá trị gia tăng. Theo quy định của khoản 4, 5 Điều 1 Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008, số thuế giá trị gia tăng phải nộp được xác định theo hai phương pháp là phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp. Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời cả hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng như vậy về lâu dài là không hợp lý vì: (a) việc tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp là lấy doanh thu nhân (x) với tỷ lệ % ấn định, thực chất chính là cách tính thuế doanh thu theo Luật Thuế doanh thu trước đây với rất nhiều hạn chế như mang tính tận thu, gây trùng thuế, cản trở chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa sản xuất, kinh doanh… đã hết hiệu lực thi hành ở Việt Nam từ sau ngày 31/12/1998;[18] (b) không bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh; (c) tạo khe hở cho sự xuất hiện cơ chế chuyển giao hàng hóa, dịch vụ giữa các đối tượng nộp thuế theo hai phương pháp trên thông qua hình thức hợp thức hóa bằng hóa đơn, chứng từ giả, gây khó khăn cho công tác quản lý thuế. Vì vậy, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 cần được sửa đổi theo hướng bỏ phương pháp tính thuế trực tiếp, chỉ giữ lại phương pháp khấu trừ nhằm bảo đảm chỉ đánh thuế khi hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng, khắc phục hiện tượng trùng thuế trong thuế giá trị gia tăng hiện nay, minh bạch môi trường kinh doanh thông qua chế độ hóa đơn, chứng từ đầu vào và đầu ra của cơ sở kinh doanh, phát huy tính trung lập của thuế giá trị gia tăng để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Đối với tất cả các chủ thể kinh doanh không đủ điều kiện để áp dụng phương pháp khấu trừ sẽ chuyển sang nộp thuế giá trị gia tăng cố định hay còn gọi là thuế khoán.
Thứ hai, cần sửa đổi Điều 8 Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 quy định về thuế suất thuế giá trị gia tăng, theo đó, chỉ áp dụng một mức thuế suất cho toàn bộ hàng hóa, dịch vụ chịu thuế (không kể mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu). Theo quy định trên, ngoại trừ mức thuế suất 0% áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu để khuyến khích hoạt động xuất khẩu, Luật Thuế giá trị gia tăng quy định về hai mức thuế suất là 5% và 10% áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ chịu thuế trong nước. Trong khi đó, thuế giá trị gia tăng, hoặc thuế hàng hóa – dịch vụ của hầu hết các quốc gia ASEAN đều chỉ quy định về một mức thuế suất.[19] Trên thực tế, tình trạng có nhiều mức thuế giá trị gia tăng sẽ khiến cho việc tính và thu thuế gặp nhiều khó khăn, không bảo đảm công bằng giữa các ngành nghề sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 nên bỏ mức thuế suất 5%, áp dụng mức thuế suất 10% cho tất cả các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế trong nước, góp phần bảo đảm sự hài hòa về thuế giá trị gia tăng của Việt Nam với các quốc gia thuộc AEC.
– Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế điều tiết những hàng hóa, dịch vụ được xem là gây ra bất lợi cho môi trường, xã hội hoặc mang tính xa xỉ. Trong bối cảnh AEC, khi nguồn thu từ thuế nhập khẩu ngày càng giảm sút do cắt bỏ hàng rào thuế quan thì thuế tiêu thụ đặc biệt cần phải được điều chỉnh để bổ sung nguồn thu cho sự suy giảm của thuế nhập khẩu và góp phần bảo vệ sản xuất trong nước. Cụ thể, căn cứ vào điều kiện kinh tế – xã hội và quy định về thuế tiêu thụ đặc biệt của các nước ASEAN,[20] xem xét đưa thêm một số loại hàng hóa, dịch vụ mới vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như vàng bạc, đá quý, mỹ phẩm, nước hoa. Ngoài ra, cần điều chỉnh tăng mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với những mặt hàng chịu thuế có kim ngạch nhập khẩu lớn, có thuế nhập khẩu giảm mạnh khi Việt Nam thực hiện các FTA và cam kết trong AEC như ô tô, mô tô từ 125cm3 trở lên…
– Đối với thuế bảo vệ môi trường: cần điều chỉnh tăng mức thu thuế bảo vệ môi trường và mở rộng danh mục hàng hóa chịu thuế bảo vệ môi trường cho phù hợp với thực tiễn là tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng nghiêm trọng, và bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
– Đối với thuế tài nguyên: các nội dung điều chỉnh của thuế tài nguyên cần được sửa đổi nhằm bảo đảm việc sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, nhất là đối với tài nguyên không tái tạo, thúc đẩy khai thác tài nguyên gắn liền với chế biến sâu, góp phần hạn chế tối đa xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến.
CHÚ THÍCH
[1]* ThS. Luật học, Giảng viên Khoa Luật Thương mại, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.Đức Duy, “Các vấn đề về thuế trong Khu vực kinh tế tự do ASEAN”, Tạp chí Thuế nhà nước, số 14/2016, tr. 8.
[2] Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI), Tóm lược cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), http://www.trungtamwto.vn/cachiepdinhkhac/tom-luoc-cong-dong-kinh-te-asean-aec, truy cập ngày 25/2/2017.
[3] Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI), Tóm lược cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), http://www.trungtamwto.vn/cachiepdinhkhac/tom-luoc-cong-dong-kinh-te-asean-aec, truy cập ngày 25/2/2017.
[4] Trần Trung Kiên, Trần Ngọc Thanh, “Thuế và tăng trưởng kinh tế: minh chứng thực nghiệm tại các quốc gia Đông Nam Á giai đoạn 1988 – 2013”, Tham luận Hội thảo: Cộng đồng kinh tế ASEAN: Cơ hội và thách thức đối với ngành tài chính Việt Nam, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, tháng 12/2015.
[5] Bovengerg, L., Cnossen,S., & de Mooij, R., Tax, Coordination in the European Union, International Tax and Pulic Finance, 2003, tr. 619-624.
[6] Sử Đình Thành, Trần Trung Kiên và Bùi Thành Trung, “Cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam: hướng đến thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đến năm 2020”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 22,/2015, tr. 26.
[7] Thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan của Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), tính đến hết năm 2015, Việt Nam đã cắt giảm khoảng 90% các dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu về mức thuế suất 0%; 7% các dòng thuế tương đương với 687 mặt hàng nhạy cảm gồm sắt thép, giấy, vải may mặc, ô tô, linh kiện phụ tùng ô tô, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng, đồ nội thất… được Việt Nam cam kết tiếp tục cắt giảm về 0% trong giai đoạn từ 2016 – 2018; và 3% số dòng thuế của Biểu thuế ATIGA được loại trừ khỏi cam kết xóa bỏ thuế quan, bao gồm các mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm được phép duy trì thuế suất ở mức 5% là: gia cầm sống, thịt gà, trứng gia cầm, quả có múi, thóc, gạo lứt, thịt chế biến, đường. (Theo TTXVN, “Cộng đồng kinh tế ASEAN: Khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ”, Thời báo Tài chính Việt Nam online: http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thue-voi-cuoc-song/2016-01-16/cong-dong-kinh-te-asean-khi-hang-rao-thue-quan-duoc-go-bo-27939.aspx), truy cập ngày 25/2/2017.
[8] Đào Ngọc Lâm, “TPP: cơ hội và thách thức”, Tạp chí Thuế nhà nước, số 48/2015, tr. 31.
[9] Nguyễn Kiên, “Xuất khẩu sang ASEAN có xu hướng co lại”, Tạp chí Thuế nhà nước, 8/2016.
[10] Theo kết quả thanh tra, kiểm tra 420 doanh nghiệp có hoạt động giao dịch liên kết trong năm 2015, cơ quan Thuế đã truy thu, truy hoàn và phạt 4.895,16 tỷ đồng; giảm lỗ 3.104,11 tỷ đồng; giảm khấu trừ 206,81 tỷ đồng và điều chỉnh tăng thu nhập chịu thuế 801,7 tỷ đồng, http://vcci.com.vn/lan-dau-tien-co-nghi-dinh-quy-dinh-ve-chong-chuyen-gia, truy cập ngày 25/02/2017.
[11] Các FTA mà Việt Nam đã ký kết gồm: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA); Khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKAFTA); Khu vực thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản (AJFTA); Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA); Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Australia/ New Zeland (AANZFTA); Khu vực thương mại tự do ASEAN – Ấn Độ (AIFTA); Khu vực thương mại tự do Việt Nam – Chi Lê; Hiệp định AFTA Việt Nam – EU (EVFTA); Hiệp định FTA Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA); Hiệp định FTA Việt Nam – Liên minh hải quan Nga, Belarus, Kazacstan (VCUFTA). (Trần Thị Trang, “Việt Nam tham gia các Hiệp định FTA:Thực trạng, cơ hội và thách thức”, Tạp chí Tài chính, số 03/2015, tr. 8, 9).
[12] Đức Duy, “Các vấn đề về thuế trong Khu vực kinh tế tự do ASEAN”, Tạp chí Thuế nhà nước, số 14/2016, tr. 9.
[13] Mai Phương, “Ưu đãi đầu tư nhìn từ chính sách thuế”, Tạp chí Thuế nhà nước, số 34/2014, tr. 9.
[14] Theo quy định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, có hiệu lực từ 01/07/2016, Hệ thống Cơ quan điều tra hình sự gồm: (i) cơ quan điều tra của Công an nhân dân; (ii) cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân; (iii) cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; (iv) và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là các cơ quan của Bộ đội biên phòng, các cơ quan của Hải quan, các cơ quan của Kiểm lâm, các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan của Kiểm ngư, các cơ quan của Công an nhân dân, các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan thuế chưa có thẩm quyền điều tra. Hiện nay, các cơ quan thuế chỉ có quyền thanh tra, kiểm tra các vụ việc, nếu phát hiện dấu hiệu tội phạm thì chuyển cơ quan điều tra chuyên trách để giải quyết.
[15] Khoản 6 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ngày 19/6/2013.
[16] Việt Nam có hơn 724.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm khoảng 97,5% tổng số các doanh nghiệp, giải quyết việc làm cho 51% lực lượng lao động cả nước (Phạm Văn Hồng, “Một số khuyến nghị nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tài chính sau khi AEC hình thành”, tham luận Hội thảo: Cộng đồng kinh tế ASEAN: Cơ hội và thách thức đối với ngành tài chính Việt Nam, Đại học Kinh tế TP.HCM, tháng 12/2015).
[17] Xem toàn văn dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa chỉ website: http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1196&TabIndex=1&LanID=1303
[18] Xem Điều 7, 8, 9 Luật Thuế doanh thu năm 1990; Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế doanh thu năm 1995.
[19] Sử Đình Thành, Trần Trung Kiên và Bùi Thành Trung, “Cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam: hướng đến thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đến năm 2020”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 22/2015, tr.13.
[20] Cambodia, Lào, Thái Lan, Malaysia đánh thuế tiêu thụ đặc biệt vào nước uống không cồn. (Xem Sử Đình Thành, Trần Trung Kiên và Bùi Thành Trung, “Cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam: hướng đến thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đến năm 2020”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 22 2015, tr.14).
- Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Thu Hiền
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04(107)/2017 – 2017, Trang 53-62
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý