Mục lục
Khía cạnh pháp lý trong việc xây dựng nội dung quy định đối tượng chịu thuế tài sản
Tác giả: TS. Lê Thị Ngân Hà
TÓM TẮT
Để tăng thu cho ngân sách nhà nước, ngày 13/04/2018 Bộ Tài chính đã công bố dự thảo Luật Thuế tài sản. Tuy nhiên, dự thảo đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ người dân bởi các e ngại về gánh nặng thuế. Họ cũng đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về đối tượng chịu thuế tài sản. Bài viết tập trung phân tích các vấn đề sau: i) cơ sở lý luận khi xác định đối tượng chịu thuế của Luật Thuế tài sản, ii) yêu cầu đặt ra khi xây dựng đối tượng chịu thuế, iii) nội dung cụ thể của đối tượng chịu thuế.
Xem thêm:
- Những thành tố pháp lý bảo đảm tính hiệu quả của Luật Thuế tài sản – ThS. Trương Thị Tuyết Minh
- Đánh giá tác động của Dự thảo Luật Thuế tài sản đối với thị trường bất động sản – ThS. Trần Minh Hiệp
- Những thành tố pháp lý bảo đảm tính hiệu quả của Luật Thuế tài sản – ThS. Trương Thị Tuyết Minh
- Pháp luật thuế tài sản của Pháp – Từ thực tiễn áp dụng đến kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Nguyễn Thị Thúy
TỪ KHÓA: Thuế tài sản
1. Cơ sở lý luận khi xác định đối tượng chịu thuế của Luật Thuế tài sản
Để xác định đối tượng chịu thuế cụ thể, cần làm rõ mục đích xây dựng Luật thuế tài sản. Trong Tờ trình về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản của Bộ Tài chính đã nêu những mục đích sau: (i) Thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tiếp tục cải cách chính sách thuế đối với tài sản; thực hiện cải cách hệ thống thuế, góp phần xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với các quy định của Hiến pháp, thống nhất và đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan; (ii) Bảo đảm mở rộng cơ sở thuế, bao quát nguồn thu từ thuế tài sản, phù hợp với thông lệ quốc tế về thuế tài sản; (iii) Tăng cường quản lý nhà nước đối với tài sản, đồng thời có thêm nguồn lực đầu tư trở lại đất đai, điều tiết một phần nhỏ thu nhập của tổ chức, cá nhân có nhiều tài sản nhà, đất, góp phần đảm bảo công bằng xã hội; (iv) Kế thừa, luật hóa các quy định của pháp luật hiện hành về thuế liên quan đến sử dụng đất còn phù hợp.[1]
Ở đây, có hai vấn đề cần làm rõ. Thứ nhất, theo đúng tên gọi của Luật Thuế tài sản và mục đích xây dựng luật nêu trên, có thể hiểu rằng, Nhà nước muốn quản lý, bao quát toàn bộ tài sản của tổ chức, cá nhân; theo đó, nếu giá trị tài sản vượt qua ngưỡng chịu thuế, người sở hữu hoặc sử dụng tài sản phải nộp thuế cho Nhà nước, qua đó điều tiết thu nhập, giảm chênh lệch giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Như vậy, đối tượng chịu thuế sẽ hiểu theo nghĩa rộng tức bao gồm toàn bộ tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng của tổ chức, cá nhân. Bản chất của thuế tài sản lúc này chỉ điều tiết nhóm đối tượng nộp thuế là người giàu. Tuy nhiên, nếu xây dựng theo hướng này sẽ rất khó khả thi bởi đòi hỏi Nhà nước phải quản lý được tài sản của tổ chức, cá nhân, mặt khác phải rà soát toàn bộ thuế hiện hành đánh lên tài sản bởi có khả năng gây ra hiện tượng trùng thuế, gây phản ứng xấu trong tâm lý người nộp thuế. Có thể dẫn như Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 và Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 nay đang điều tiết lên thu nhập – một dạng của tài sản, do đó nếu hiểu theo nghĩa rộng của đối tượng chịu thuế thì sẽ bao gồm luôn thu nhập. Một điểm đặc biệt nữa là phần lớn người giàu ở Việt Nam đều liên quan đến bất động sản. Theo con số thống kê trên sàn chứng khoán của 30 người giàu nhất Việt Nam hiện nay thì có 26% làm giàu từ đất đai, từ bất động sản. Nếu tính cả những người giàu chưa lên sàn, nếu tính đủ, tính hết chắc rằng con số này tăng lên rất nhiều, có lẽ gần 2/3 người giàu Việt Nam hiện nay làm giàu từ đất đai, bất động sản.[2]
Thứ hai, nếu mục đích trọng tâm khi xây dựng Luật Thuế tài sản là quản lý, sử dụng đất đai hiệu quả, tiết kiệm, hạn chế tình trạng đầu cơ, trục lợi đất đai, qua đó góp phần thực hiện công bằng xã hội, thì đối tượng chịu thuế của Luật Thuế tài sản cần hiểu theo nghĩa hẹp tức chỉ bao gồm đất và công trình xây dựng trên đất. Lúc này, thực chất đây là thuế điều tiết lên đất và công trình trên đất (một dạng của tài sản) mà không phải là thuế tài sản hiểu theo đúng nghĩa ở trên. Do đó, tên của đạo luật cần nên xem xét lại theo hướng thể hiện rõ đối tượng chịu thuế, phạm vi điều tiết thuế và mục đích điều tiết thuế của Nhà nước. Xem xét trong khả năng quản lý thuế, tài sản và đặc thù của Việt Nam hiện nay, tác giả cho rằng việc xây dựng đối tượng chịu thuế của Luật Thuế tài sản nên hiểu theo cách thứ hai. Trên thế giới hiện tại cũng chỉ có bốn nước xây dựng luật thuế tài sản theo hướng một và cũng chỉ giới hạn đối tượng là cá nhân là Pháp, Na Uy, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ.[3]
Cơ sở thứ hai cần làm rõ là cơ sở của việc điều tiết thuế lên đất đai. Muốn như vậy phải làm rõ quan hệ giữa Nhà nước (người thu thuế) và người dân (người nộp thuế) trong việc sử dụng đất đai. Trong quan hệ này, Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu giao đất cho người dân để sử dụng. Người dân chỉ có quyền sử dụng đất chứ không có quyền sở hữu đất. Vậy Nhà nước dựa trên cơ sở nào để đánh thuế lên việc sử dụng đất của người dân.
Điều này trước hết do bản chất của thuế là khoản tiền mà người dân bắt buộc phải nộp cho Nhà nước để giúp Nhà nước tồn tại và thực hiện các chức năng của mình. Điều này bắt nguồn từ việc Nhà nước là một chủ thể không tạo ra thu nhập và người dân với tư cách là người thụ hưởng các lợi ích mà Nhà nước mang lại. Như vậy, nhìn dưới góc độ này, người sử dụng đất qua quá trình khai thác, sử dụng có sử dụng các tiện ích mà Nhà nước cung cấp như: cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống, điện nước, an ninh, trật tự, được Nhà nước bảo vệ quyền như chính sách pháp luật bảo vệ quyền sử dụng, quyền hưởng lợi… phải chia sẻ tài chính cho Nhà nước. Xem xét ở góc độ này, thuế giống như một khoản phí mà người sử dụng đất phải trả cho Nhà nước.
Bên cạnh đó, nếu xem xét ở góc độ quan hệ sở hữu cho thấy, Nhà nước tuy là đại diện chủ sở hữu nhưng không trực tiếp sử dụng mà trao lại quyền sử dụng đất cho người dân. Quyền này mang lại lợi ích đầy đủ cho người sử dụng như một người sở hữu thực thụ. Bởi ngoài việc khai thác, sử dụng đất (ở, cho thuê, sản xuất, kinh doanh), người sử dụng còn được phép định đoạt thông qua các giao dịch (chuyển nhượng, thừa kế, góp vốn, tặng cho quyền sử dụng đất) hoặc từ bỏ quyền sử dụng đất (trả lại đất cho Nhà nước). Bởi lẽ đó, người dân có nghĩa vụ chia sẻ lại một phần thu nhập (lợi ích) từ việc sử dụng đất của mình cho Nhà nước.
Ngoài ra, việc thu thuế đối với đất đai còn là cơ sở để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với những tài sản quốc gia là những tư liệu sản xuất không thể thiếu trong mọi hoạt động kinh tế, là nơi mà con người sinh sống, lao động để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, tài sản này lại không phải là vô tận. Do đó, trong mối quan hệ Nhà nước là người giao đất và quản lý đất đai, việc thu thuế là nhằm khuyến khích người dân sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả.
Như vậy, dù xét dưới góc độ nào, việc sử dụng đất của người dân đều dẫn đến hệ quả là phải chia sẻ một phần lợi ích cho Nhà nước là điều hợp lý và có cơ sở.
2. Yêu cầu đặt ra khi xây dựng đối tượng chịu thuế
Một là, bảo đảm không trùng thuế. Trùng thuế là hiện tượng một đối tượng chịu thuế chịu điều tiết nhiều lần bởi cùng một loại thuế. Cần lưu ý ở đây rằng, hiện nay có thể có nhiều khoản tiền Nhà nước thu đối với đất đai nhưng nếu không trùng về mục đích thu thì không thể gọi là trùng thuế, làm tăng gánh nặng thuế cho người sử dụng được. Thử xét ví dụ: đối với đất ở (đất phi nông nghiệp) được Nhà nước giao để ở, người sử dụng phải nộp tiền sử dụng đất.[4] Thật ra, bản chất khoản tiền này giống như tiền bán đất.[5] Ngoài ra, người sử dụng còn nộp tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, mục đích của thuế là điều tiết một phần thu nhập của cá nhân, tổ chức, hộ gia đình vào ngân sách nhà nước, đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai, đảm bảo tài sản quốc gia được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.[6] Khi bán đất ở, người dân phải nộp thuế cho Nhà nước, mục đích thu thuế lúc này là điều tiết lên thu nhập có được từ việc bán đất và thực hiện công bằng xã hội. Như vậy, cả ba khoản tiền này tuy đều thu trên đất nhưng mục đích thu lại khác nhau nên không thể gọi là trùng thuế.
Tuy nhiên, nếu Luật Thuế tài sản được ban hành thì cần xem xét lại Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp và Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp về đối tượng chịu thuế là đất và công trình xây dựng trên đất sao cho bảo đảm yêu cầu không trùng thuế. Bởi, mục đích điều tiết thuế sử dụng đất nông nghiệp và phi nông nghiệp là thực hiện chức năng quản lý nhà nước và đánh vào lợi ích có được từ việc sử dụng đất. Còn mục đích của thuế tài sản là chủ yếu điều tiết lợi ích người sở hữu, sử dụng bất động sản khi giá trị của bất động sản vượt quá ngưỡng chịu thuế. Ở đây có sự giao thoa về lợi ích của người sở hữu, sử dụng bất động sản. Cùng với hành vi sở hữu hay sử dụng bất động sản, tổ chức, cá nhân nhận được một khoản lợi ích, nó có thể là một khoản tài chính (thu nhập) hoặc phi tài chính. Như vậy, lợi ích đồng thời là đối tượng chịu thuế của thuế tài sản và thuế sử dụng đất. Mặt khác, lợi ích hiện nay còn là đối tượng chịu thuế của các sắc thuế đánh vào thu nhập. Do đó, có thể thấy rằng, nếu không xem xét kỹ yêu cầu này khi xây dựng đối tượng chịu thuế rất dễ dẫn đến tình trạng trùng thuế.
Để giải quyết vấn đề này cần xác định rõ mức lợi ích phải chịu thuế, vì về nguyên tắc, đối với thuế sử dụng đất, do được hưởng lợi từ hành vi sử dụng, đối tượng nộp thuế phải chia sẻ một phần lợi ích này cho Nhà nước. Phần lợi ích này được tính trên toàn bộ giá trị đất hưởng lợi. Còn thuế tài sản, đối tượng nộp thuế chỉ nộp đối với phần lợi ích vượt quá ngưỡng chịu thuế, nói cách khác, nếu lợi ích họ hưởng không vượt ngưỡng, họ không phải nộp thuế tài sản mà chỉ nộp thuế sử dụng đất. Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng không cần duy trì đồng thời hai sắc thuế đánh vào tài sản này. Bởi thứ nhất, về mặt quản lý thuế Nhà nước sẽ gặp khó khăn hơn do cả hai sắc thuế đều liên quan đến bất động sản nhưng vì hai thuế khác nhau nên quy trình thu nộp thuế đều thực hiện riêng biệt, điều này là không cần thiết và bất hợp lý. Thứ hai, việc duy trì đồng thời hai sắc thuế sẽ rất dễ gây tâm lý tiêu cực đến người nộp thuế vì họ cho rằng trùng thuế do đối tượng chịu thuế cùng là bất động sản. Thứ ba, mục đích điều tiết thuế của hai sắc thuế này vẫn hoàn toàn đạt được nếu nhập hai sắc thuế làm một. Thứ tư, vì Nhà nước muốn mở rộng thêm đối tượng chịu thuế là nhà và công trình xây dựng trên đất nên việc duy trì hai sắc thuế sẽ gặp khó khăn khi xác định ngưỡng chịu thuế, vì về nguyên tắc, nhà và công trình trên đất là bất động sản, nếu giá trị hưởng lợi dưới ngưỡng chịu thuế thì vẫn phải chịu thuế sử dụng đất, nhưng sắc thuế này hiện nay không thu đối với đối tượng này.
Với những lẽ trên, tác giả cho rằng nên chấm dứt hiệu lực hai luật thuế là thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp khi ban hành Luật Thuế tài sản.
Hai là, bảo đảm phù hợp với khả năng nộp thuế của người nộp thuế. Bởi đây là thuế đánh trên tài sản, chứ không dựa trên giá trị tài sản thực tế phát sinh như thuế đánh trên thu nhập từ tiền cho thuê, chuyển nhượng… Nói cách khác, cơ sở đánh thuế ở đây là quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của người dân, do đó cần phải xem xét rất kỹ khả năng nộp thuế của người dân như mức sống, thu nhập, hoàn cảnh gia đình… Muốn như vậy, Nhà nước cần xác định ngưỡng chịu thuế hợp lý. Ví dụ, nhà ở là đối tượng chịu thuế, nhưng cần xác định người sở hữu loại nhà nào mới phải nộp thuế. Nhà nước có thể dựa vào diện tích nhà, hạn mức nhà ở trên đầu người, số lượng người trong gia đình truyền thống của Việt Nam để quy định. Hoặc Nhà nước có thể dựa vào giá trị của căn nhà, bình quân thu nhập đầu người, mức chi tiêu, chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất vay ngân hàng… để xác định ngưỡng chịu thuế hợp lý.
Ba là, bảo đảm công bằng xã hội.Công bằng được xem xét theo hai chiều là chiều dọc và chiều ngang. Công bằng theo chiều ngang được hiểu là các chủ thể có điều kiện hoàn cảnh như nhau thì sẽ thực hiện các nghĩa vụ thuế tài sản như nhau. Cụ thể chủ thể sở hữu, sử dụng bất động sản như nhau ví dụ đều là nhà ở diện tích 100m vuông, trị giá 3 tỷ đồng, ở cùng một vị trí thì phải nộp thuế ngang nhau. Công bằng theo chiều dọc hiểu là, các chủ thể có điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì thực hiện nghĩa vụ thuế khác nhau, người có điều kiện hơn sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế nhiều hơn. Lấy lại ví dụ trên, nếu chủ thể thứ nhất sở hữu một căn nhà duy nhất, số lượng người trong gia đình lại đông, trong khi đó chủ thể thứ hai sở hữu nhiều căn nhà, số lượng người trong gia đình lại ít. Như vậy, cần quy định miễn giảm thuế hoặc ngưỡng chịu thuế cho chủ thể thứ nhất ví dụ như căn nhà thứ hai mới phải chịu thuế, hoặc căn nhà thứ nhất chỉ chịu thuế sau khi đã xem xét các yếu tố như giá trị, diện tích, hạn mức sử dụng, nhu cầu sử dụng và hoàn cảnh gia đình người nộp thuế.
Tóm lại, khi Nhà nước ban hành một đạo luật thuế, người gánh chịu thuế cuối cùng là người dân, vì vậy để đạo luật thuế được ban hành và nhận được sự ủng hộ, Nhà nước cần xem xét đầy đủ, thấu đáo các yêu cầu trên.
3. Đề xuất về việc xác định đối tượng chịu thuế tài sản ở Việt Nam
Với những phân tích ở phần cơ sở lý luận ở trên, tác giả đề xuất xác định đối tượng chịu thuế tài sản là đất và công trình xây dựng trên đất.
3.1. Đối tượng chịu thuế là đất
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 (Điều 10), căn cứ vào mục đích sử dụng, đất được chia làm ba nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Về điều kiện chịu thuế, đất chưa có hành vi tác động của con người thì không chịu thuế, do đó chúng ta chỉ xét hai nhóm đất còn lại là đất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Dự thảo Luật Thuế tài sản quy định đất chịu thuế là đất phi nông nghiệp,[7] bao gồm: a) Đất ở, gồm: ở tại đô thị và đất ở tại nông thôn; b) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, gồm: đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất; đất thương mại, dịch vụ, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; c) Các loại đất phi nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế theo quy định sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đất nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế.[8]
Xét quy định đất nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế, điều này được lý giải là do kế thừa quy định Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, tuy trước đó, đất nông nghiệp thuộc đối tượng chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp, nhưng thực tế cho đến hiện nay Nhà nước vẫn đưa vào diện miễn thuế. Điều này phù hợp với chính sách phát triển nông nghiệp của nước ta. Tuy nhiên, nội dung này cần xem xét lại bởi các lý do sau:
Một, thực tế sử dụng đất cho thấy, nhiều đất nông nghiệp hiện nay bị sử dụng sai mục đích.Cụ thể, đất nông nghiệp nhưng lại sử dụng để xây nhà ở hoặc làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Nếu quy định đất nông nghiệp không chịu thuế sẽ dẫn đến người sử dụng đất nông nghiệp sai mục đích sẽ không phải nộp thuế. Điều này là bất hợp lý bởi nó vừa không công bằng cho người sử dụng đất hợp pháp phải nộp thuế, vừa trái với nguyên tắc người được hưởng lợi phải trả tiền.
Hai, việc quy định đất nông nghiệp không thuộc diện chịu thuế cũng dẫn đến hệ quả là đất này nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của luật, nghĩa là, người sử dụng không cần phải kê khai thông báo cho cơ quan thuế. Xét dưới góc độ quản lý thuế và quản lý đất đai, Nhà nước cần xem xét lại điều này, bởi suy cho cùng mục đích của Nhà nước khi quy định nội dung này là nhằm không thu thuế đối với hành vi sử dụng đất nông nghiệp, góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa, giảm bớt khó khăn cho người nông dân, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững; và phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế. Do đó thiết nghĩ, nếu Nhà nước quy định đất nông nghiệp vẫn thuộc đối tượng chịu thuế nhưng thuộc trường hợp miễn thuế vừa bảo đảm được mục đích của Nhà nước, vừa có lợi cho quản lý đất đai trong việc thu thập cơ sở dữ liệu về đất, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước theo dõi, giám sát việc sử dụng đất nông nghiệp sai mục đích từ đó tiến hành thu thuế, tránh bỏ sót nguồn thu.
Xét quy định đất phi nông nghiệp là đối tượng chịu thuế, so với quy định của Luật Đất đai về các loại đất phi nông nghiệp,[9] đất chịu thuế chỉ gồm hai trên mười loại, tám loại đất phi nông nghiệp còn lại thuộc diện không chịu thuế.[10] Quy định như vậy là phù hợp với mục đích điều tiết thuế của Nhà nước và quy định của các nước.[11] Tuy nhiên quy định này cũng cần được xem xét lại ở một số nội dung sau:
i) Đất ở là đối tượng chịu thuế
Như đã phân tích ở trên, mục đích điều tiết thuế của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung cơ bản của một đạo luật thuế, cụ thể ở đây là đối tượng chịu thuế. Ông cha ta có câu: “An cư lạc nghiệp”. Với cách nghĩ đó, nhu cầu nhà đất của người Việt luôn rất cao, trong khi đó, nguồn đất lại có hạn, việc chênh lệch cung cầu này kéo đến tình trạng sốt đất, đầu cơ đất, tích trữ đất thường xuyên xảy ra cũng là điều dễ hiểu. Do vậy, việc đưa đất ở vào đối tượng chịu thuế là điều hợp lý. Tuy nhiên cần cân nhắc đến điều kiện của đất ở chịu thuế.
Thứ nhất, việc đánh thuế lên đất ở được áp dụng đối với lô đất ở thứ hai hay toàn bộ số lô đất ở mà người dân hiện có. Theo quan điểm cá nhân, việc người dân sở hữu một bất động sản nhằm ổn định chỗ ở là nhu cầu hợp pháp và chính đáng, do đó để tạo điều kiện cho người dân ổn định cuộc sống, Nhà nước không nên thu thuế đối với bất động sản thứ nhất. Việc điều tiết thuế đối với bất động sản thứ hai trở đi sẽ hợp lý hơn khi đặt trong mục đích điều tiết thuế của Nhà nước đã nói ở trên.
Tuy nhiên với cách thức đánh thuế này, Nhà nước sẽ gặp khó khăn trong việc thu thuế bởi không có thông tin đầy đủ và chính xác để xác định lô đất nào là thứ hai. Do đó, hiện nay theo quy định của dự thảo, Bộ Tài chính đang xây dựng phương án đánh thuế lên bất động sản người dân có được mà không cần xác định đó là bất động sản thứ nhất hay thứ hai. Để vẫn bảo đảm nguyên tắc công bằng, Bộ quy định ngưỡng chịu thuế của bất động sản nhưng chỉ áp dụng đối với nhà ở.
Như vậy, đối với đất ở, người nộp thuế phải nộp thuế trên toàn bộ giá trị đất. Điều này là bất hợp lý và không công bằng cho người nộp thuế vốn chỉ có một lô đất ở duy nhất. Quy định như vậy là đang cào bằng điều kiện chịu thuế của người dân, vì không phải ai cũng có thu nhập cao và mục đích mua đất như nhau. Chỉ vì yếu trong công tác quản lý đất đai và để tiện thu, Nhà nước đánh thuế lên tất cả bất động sản mà người dân có được không phân biệt mục đích sở hữu, sử dụng hay thu nhập của người dân là điều bất hợp lý, vốn điều này đi ngược lại với mục tiêu ban đầu của Nhà nước là bảo đảm công bằng xã hội, quản lý đất đai hiệu quả, hạn chế tình trạng đầu cơ. Có chăng thỏa mãn được mục đích tăng thu cho ngân sách nhà nước. Theo quan điểm cá nhân, việc đánh thuế tài sản lên đất và nhà là hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế, xã hội và thông lệ quốc tế nhưng để triển khai mà không vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ người dân, thì các quy định về thuế tài sản cần đúng với mục tiêu ban đầu đã đặt ra. Vì thế, tóm lại nếu đất người dân mua để ở (đối với lô đất thứ nhất) cần phải được miễn thuế, từ lô đất thứ hai sẽ chịu điều tiết thuế (dù sử dụng với mục đích gì hoặc không sử dụng).[12]
Thứ hai, về ngưỡng chịu thuế của đất ở, như đã phân tích ở trên, nếu Nhà nước điều tiết thuế trên lô đất thứ hai trở đi thì lúc này không cần quan tâm đến ngưỡng chịu thuế của đất nữa bởi đã đảm bảo được công bằng xã hội. Theo đó, Nhà nước có thể đánh thuế lên toàn bộ giá trị lô đất thứ hai trở đi mà không lo vấp phải sự phản đối từ người dân về ngưỡng chịu thuế. Bởi một khi đã mua lô đất thứ hai, người dân đã xác định vấn đề nộp thuế, theo đó họ phải tự cân đối thu nhập và khả năng chịu thuế của mình.
ii) Bổ sung đối tượng chịu thuế của đất phi nông nghiệp
Điều kiện chịu thuế của đất phi nông nghiệp, theo Dự thảo có thể hiểu khái quát là: một, đất này là đất phi nông nghiệp;[13] hai, mục đích sử dụng đất là để ở hoặc sản xuất, kinh doanh. Như vậy, sẽ có trường hợp đất phi nông nghiệp nhưng không dùng để ở hoặc sản xuất kinh doanh như đất phục vụ lợi ích công cộng, tín ngưỡng, tôn giáo, an ninh quốc phòng… Đất này không thỏa mãn điều kiện chịu thuế nên quy định như Dự thảo xếp vào nhóm đối tượng không chịu thuế là hợp lý.[14] Trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp sau: một là, đất phi nông nghiệp không chịu thuế, ví dụ như đất xây dựng công trình văn hóa, y tế nhưng lại sử dụng để xây dựng cơ sở hoặc mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trường hợp này, Dự thảo đã quy định thuộc đối tượng chịu thuế.[15] Hai là, đất phi nông nghiệp không chịu thuế sử dụng để ở ví dụ như: đất giao thông, thủy lợi người dân tự động xây nhà để ở. Trường hợp này thỏa mãn điều kiện chịu thuế nhưng hiện nay chưa quy định đây là đối tượng chịu thuế.
Ngoài ra, căn cứ vào thực tế sử dụng đất và việc điều tiết thuế sử dụng đất nông nghiệp, hiện nay, đất nông nghiệp nhưng sử dụng để ở hoặc sản xuất, kinh doanh thì không còn là đối tượng chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp nữa mà chuyển sang chịu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Việc điều tiết thuế như vậy là hợp lý bởi khả năng sinh lời từ hành vi sử dụng đất phi nông nghiệp cao hơn sử dụng đất nông nghiệp, người sử dụng đất do vậy mà phải nộp thuế nhiều hơn. Vì thế Nhà nước có thể cân nhắc quy định thêm đối tượng chịu thuế là đất nông nghiệp, đất chưa xác định mục đích sử dụng được sử dụng thực tế vào mục đích để ở hoặc sản xuất, kinh doanh.
3.2. Đối với đối tượng chịu thuế là nhà và công trình xây dựng trên đất
Xét về vấn đề đối tượng chịu thuế mà tác giả quan tâm phân tích, thì đây là nội dung bất ổn nhất. Những đề xuất trong Dự thảo cho thấy sự tùy tiện trong việc lựa chọn đối tượng chịu thuế, càng không có cơ sở lý luận hay thực tiễn nào cho sự lựa chọn này. Theo quy định Phân loại công trình xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 46/2015/NĐ-CP về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng ngày 12 tháng 05 năm 2015 của Chính phủ, công trình xây dựng căn cứ theo công năng sử dụng được phân thành các loại: a) Công trình dân dụng; b) Công trình công nghiệp; c) Công trình giao thông; d) Công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn; đ) Công trình hạ tầng kỹ thuật; e) Công trình quốc phòng, an ninh.
Chiếu theo quy định trên, Dự thảo Luật Thuế tài sản hiện nay quy định đối tượng chịu thuế rất hẹp, cụ thể Dự thảo đưa ra hai phương án. Phương án một: đối tượng chịu thuế gồm nhà ở; nhà và công trình thương mại, dịch vụ. Phương án hai: đối tượng chịu thuế chỉ gồm nhà ở. Cả hai phương án này đều chỉ điều tiết thuế lên công trình dân dụng.[16] Quy định này có những điểm bất hợp lý như sau:
Thứ nhất, nếu theo cơ sở lý luận, người hưởng lợi từ việc sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông, phúc lợi xã hội sẽ phải có nghĩa vụ đối với Nhà nước[17] thì các loại công trình dân dụng, công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật sẽ thuộc đối tượng chịu thuế mà không chỉ là công trình dân dụng. Đơn cử như công trình công nghiệp là công trình sản xuất vật liệu xây dựng (nhà máy sản xuất xi măng; mỏ khai thác vật liệu xây dựng và các công trình sản xuất vật liệu/sản phẩm xây dựng khác), rõ ràng để xây dựng và vận hành, nhà máy phải sử dụng các kết cấu hạ tầng giao thông (đường xá, cầu cống, hệ thống điện nước…) thế thì tại sao công trình này lại nằm ngoài đối tượng chịu thuế. Thực tiễn hiện nay nhiều nước cũng đã điều tiết thuế lên loại công trình này như Hàn Quốc, Singapore, Campuchia…[18]
Thứ hai, với cơ sở lý luận như trên, hệ quả là, người nào được hưởng lợi càng nhiều thì phải nộp thuế cho Nhà nước càng cao. Bởi thế, công trình thương mại, dịch vụ càng phải đưa vào đối tượng chịu thuế. Thế nhưng phương án hai của Dự thảo lại chỉ quy định nhà ở. Theo giải trình, lý do đưa ra là ở Việt Nam việc đánh thuế đối với nhà và công trình thương mại, dịch vụ sẽ có tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.[19] Lý do này hoàn toàn không hợp lý và thiếu thuyết phục và nhất là không đảm bảo nguyên tắc công bằng trong thu thuế. Đối với nhà ở, người dân sử dụng chỉ để ở, không có mục đích kinh doanh, thương mại tức không có giá trị sinh lời nhưng vẫn phải nộp thuế cho Nhà nước. Trong khi đó, các công trình thương mại như trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn… sinh lời cao, việc tồn tại hoạt động của các công trình này phụ thuộc rất lớn và chặt chẽ với cơ sở hạ tầng kỹ thuật thì lại không chịu thuế. Nếu Nhà nước e ngại tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì có thể cân nhắc đến các quy định miễn giảm, hoặc đặt trong mối tương quan với các sắc thuế khác hiện nay đang tác động lên doanh nghiệp như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng để xem xét, đánh giá toàn diện và có sự điều chỉnh hợp lý.
Ngoài ra, một nội dung nữa trong Dự thảo liên quan đến đối tượng chịu thuế là nhà ở vấp phải dư luận mạnh mẽ đó là ngưỡng chịu thuế của nhà ở. Theo đó, Dự thảo đưa ra hai ngưỡng chịu thuế để xem xét là nhà ở có giá tính thuế là 700 triệu và 1 tỷ đồng. Ở đây, tác giả không đánh giá trị giá tính thuế nhà bao nhiêu là hợp lý bởi mọi con số đưa ra là vô nghĩa nếu như chúng không dựa trên các kết quả khảo sát thực tế như: giá trị trung bình căn nhà hiện nay người dân sở hữu, bao nhiêu người sở hữu nhà (trong đó nguồn gốc nhà do mua, thừa kế, tặng cho…), thu nhập bình quân của những người sở hữu nhà (đánh giá khả năng chịu thuế)…
Theo quan điểm cá nhân đã trình bày phần đối tượng chịu thuế là đất, tương tự tác giả cho rằng, Nhà nước nên xem xét đánh thuế từ căn nhà thứ hai (căn nhà thứ nhất dùng để ở nên khuyến khích, hỗ trợ không đánh thuế), căn nhà thứ hai không sử dụng hoặc sử dụng để cho thuê lại, kinh doanh sẽ chịu thuế, thứ nhất nhằm sử dụng nhà hiệu quả, tiết kiệm, chia sẻ cơ hội sở hữu nhà cho người khác, thứ hai nhằm động viên một phần lợi nhuận thu được của người sở hữu nhà cho Nhà nước nhằm thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước có thể xem xét ở quy định miễn giảm nếu người sở hữu căn nhà thứ hai chứng minh được hoặc có lý do chính đáng hợp lý buộc phải mua căn nhà thứ hai như: ly thân tạm thời ở riêng, nhà thứ hai để điều trị hay điều dưỡng, công việc đòi hỏi, hay dành cho con cái đi học xa nhưng phụ thuộc gia đình, sinh viên không có thu nhập hoặc gia đình có thu nhập thấp dưới trung bình…[20] Sau khi xem xét tất cả điều này, việc đánh thuế lên căn nhà thứ hai, thứ ba sẽ không vấp phải sự phản đối của người dân nữa, theo đó ngưỡng chịu thuế của nhà cũng không còn là vấn đề quan trọng. Vấn đề còn lại nên xem xét là đánh thuế dựa trên cơ sở nào: giá trị căn nhà hay diện tích. Nội dung này sẽ được phân tích ở bài viết khác.
Tóm lại, với những phân tích trong bài viết của mình, tác giả đã chỉ ra các điểm bất hợp lý, chưa rõ ràng trong Dự thảo Luật Thuế tài sản về đối tượng chịu thuế đồng thời đề xuất các phương án giải quyết. Thứ nhất, Nhà nước cần làm rõ mục đích trọng tâm khi xây dựng Luật Thuế tài sản là gì từ đó xác định bản chất của thuế, đặt lại tên luật thuế và quy định đối tượng chịu thuế theo hướng thể hiện rõ phạm vi và mục đích ban hành luật. Thứ hai, để việc ban hành luật được sự đồng thuận ủng hộ của người dân, Nhà nước cần tuân thủ các yêu cầu đặt ra khi xây dựng luật, cụ thể ở đây là đối tượng chịu thuế, đó là đảm bảo các yêu cầu: không trùng thuế, phù hợp với khả năng nộp thuế và đảm bảo công bằng xã hội. Thứ ba, đối tượng chịu thuế được đề xuất với các phân tích cụ thể về tính hợp lý và thực tiễn áp dụng là đất và công trình xây dựng trên đất. Vì Dự thảo Luật Thuế tài sản còn đang trong giai đoạn soạn thảo, tiếp thu cho ý kiến, nên với sự phản đối từ dư luận nhìn ở khía cạnh tích cực người dân rất quan tâm đến đạo luật thuế này, qua đó, Nhà nước có cơ hội nhận được nhiều ý kiến đóng góp của người dân để chỉnh sửa và hoàn thiện luật. Thiết nghĩ, đạo luật thuế sẽ hoàn thiện, hợp lý, đạt được mục đích điều tiết và dung hoà được lợi ích của cả hai bên (Nhà nước và người dân) nếu nó được xem xét toàn diện cả trên cơ sở lý luận lẫn thực tiễn.
CHÚ THÍCH
[1] Bộ Tài chính, Dự thảo Tờ trình về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản, ngày 17/04/2018.
[2] Dương Xuân Nam, “Làm giàu từ đất hay chuyện buồn của các tỷ phú Việt”, Báo điện tử Vietnamnet, truy cập ngày 20/7/2018.
[3] Hồ Quốc Tuấn, “Chuyện thế giới đánh thuế tài sản và mặt trái của thuế tài sản”, Đầu tư online, truy cập ngày 20/07/2018.
[4] Khoản 21, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: “Tiền sử dụng đất là số tiền mà người sử dụng đất phải trả cho Nhà nước khi được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất”.
[5] Trích Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện chính sách thu liên quan đến tài sản của Bộ Tài chính ngày 17/04/2018: “Khi Nhà nước bán/ giao đất sẽ thu về một số tiền tương ứng với giá trị tài sản của đất đai được xác định phụ thuộc vào mục đích sử dụng (khả năng sinh lời) và thời gian sử dụng. Đây là khoản tiền mà người mua hoặc được giao đất phải nộp để có quyền sở hữu/quyền sử dụng đất, sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính thì người được giao đất có các quyền theo quy định. Về bản chất, tiền sử dụng đất không mang tính chất thuế của Nhà nước mà thể hiện quyền lợi của chủ sở hữu đất”.
[6] Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật thuế, Nxb. Hồng Đức, 2012, tr. 361.
[7] Khoản 1 Điều 2 Dự thảo Luật Thuế tài sản.
[8] Khoản 2 Điều 3 Dự thảo Luật Thuế tài sản.
[9] Khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2013.
[10] Khoản 1, Điều 3 Dự thảo quy định đất phi nông nghiệp là đối tượng không chịu thuế gồm: đất xây dựng trụ sở cơ quan; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất xây dựng công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích công cộng (gồm đất giao thông; thủy lợi; đất có di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất sinh hoạt cộng đồng, khu vui chơi, giải trí cộng đồng; đất công trình năng lượng; đất công trình bưu chính, viễn thông; đất chợ; đất bãi thải, xử lý chất thải và đất công trình công cộng khác); đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng; đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối, và mặt nước chuyên dùng; đất phi nông nghiệp khác gồm đất làm nhà nghỉ, lán, trại cho người lao động trong cơ sở sản xuất; đất xây dựng kho và nhà để chứa lâm sản, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, máy móc, công cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đất xây dựng công trình khác của người sử dụng đất không nhằm mục đích kinh doanh mà công trình đó không gắn liền với đất ở
[11] Xem Tờ trình Về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản, tlđd.
[12] Theo Tờ trình về đề nghị xây dựng Dự án Luật Thuế tài sản, Bộ Tài chính cho rằng việc đánh thuế lên căn nhà thứ hai không đảm bảo công bằng trong trường hợp người chỉ có một căn nhà diện tích lớn hoặc giá trị lớn thì không bị đánh thuế, trong khi người có 2 căn nhà mỗi nhà 50m2 lại bị đánh thuế. Để giải quyết vấn đề này có hai cách: một là người dân phải cân nhắc trong việc mua nhà ở lựa chọn căn nhà phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính; hai, Bộ có thể thêm vào quy định miễn giảm thuế về vấn đề này trên cơ sở hạn mức sử dụng đất.
[13] Khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2013.
[14] Khoản 1 Điều 3 Dự thảo Luật Thuế tài sản.
[15] Điểm c khoản 1 Điều 2 Dự thảo Luật Thuế tài sản.
[16] Nghị định số 46/2015/NĐ-CP quy định công trình dân dụng gồm: 1. Nhà ở: nhà chung cư và các loại nhà ở tập thể khác; nhà ở riêng lẻ; 2. Công trình công cộng: a) Công trình giáo dục: nhà trẻ, trường mẫu giáo; trường phổ thông các cấp; trường đại học và cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp; trường dạy nghề, trường công nhân kỹ thuật, trường nghiệp vụ và các loại trường khác; b) Công trình y tế: bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên khoa từ trung ương đến địa phương; các phòng khám đa khoa, khám chuyên khoa khu vực; trạm y tế, nhà hộ sinh; nhà điều dưỡng, phục hồi chức năng, chỉnh hình, nhà dưỡng lão; cơ sở phòng chống dịch bệnh; các cơ sở y tế khác; c) Công trình thể thao: công trình thể thao ngoài trời, công trình thể thao trong nhà và công trình thể thao khác; d) Công trình văn hóa: trung tâm hội nghị, nhà hát, nhà văn hóa, câu lạc bộ, rạp chiếu phim, rạp xiếc, vũ trường; công trình vui chơi, giải trí và các công trình văn hoá tập trung đông người khác; các công trình di tích; bảo tàng, thư viện, triển lãm, nhà trưng bày, tượng đài ngoài trời và các công trình khác có chức năng tương đương; pa nô, biển quảng cáo độc lập; đ) Công trình tôn giáo, tín ngưỡng; e) Công trình thương mại, dịch vụ và trụ sở làm việc của các tổ chức xã hội, sự nghiệp và doanh nghiệp: công trình đa năng, khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ; trụ sở làm việc của các tổ chức xã hội, sự nghiệp và doanh nghiệp; trung tâm thương mại, siêu thị; chợ; cửa hàng, nhà hàng ăn uống, giải khát và công trình tương tự khác; nhà phục vụ thông tin liên lạc: bưu điện, bưu cục, nhà lắp đặt thiết bị thông tin; cáp treo vận chuyển người; g) Nhà ga: hàng không, đường thủy, đường sắt, bến xe ô tô; h) Trụ sở cơ quan nhà nước: nhà làm việc của Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước; nhà làm việc của các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn các cấp; trụ sở tổ chức chính trị; trụ sở tổ chức chính trị – xã hội.
[17] Bộ Tài chính, Báo cáo tác động của Luật Thuế tài sản, ngày 17/04/2018.
[18] Trích Tờ trình về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản: “Hàn Quốc quy định các loại nhà chịu thuế tài sản gồm nhà ở, nhà cho sân golf và các dịch vụ xa xỉ, tòa nhà dùng để làm nhà máy ở khu dân cư và các tòa nhà với mục đích khác; Sing-ga-po quy định thu thuế đối với nhà ở, tòa nhà (trong đó có nhà thương mại, công nghiệp); Cam-pu-chia quy định thu thuế đối với nhà ở, tòa nhà và công trình trên đất”.
[19] Xem Dự thảo Tờ trình về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản, tlđd.
[20] Nguyễn Sỹ Phương, “Thuế tài sản dựa trên căn cứ lý luận thực tiễn nào?”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn online, http://www.thesaigontimes.vn/272287/thue-tai-san-dua-tren-can-cu-ly-luan-thuc-tien-nao.html, truy cập ngày 15/06/2018.
- Tác giả: TS. Lê Thị Ngân Hà
- Tạp chí Khoa học pháp lý số 07(119)/2018 – 2018, Trang 24-32
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý