Một số kiến nghị sửa đổi quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
Tác giả: TS. Lê Thị Ngân Hà
TÓM TẮT
Bài viết tập trung phân tích những bất cập, hạn chế trong Quy chế Cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2002/QĐ-NHNN, đồng thời đối chiếu so sánh với dự thảo Thông tư quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Từ đó, bài viết nêu lên những điểm còn chưa hợp lý trong dự thảo. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Xem thêm:
- Nguyên tắc độc lập của thư tín dụng: một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cá nhân khi ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng – ThS. Trần Thị Diệu Hà
- Xử lý tài sản thế chấp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng – ThS. Lê Minh Thành
- Quyền tiếp cận thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng – TS. Phan Thị Thành Dương
TỪ KHÓA: Quy chế, Cho vay, Tổ chức tín dụng, Khách hàng, Góp ý sửa đổi Luật, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam.
Trong các hoạt động ngân hàng, hoạt động cho vay được xem là hoạt động chính, chủ yếu của các tổ chức tín dụng (TCTD). Các vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay cũng diễn ra khá thường xuyên và với mức độ ngày càng tăng. Hiện nay, các quy định pháp luật làm cơ sở pháp lý chính cho hoạt động cho vay là Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Quyết định số 1627/2002/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về Quy chế Cho vay của TCTD đối với khách hàng đã được ban hành cách đây hơn 10 năm. Thực tế áp dụng cho thấy, Quy chế Cho vay đã bộc lộ nhiều bất cập, mâu thuẫn với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và pháp luật có liên quan. Văn bản này cũng không còn phù hợp với sự phát triển của bối cảnh kinh tế hiện nay, khi mà các sản phẩm tín dụng ngày càng đa dạng, phong phú. Do đó, việc cần sớm ban hành Quy chế Cho vay mới phù hợp với thực tiễn, thống nhất với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động cho vay của TCTD, góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng là điều hết sức cần thiết.
Hiện đã có dự thảo Thông tư Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng do Vụ Chính sách tiền tệ thuộc Ngân hàng Nhà nước làm đầu mối tập trung lấy ý kiến của các cơ quan ban ngành có liên quan và đặc biệt là lấy ý kiến góp ý từ phía các TCTD. Nội dung của Dự thảo cơ bản kế thừa các nội dung của Quy chế Cho vay, bên cạnh đó, những điều luật còn bất cập, mâu thuẫn cũng đã được sửa đổi, bổ sung. Đặc biệt một số quy định hoàn toàn mới đã được đưa vào nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, cũng có vài vấn đề trong dự thảo cần phải xem xét lại. Bài viết tập trung vào một số hạn chế của Quy chế Cho vay, phân tích, so sánh với dự thảo để từ đó đề xuất một số kiến nghị.
1. Đối tượng áp dụng trong Quy chế Cho vay
Quy chế Cho vay điều chỉnh quan hệ cho vay giữa TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng không phải là tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống nên đối tượng được áp dụng trong quy chế này gồm:
Thứ nhất là chủ thể cho vay: theo quy chế hiện hành, chủ thể cho vay là TCTD được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010[1]. Quy định này tuy không sai nhưng với vai trò là văn bản hướng dẫn thi hành thì có phần không rõ ràng. Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, các chủ thể được phép thực hiện nghiệp vụ cho vay rất rộng. Nếu căn cứ theo phạm vi hoạt động ngân hàng, chủ thể cho vay gồm: tổ chức tín dụng là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân. Ngay trong loại hình tổ chức tín dụng là ngân hàng cũng gồm ba loại là ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã và ngân hàng chính sách.[2] Nếu căn cứ vào hình thức tổ chức của tổ chức tín dụng, chủ thể cho vay gồm: ngân hàng thương mại trong nước, ngân hàng thương mại nhà nước, tổ chức tín dụng phi ngân hàng trong nước, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô.[3] Đối chiếu với phạm vi điều chỉnh của Quy chế thì quy định như vậy chưa phản ánh được chính xác chủ thể cho vay trong quan hệ cho vay thuộc phạm vi điều chỉnh. Có thể thấy rằng, loại hình ngân hàng chính sách sẽ không là đối tượng áp dụng bởi mục tiêu hoạt động của ngân hàng này nhằm phục vụ các chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước, do đó hoạt động của ngân hàng thường được điều chỉnh bởi quy chế riêng.[4]
Ngoài ra cũng cần xem xét chủ thể cho vay là công ty cho thuê tài chính. Bởi theo quy định, công ty cho thuê tài chính chỉ được cho vay bổ sung vốn lưu động đối với bên thuê tài chính[5]. Vì thế, hoạt động cho vay của công ty cho thuê tài chính cũng bị giới hạn ở một số nội dung. Một là, chủ thể vay ở đây không phải là mọi cá nhân, tổ chức nêu tại khoản 2 Điều 2 Quy chế Cho vay mà chỉ những cá nhân, tổ chức nào thỏa mãn điều kiện là bên thuê tài chính mới được cho vay, thường là các doanh nghiệp vay vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh do đặc thù của hoạt động cho thuê tài chính. Hai là, mục đích cho vay của công ty cho thuê tài chính cũng không nhằm đáp ứng đa dạng nhu cầu vốn vay hợp pháp của khách hàng được nêu tại Điều 7, Điều 9 Quy chế Cho vay mà chỉ nhằm bổ sung vốn lưu động cho bên thuê. Ba là, vì mục đích bổ sung vốn lưu động nên thời hạn cho vay và thể loại cho vay cũng là ngắn hạn, phương thức cho vay vì thế cũng đơn giản có thể là cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi, nếu áp dụng các quy định tại Điều 8, Điều 10 và Điều 16 Quy chế Cho vay rõ ràng là không phù hợp.
Như vậy, so với nội dung hoạt động cho vay là một phương thức cấp tín dụng nhằm đáp ứng mọi nhu cầu vốn tiền tệ cho khách hàng thì nội dung hoạt động cho vay của công ty cho thuê tài chính được hiểu rất hẹp, ở đây giống như một hình thức hỗ trợ vốn, chia sẻ khó khăn tạm thời của công ty cho thuê tài chính đối với khách hàng thuê tài chính. Do đó, nếu đưa chủ thể này vào đối tượng áp dụng như dự thảo hiện tại để từ đó áp dụng các quy định về điều kiện cho vay, phương thức cho vay, thời hạn cho vay… sẽ không hợp lý. Với lẽ trên, chúng tôi kiến nghị nên quy định chủ thể cho vay cụ thể gồm: tổ chức tín dụng là ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, tổ chức tín dụng phi ngân hàng là công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thứ hai, chủ thể vay: khoản 1 Điều 1 Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Cho vay của TCTD đối với khách hàng quy định: “khách hàng vay tại TCTD là các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài có nhu cầu vay vốn, có khả năng trả nợ để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống ở trong nước và nước ngoài”. So với Quy chế, chủ thể vay được liệt kê trong Dự thảo cụ thể hơn gồm: “Tổ chức trong nước (trừ tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài), hộ gia đình, tổ hợp tác và cá nhân trong nước; Tổ chức, cá nhân nước ngoài là người cư trú hợp pháp tại Việt Nam; Tổ chức, cá nhân nước ngoài là người không cư trú”.[6] Như vậy, về cơ bản cả dự thảo và Quy chế khi quy định về chủ thể vay đều gồm hai nhóm là tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tiêu chí phân nhóm dựa vào quốc tịch của chủ thể.
Đối với tổ chức, cá nhân trong nước, chủ thể là TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị loại trừ, bởi hoạt động cho vay giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với nhau được điều chỉnh bởi Thông tư số 21/2012/TT-NHNN ngày 18/6/2012 và Thông tư số 01/2013/TT-NHNN ngày 07/01/2013. Vấn đề cần bàn ở đây là có nên đưa hộ gia đình và tổ hợp tác vào chủ thể vay ở đây không? Đó cũng là vấn đề gặp nhiều khúc mắc trong quá trình góp ý sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005: có nên công nhận hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ dân sự? Một số ý kiến cho rằng, hộ gia đình và tổ hợp tác là các chủ thể đã và đang tham gia giao lưu dân sự ở Việt Nam, Bộ luật Dân sự cần tiếp tục ghi nhận các chủ thể này để tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể này hoạt động và để bảo đảm sự ổn định của các quan hệ dân sự có liên quan. Mặt khác, Luật Đất đai năm 2013 vẫn quy định hộ gia đình là chủ thể của quan hệ giao đất, cho thuê đất.[7] Đặt vấn đề này trong nguyên tắc cơ bản của pháp luật ngân hàng là đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng, ở đây là hoạt động cho vay, chúng tôi cho rằng, không nên quy định hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể vay bởi những rủi ro trong việc ký kết hợp đồng cho vay với các chủ thể này mang lại sau đây:
Một là, để ký kết hợp đồng cho vay hay chuyển giao nguồn vốn tín dụng, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần xác định rõ tư cách chủ thể của khách hàng vay: hộ gia đình là ai, ở đâu, năng lực hành vi, năng lực pháp luật, người đại diện là ai, có thẩm quyền đại diện không? Ở góc độ pháp lý, việc này đảm bảo tính hiệu lực của hợp đồng, bởi lẽ một hợp đồng có hiệu lực trước hết phải đảm bảo điều kiện người giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự.[8] Ở góc độ nghiệp vụ, việc này đảm bảo cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài biết rõ khách hàng vay là ai để thu hồi nợ. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề hết sức nan giải trên thực tế bởi thiếu hẳn cơ sở pháp lý quy định tư cách thành viên hộ gia đình (xác định theo sổ hộ khẩu hay dựa vào quan hệ hôn nhân – Giấy đăng ký kết hôn, quan hệ huyết thống – Giấy khai sinh, Giấy xác nhận nuôi con, Giấy chứng nhận tài sản – Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…).[9]
Hai là, hợp đồng cho vay chỉ phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả hộ gia đình hay ràng buộc trách nhiệm của hộ khi mục đích sử dụng vốn là vì lợi ích chung của hộ.[10] Điều này cũng rất khó xác định khi đại diện hộ gia đình nhân danh hộ để xác lập giao dịch vay vốn.
Ba là, trong trường hợp tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình được đem đảm bảo vay vốn thì phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.[11] Nếu không, hợp đồng bảo đảm tiền vay rất dễ bị vô hiệu. Tuy nhiên khó khăn trong việc xác định tư cách thành viên hộ gia đình như trình bày ở trên, cộng với các bất cập, mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật về tài sản đã gây khó khăn, rủi ro cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.[12]
Bốn là, trong trường hợp khách hàng vay mất khả năng thanh toán, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể sẽ xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn. Lúc này lại liên quan đến vấn đề tài sản bảo đảm nào được xác định của hộ gia đình hay của riêng thành viên để từ đó xác định trách nhiệm trả nợ.[13] Đây cũng là một thách đố, bởi pháp luật dân sự hiện hành cũng không quy định tiêu chí cụ thể để xác định tài sản chung của hộ ngoài quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung.[14]
Năm là, đối với tổ hợp tác, tương tự như các vấn đề đặt ra đối với hộ gia đình, các quy định về tổ hợp tác trong Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng còn mập mờ, chưa cụ thể như: về thời điểm thành lập, cơ chế công khai tổ viên, người đại diện và tài sản của tổ hợp tác, trách nhiệm dân sự khi tổ hợp tác tham gia giao dịch… Chính vì vậy, việc xác định tư cách, năng lực chủ thể, thẩm quyền đại diện, xử lý tài sản bảo đảm của tổ hợp tác cũng gặp khó khăn và rủi ro không kém.
Ngoài những rủi ro nêu trên, việc không ghi nhận hộ gia đình, tổ hợp tác trong các quan hệ pháp luật tố tụng, quan hệ kinh tế theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Thương mại năm 2005, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã gây khó khăn cho việc xác định tư cách và trách nhiệm pháp lý của hai chủ thể vay vốn này trong quy trình thẩm định vay vốn và thu hồi nợ[15]. Bên cạnh đó, xét về ý nghĩa thực tiễn của quy định về tư cách chủ thể hộ gia đình, tổ hợp tác trong quan hệ vay vốn, như phân tích ở trên thật khó để xác định chính xác chủ thể này, trên thực tế khi thẩm định các ngân hàng vẫn nhầm lẫn giữa hộ gia đình theo sổ hộ khẩu và hộ gia đình theo cách hiểu thông thường; nhầm lẫn giữa tổ hợp tác với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự với các chủ thể có tên là “tổ” như tổ trồng cây thí điểm, tổ tình thương, tổ cung ứng vật tư, tổ làm đất…[16] Hơn nữa, thực tiễn cho vay tại các TCTD cũng cho thấy, số lượng các giao dịch liên quan đến hộ gia đình, tổ hợp tác thực hiện với tư cách chủ thể vay vốn là rất ít.
Tóm lại, để đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay, hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra, ngăn ngừa các tác động xấu đến kinh tế – xã hội, chủ thể vay vốn cần đảm bảo các tính chất ổn định, bền vững và đặc biệt là tính rõ ràng trong việc xác định tư cách pháp lý và trách nhiệm dân sự. Chính vì thế, chúng tôi cho rằng, chỉ nên xem xét tư cách chủ thể vay vốn của hộ gia đình và tổ hợp tác dưới góc độ cá nhân vay vốn. Thực tế giao kết hợp đồng tín dụng hiện nay tại các TCTD cũng xác định rõ chủ thể hộ gia đình, tổ hợp tác vay vốn trong hợp đồng là các cá nhân hay nhóm các cá nhân cụ thể để từ đó xác định trách nhiệm trả nợ.
Đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, việc quy định phân thành hai nhóm người cư trú và người không cư trú là không cần thiết. Bởi một là, về cơ bản, các quy định về hoạt động cho vay như điều kiện vay vốn, phương thức vay vốn, hạn mức vay vốn… đối với hai nhóm này là như nhau, không hề có sự phân định, khác biệt. Hai là, xét về đặc điểm, chủ thể vay là người cư trú có độ tin cậy và ổn định hơn là người không cư trú, vì vậy các điều kiện, phương thức cho vay và các nội dung có liên quan có phần đơn giản hơn. Tuy nhiên đó là các quy định cụ thể sẽ được điều chỉnh trong Quy chế Cho vay nội bộ của các TCTD, còn với vai trò là quy định khung mang tính tính chất định hướng thì Quy chế Cho vay chỉ quy định các nội dung cơ bản nhất.
Với phân tích trên, theo chúng tôi, chủ thể vay nên quy định gồm: “Tổ chức (trừ tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài), cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật dân sự”.
2. Điều kiện vay vốn
Về cơ bản, chủ thể vay vốn phải thỏa mãn năm điều kiện: năng lực chủ thể, mục đích sử dụng vốn hợp pháp, có khả năng tài chính, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật, thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam[17].
Đối với điều kiện thứ nhất, chủ thể vay phải có năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Tùy theo chủ thể là cá nhân hay tổ chức, trong nước hay nước ngoài mà quy định về năng lực chủ thể là khác nhau. Văn bản pháp lý chính quy định về vấn đề này là Bộ luật Dân sự năm 2005 hiện đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung, do đó không tránh khỏi những thay đổi trong nội dung quy định. Vì thế, chúng tôi đồng ý với dự thảo chỉ nên quy định khái quát mà không cần phải liệt kê cụ thể năng lực chủ thể như Quy chế Cho vay. Hơn nữa, để xác định rõ năng lực chủ thể của từng chủ thể, TCTD cũng cần phải căn cứ vào các quy định chuyên ngành như Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Hợp tác xã năm 2012…. Do vậy, Quy chế không cần phải quy định cụ thể.
Đối với điều kiện thứ hai, cả Quy chế Cho vay và dự thảo đều quy định “mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp”. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là chưa rõ ràng. Theo cách hiểu của quy định, chỉ cần mục đích sử dụng vốn vay không vi phạm pháp luật, không rơi các trường hợp bị cấm thì chủ thể vay có thể vay vốn. Cụ thể, mục đích vay vốn phải không thuộc trường hợp nhu cầu vốn không được cho vay quy định tại Điều 9 của Quy chế Cho vay. Tuy nhiên, thực tế hoạt động cho vay cho thấy, có trường hợp mục đích vay vốn còn phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế, xã hội, chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể dẫn chứng trong năm 2011, để thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thực hiện giảm tốc độ và tỷ trọng cho vay trong lĩnh vực phi sản xuất và áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại. Như vậy, các mục đích vay vốn này tuy vẫn hợp pháp nhưng các ngân hàng đều buộc phải ngừng hoặc giảm cho vay. Ngoài ra cũng cần lưu ý mục đích vay vốn đối với chủ thể vay là tổ chức. Mục đích vay vốn do người đại diện của tổ chức thiết lập phải phù hợp với mục đích thành lập hay hoạt động chung của tổ chức, bởi nếu trái thì cho dù là hợp pháp cũng khó có thể vay vốn. Với những phân tích trên, chúng tôi kiến nghị nên quy định rõ: mục đích sử dụng vốn vay phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với điều kiện thứ tư, dự thảo đã sửa đổi quy định theo hướng rút gọn: “Có phương án sử dụng vốn khả thi” thay vì quy định cụ thể “có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định pháp luật”. Chúng tôi đồng ý với cách sửa đổi này với các lý do sau đây:
Thứ nhất, không phải chủ thể vay vốn nào cũng lập dự án đầu tư như vay vốn nhằm bổ sung nguồn vốn ngắn hạn để mua nguyên vật liệu, hàng hóa, trả lương và các chi phí sản xuất kinh doanh. Thường khi có mục đích sử dụng vốn là dài hạn, chủ thể vay mới lập dự án đầu tư như vay vốn nhằm mua sắm máy móc, các loại xe thương mại, trang thiết bị văn phòng, xây dựng hoặc tu sửa lại cơ sở kinh doanh. Do vậy không cần thiết phải quy định chủ thể vay cần có dự án đầu tư.
Thứ hai, xét về tính khả thi và hiệu quả của phương án sử dụng vốn, tính khả thi của phương án được hiểu là khả năng thực hiện trên thực tế của phương án, nói cách khác phương án sử dụng vốn đó có triển khai, tổ chức và thực hiện được trên thực tế hay chỉ dừng lại trên giấy. Việc đặt ra điều kiện về tính khả thi của phương án sử dụng vốn giúp TCTD đánh giá được khả năng có thu hồi được vốn hay không, việc giải ngân nguồn vốn cho mục đích, phương án sử dụng vốn như vậy là thiết thực và hữu ích. Ngược lại, tính hiệu quả của phương án lại biểu hiện kết quả mà phương án đem lại như: khối lượng sản phẩm, dịch vụ được tạo ra; lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn đầu tư; thời gian hoàn vốn hay thời hạn thu hồi vốn đầu tư.[18] Như vậy, đánh giá tính hiệu quả của phương án giúp TCTD kết luận có thu hồi vốn được đầy đủ, có đúng hạn hay không. Có thể thấy rằng, đối với mục đích sử dụng vốn nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân thì tính khả thi, hiệu quả của phương án sử dụng vốn đặt ra là cần thiết và hợp lý, nhưng đối với các mục đích cho vay nhằm phục vụ các mục tiêu chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước như cho vay để xây dựng các khu xử lý rác thải, cho vay xây dựng công trình thủy điện… thì vấn đề hiệu quả khó có thể đánh giá được. Với những phân tích trên, chúng tôi cho rằng quy định điều kiện “có phương án sử dụng vốn khả thi” là phù hợp.
3. Những nhu cầu vốn không được vay
Như đã phân tích ở trên, chủ thể muốn vay vốn tại TCTD phải thỏa mãn năm điều kiện vay vốn, trong đó phải đáp ứng điều kiện mục đích vay vốn vay phải phù hợp với quy định pháp luật. Đây là một trong các điều kiện quan trọng khi TCTD tiến hành thẩm định khách hàng vay, bởi nếu mục đích sử dụng vốn vay là bất hợp pháp thì hệ quả pháp lý là hợp đồng cho vay cũng vô hiệu và đương nhiên TCTD cũng gặp rủi ro trong vấn đề thu hồi vốn. Chính vì thế, trước khi xem xét với mục đích sử dụng vốn như vậy, phương án sử dụng vốn có khả thi không thì TCTD cần xem xét tính hợp pháp của mục đích sử dụng vốn. Do đó, để đảm bảo tính thống nhất trong cách hiểu và hợp logic, chúng tôi cho rằng nên sửa tên Điều 9 Quy chế Cho vay “Những nhu cầu vốn không được cho vay” thành “Những mục đích sử dụng vốn không được cho vay”.
Bên cạnh đó, vài vấn đề về nội dung của điều luật này cũng cần được làm rõ. Về cơ bản, nội dung quy định của dự thảo kế thừa Quy chế Cho vay. Tại Điều 8 Dự thảo quy định: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cho vay đối với các nhu cầu vốn: Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh mà pháp luật cấm; Để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; Để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm; Để đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật cấm; Để trả nợ các khoản vay thuộc nhóm nợ xấu”.
Có thể thấy điểm sửa đổi ở đây là: Thứ nhất, Dự thảo đã bổ sung thêm một trường hợp là “Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh mà pháp luật cấm”. Thứ hai, Dự thảo đã thay thế quy định “Việc đảo nợ, các tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định riêng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” thành “Để trả nợ các khoản vay thuộc nhóm nợ xấu”. Quy định như vậy đã giải quyết được sự mập mờ giữa việc được phép hay không được phép cho vay đảo nợ, đồng thời giải quyết luôn được vấn đề cần phải có quy định riêng về đảo nợ vì luật đã không đề cập thuật ngữ này. Theo Quy chế, vấn đề đảo nợ được xếp vào điều “những nhu cầu vốn không được cho vay”, thế nhưng nội dung đảo nợ lại quy định “thực hiện theo quy định riêng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Chính vì vậy thật khó để hiểu được đảo nợ có bị cấm hay không? Thực tế thì cho đến nay không tìm thấy bất kỳ văn bản hướng dẫn nào của Ngân hàng nhà nước về đảo nợ, nhưng về quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc thực hiện thì đảo nợ trong TCTD bị cấm[19] (trừ một số trường hợp như TCTD cho vay lẫn nhau để đảm bảo an toàn trong hệ thống ngân hàng, chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất của Chính phủ…).
Đảo nợ được hiểu là việc vay mới để trả một hoặc nhiều khoản nợ hiện có[20]. Theo nội dung quy định của Dự thảo, có thể hiểu, pháp luật cho phép TCTD cho vay đảo nợ với điều kiện đây không phải là nợ xấu (nợ từ nhóm ba[21]). Nói cách khác, TCTD có thể cho khách hàng vay vốn mới để trả nợ cũ cho chính TCTD đó hoặc TCTD khác với điều kiện nợ này nằm trong nhóm một và hai, tức nợ có khả năng thu hồi. Quy định như vậy cũng là hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế. Nói như vậy, không phải bất cứ khách hàng vay nào có nợ nằm trong nhóm một và hai đều có thể vay vốn mới để trả nợ cũ. Cần lưu ý là, nếu đảo nợ mà nhằm mục đích che giấu nợ xấu, để thanh toán các khoản nợ vay không có hiệu quả của các TCTD khác, gây méo mó chất lượng tín dụng thì đây là hành vi bị cấm. Bởi khả năng thu hồi vốn vay trong trường hợp là rất thấp thậm chí là mất hoàn toàn do chủ thể vay không có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả (vốn được sử dụng để trả nợ cũ), từ đó gây rủi ro cho TCTD. Nếu đảo nợ nhằm hỗ trợ, giúp đỡ các khách hàng vay tháo gỡ khó khăn, kinh doanh hiệu quả, từ đó làm lợi cho chính TCTD, có thể thu hồi vốn, lại củng cố quan hệ với khách hàng vay thì đó là hành vi cho phép và nên làm.[22]
4. Cơ cấu lại dư nợ cho vay
Trong Quy chế Cho vay không có quy định nào về vấn đề này trong khi thực tế qua quá trình hoạt động tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã và đang phát sinh một số nghiệp vụ nhằm cơ cấu lại khoản vay như cho vay trung, dài hạn để cơ cấu lại khoản vay ngắn hạn, cho vay bằng ngoại tệ để cơ cấu lại khoản vay bằng đồng Việt Nam[23]. Do đó, để tạo cơ sở pháp lý thực hiện hoạt động tín dụng, nhằm tránh tình trạng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại khoản nợ nhằm che giấu nợ xấu, che giấu tình hình hoạt động kinh doanh và tài chính không lành mạnh của khách hàng vay, Dự thảo đã quy định bổ sung thêm nội dung mới này tại Điều 14[24]. Chúng tôi cho rằng đây là quy định phù hợp, cần thiết phải có, nhất là trong bối cảnh kinh tế hiện nay khi mà nhu cầu cơ cấu lại dư nợ là có thật và ngày càng tăng. Việc ban hành quy định mới này đã giải quyết được vấn đề là giúp hoạt động này được thực hiện công khai, minh bạch thay vì để nó núp bóng, biến tướng từ đó gây khó khăn trong việc quản lý nhà nước. Tuy nhiên, về nội dung quy định, chúng tôi có vài kiến nghị sau:
– Thứ nhất, cần phải thống nhất trong cách hiểu và dùng thuật ngữ cũng như đặt tên điều luật. Nhiều ý kiến cho rằng nên đặt tên Điều 14 thành “Tái cấu trúc khoản vay”. Nếu để tên là “Cơ cấu lại dư nợ cho vay” dễ gây nhầm lẫn với điều luật “Cơ cấu lại thời hạn trả nợ”.[25] Ngay cả trong bản thuyết minh của Dự thảo, ban soạn thảo cũng dùng từ không thống nhất, lúc thì “cơ cấu lại khoản nợ”, lúc “cơ cấu lại khoản vay”. Theo quy định của Dự thảo, để “cơ cấu lại dư nợ cho vay” có ba nghiệp vụ là: Chuyển dư nợ cho vay ngắn hạn sang dư nợ trung, dài hạn tại chính TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho vay; Thay đổi đồng tiền nhận nợ (Chuyển dư nợ vay bằng ngoại tệ sang đồng Việt Nam); Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét quyết định cho vay để trả nợ trước hạn, nợ đến hạn khoản vay bằng đồng Việt Nam tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác – đây chính là một hình thức của đảo nợ.
Như vậy, bản chất của “cơ cấu lại dư nợ cho vay” là làm thay đổi tính chất khoản nợ, từ nợ ngắn hạn sang nợ dài hạn, từ nợ ngoại tệ sang nợ nội tệ, từ nợ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài này sang TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác. Kết quả của hoạt động này là cả khách hàng vay lẫn TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đều giải quyết được vấn đề khó khăn của mình. Khách hàng vay giảm được áp lực về thời hạn và số tiền trả nợ. TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài giải quyết được vấn đề nợ xấu và áp lực trích lập dự phòng rủi ro. Với phân tích trên, chúng tôi cho rằng nên đặt tên điều luật là “Cơ cấu lại danh mục nợ” bởi các nguyên nhân sau:
Một là, rõ ràng kết quả của các hoạt động này làm thay đổi danh mục nợ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
Hai là, quy định này cũng có nội dung giống với quy định tại khoản 23 Điều 3 Luật Quản lý nợ công năm 2009: “Cơ cấu lại danh mục nợ là việc thực hiện nghiệp vụ nhằm cơ cấu lại từng khoản nợ trong danh mục nợ, bao gồm đảo nợ, chuyển đổi, mua bán lại nợ, hoán đổi đồng tiền, lãi suất và các nghiệp vụ khác để giảm thiểu nghĩa vụ trả nợ, hạn chế rủi ro”. Có thể dễ dàng nhận thấy, nội dung của “cơ cấu lại danh mục nợ” bao hàm nội dung “cơ cấu lại dư nợ cho vay”. Nói cách khác, phạm vi nghiệp vụ được thực hiện trong “cơ cấu lại danh mục nợ” rộng hơn nghiệp vụ trong “cơ cấu lại dư nợ cho vay”. Đây cũng là điều dễ hiểu và có thể lý giải do tính chất khác biệt trong quản lý nợ công và nợ trong hệ thống TCTD. Do sự khác nhau trong ảnh hưởng, tác động của nghiệp vụ cơ cấu nợ đến kinh tế, xã hội mà nghiệp vụ cơ cấu lại nợ trong hệ thống TCTD có phần cẩn trọng và chặt chẽ hơn. Điều đó cũng nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Thiết nghĩ, sử dụng một thuật ngữ pháp lý đã tồn tại, hợp lý về mặt nội dung, phù hợp với cách diễn đạt của điều luật, vừa tạo sự đồng nhất trong cách hiểu, thống nhất nội dung giữa các văn bản quy phạm pháp luật là điều nên làm.
– Thứ hai, tiếp theo quan điểm trên, từ việc thay đổi tên điều luật thành “cơ cấu lại danh mục nợ” nên có phần giải thích khái niệm này trong phần “giải thích từ ngữ”. Như vậy vừa có thể tạo thuận lợi cho người đọc trong việc hiểu luật, vừa có thể tránh tình trạng nhầm lẫn hai khái niệm như nêu ở trên.
– Thứ ba, từ khái niệm “cơ cấu lại danh mục nợ”, ban soạn thảo dự thảo cũng nên xem xét lại nội dung các nghiệp vụ nhằm cơ cấu nợ. Mua bán nợ cũng được xem là nghiệp vụ làm thay đổi danh mục nợ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vấn đề này cũng đã được quy định tại Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế Mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng. Do vậy, nếu trong điều luật quy định “cơ cấu lại danh mục nợ” mà thiếu nội dung này là một thiếu sót lớn.
Tóm lại, để đảm bảo hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một kênh tín dụng chính cung cấp vốn cho sự phát triển kinh tế – xã hội, không thể thiếu một Quy chế Cho vay hoàn thiện về nội dung, phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, với các kiến nghị trên, chúng tôi mong muốn hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói chung, đồng thời nâng cao tính hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng nói riêng.
CHÚ THÍCH
* ThS Luật học, giảng viên Khoa Luật Thương mại, trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN.
[2] Khoản 1, khoản 2 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
[3] Điều 6 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
[4] Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 về Thành lập ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam.
[5] Khoản 5 Điều 112 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
[6] Điều 2 Dự thảo Thông tư Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
[7] Xem Tờ trình về dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi).
[8] Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[9] Lê Văn Đài, “Không nên quy định hộ gia đình là một chủ thể của quan hệ dân sự”
http://baodientu.chinhphu.vn/Lay-y-kien-nhan-dan-ve-du-thao-Bo-luat-dan-su-sua-doi/Khong-nen-quy-dinh-ho-gia-dinh-la-1-chu-the-cua-quan-he-dan-su/219147.vgp, truy cập ngày 2/5/2015.
Theo góp ý dự thảo Bộ luật Dân sự của Hội luật gia Việt Nam
http://www.hoiluatgiavn.org.vn/hoi-luat-gia-viet-nam-tham-gia-gop-y-du-thao-bo-luat-dan-su-sua-doi-d485.html, truy cập ngày 2/5/2015.
[10] Khoản 2 Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[11] Khoản 2 Điều 109 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[12] Theo pháp luật đất đai hiện hành, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình cũng chỉ ghi tên chủ hộ mà không ghi tên các thành viên của hộ. Mặt khác, tại khoản 1 Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai năm 2013 quy định “Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải được người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự ký tên”. Thế nhưng, Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 109 lại quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”. Câu hỏi đặt ra ở đây là: tài sản có giá trị bao nhiêu được coi là có giá trị lớn; quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất có được coi là tài sản có giá trị lớn không, nếu là tài sản có giá trị lớn, vậy việc đem tài sản này làm tài sản đảm bảo tiền vay có cần phải được tất cả thành viên của hộ gia đình đồng ý hay chỉ những người có tên trên Giấy chứng nhận đồng ý.
[13] Khoản 2 Điều 110 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Hộ gia đình chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ; nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình”.
[14] Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[15] Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Như vậy, hộ gia đình và tổ hợp tác không thể là đương sự tham gia tố tụng, không thể là chủ thể bị kiện trong vụ án kiện đòi trả nợ từ TCTD.
[16] Bùi Xuân Hải, “Bàn về tư cách chủ thể hộ gia đình và tổ hợp tác trong Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 03, năm 2013, tr. 41.
[17] Điều 7 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN.
[18] Nguyễn Đăng Dờn (2007), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nxb. Thống kê, tr. 161.
[19] Xem các văn bản: Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/3/2011; Công văn số 3739/NHNN-CSTT ngày 20/6/2012; Nghị quyết số 13/NQ-CP; Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 15/01/2014.
[20] Khoản 21 Điều 3 Luật Quản lý nợ công 2009.
[21] Xem Thông tư số 02/2013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
[22] Hồng Dung, “Cơ cấu lại nợ: Ranh giới giữa bình thường và không bình thường”, truy cập ngày 2/5/2015.
[23] Xem Bản thuyết minh Dự thảo Thông tư quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
[24] Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện việc cơ cấu lại dư nợ cho vay trên cơ sở đề nghị của khách hàng vay, cụ thể:
1. Dư nợ cho vay được cơ cấu lại gồm:
a) Tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho vay:
– Chuyển dư nợ cho vay ngắn hạn sang dư nợ trung, dài hạn tại chính tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho vay nhằm thực hiện phương án, dự án sản xuất kinh doanh đã được vay vốn ngắn hạn trước đó.
– Chuyển dư nợ vay bằng ngoại tệ sang đồng Việt Nam (thay đổi đồng tiền nhận nợ);
b) Tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác:
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét quyết định cho vay để trả nợ trước hạn, nợ đến hạn khoản vay bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác.
[25] “Dự thảo Quy chế Cho vay vốn: Cho vay khả thi hay hiệu quả”
http://www.vinacorp.vn/news/du-thao-quy-che-cho-vay-von-cho-vay-kha-thi-hay-hieu-qua/ct-569120, truy cập ngày 2/5/2015.
Tác giả: TS. Lê Thị Ngân Hà – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2015 (90)/2015 – 2015, Trang 37-44