Một số góp ý về người thừa kế theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 – Bàn về tư cách hưởng thừa kế của người được thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế
TÓM TẮT
Xác định chủ thể được hưởng thừa kế luôn là một trong những nội dung quan trọng trong pháp luật thừa kế. Sự phát triển của các phương pháp hỗ trợ sinh sản đã tăng khả năng để một cặp vợ chồng có được một người con mang huyết thống của mình. Tuy nhiên điều này cũng dẫn đến những vấn đề phát sinh nằm ngoài cách hiểu truyền thống về người được hưởng thừa kế. Trường hợp người con thành thai và được sinh ra sau thời điểm một bên vợ/chồng chết là một trong những ví dụ điển hình cần được pháp luật điều chỉnh.
Xem thêm bài viết về “Thừa kế”
- Hướng sửa đổi quy định về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong Bộ luật Dân sự 2005 – ThS. Vũ Hùng Đức
- Bình luận án lệ 26/2018/AL: Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi có Bộ luật Dân sự 2015 – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
Một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế là quy định về người thừa kế. Quy định này là tiền đề để từ đó chúng ta có thể xác định được những người được quyền hưởng di sản của người chết. Chế định thừa kế nói chung và quy định về người thừa kế nói riêng là những quy định có lịch sử lâu đời của nhân loại. Từ thời La Mã cổ đại đã có những quy định về người thừa kế. Cụ thể, những người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, nếu “người thừa kế” là thai nhi thì phải được sinh ra trong vòng 300 ngày (10 tháng) sau khi người để lại tài sản chết… Người thừa kế có quyền sở hữu tài sản thừa kế, có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của người chết trong phạm vi di sản được hưởng, có quyền từ chối không nhận di sản.[1]
Như vậy, quy định về người thừa kế đã được quan tâm và ghi nhận từ rất lâu đời. Các quy định của luật dân sự La Mã chính là tiền đề để các quốc gia trên thế giới ghi nhận lại trong pháp luật của quốc gia mình các vấn đề về dân sự nói chung và thừa kế nói riêng. Và pháp luật thừa kế Việt Nam cũng có những quy định về người thừa kế xuất phát từ sự tiếp thu, kế thừa các quy định của pháp luật La Mã cũng như của các quốc gia khác.
Người thừa kế được quy định tại Điều 635 Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS) “là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.
Tương tự, quy định về người thừa kế được ghi nhận tại Điều 631 trong Dự thảo BLDS (Dự thảo): “người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.
Nhìn chung về mặt nội dung, quy định tại Điều 631 của Dự thảo không khác nhiều so với Điều 635 của BLDS năm 2005. Cụ thể, quyền thừa kế của cá nhân được thừa nhận trong trường hợp:
– Cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế; hoặc
– Người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Tính tới thời điểm hiện tại, quy định về người thừa kế trong BLDS năm 2005 và Dự thảo về cơ bản đã đáp ứng được hầu hết các trường hợp phát sinh trên thực tế. Mặc dù vậy, có trường hợp thực tế xảy ra mà hiện tại không được pháp luật dự liệu. Đó là trường hợp sinh con với người đã chết. Cụ thể hơn, đó là tình huống sau khi người để lại di sản đã chết, thì con (về mặt sinh học) của người này được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế. Điểm đặc biệt là trẻ được thành thai sau thời điểm mở thừa kế. Đây là kết quả của sự tiến bộ về y khoa mà khoa học pháp lý chưa bắt kịp với sự tiến bộ này. Sự tiến bộ của y học đã cho phép con người áp dụng những kỹ thuật hộ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies)[2] để trữ tinh trùng/trứng của người đã chết và sau đó tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm.
Từ sự tiến bộ của y học đã làm phát sinh những tình huống pháp lý mới mẻ mà trước đây chưa có tiền lệ. Chẳng hạn như, trẻ sinh ra trong trường hợp này có được xem là con của người cha đã chết không? Đây là vấn đề mấu chốt để xác định liệu rằng trẻ sinh ra có phải là người thừa kế ở hàng thứ nhất của người cha/mẹ đã chết không? Trong trường hợp nếu những đứa trẻ này không được hưởng thừa kế của cha/mẹ đã chết của mình thì trong trường hợp thừa kế thế vị có được hưởng di sản thừa kế của ông bà của mình hay không? Đây là những câu hỏi mang tính pháp lý được đặt ra khi bàn về tư cách thừa kế của những đứa trẻ đặc biệt này. Liệu có thể sử dụng những quy định của pháp luật hiện hành để áp dụng cho những trường hợp đặc biệt này hay không? Nội dung của bài viết sẽ tập trung bàn luận về tư cách hưởng thừa kế của người thành thai và được sinh ra sau thời điểm mở thừa kế.
1. Vấn đề tồn tại của Bộ luật Dân sự liên quan đến người thừa kế
1.1. Liệu trẻ sinh ra có phải là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cha/mẹ đã chết?
BLDS hiện hành chỉ có các quy định liên quan đến việc phân chia di sản trong trường hợp người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra,[3] hoặc trong trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới.[4] Tuy nhiên, đối với trường hợp trẻ thành thai sau khi người để lại di sản chết thì hiện chưa được pháp luật dự liệu.
Về nguyên tắc, những người ở hàng thừa kế thứ nhất bao gồm cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.[5] Như vậy, hiểu theo cách này thì trong trường hợp chứng minh được trẻ là con đẻ của người chết thì trẻ đó sẽ là người thuộc diện thừa kế của người chết và thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản.
Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì phương pháp hỗ trợ sinh sản chỉ được áp dụng với người phụ nữ độc thân hoặc cặp vợ chồng vô sinh.[6] Việc xác định cha mẹ cho con theo đó cũng có những khác biệt nhất định so với trường hợp sinh sản tự nhiên. Người phụ nữ độc thân sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản sẽ được xác định là mẹ của con sinh ra. Việc xác định ai là cha sẽ không được đặt ra. Người hiến tinh trùng vì thế sẽ được giải phóng hoàn toàn khỏi các nghĩa vụ và quyền về mặt nhân thân cũng như tài sản đối với đứa trẻ này.[7]
Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.[8] Điều này có nghĩa con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy, có thể thấy rằng trường hợp con sinh ra bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản sau 300 ngày kể từ ngày hôn nhân chấm dứt (cụ thể là khi người chồng chết) hoàn toàn không được đề cập. Lúc này chúng ta chỉ có thể xem là sau khi người chồng chết, người vợ trở thành người phụ nữ độc thân và áp dụng phương pháp hỗ trợ sinh sản để sinh con. Chính vì vậy, trong trường hợp này về nguyên tắc, không thể xác định người cha pháp lý cho trẻ.
Nếu người gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi bị chết mà cơ sở lưu giữ tinh trùng, noãn, phôi nhận được thông báo kèm theo bản sao giấy khai tử hợp pháp từ phía gia đình người gửi, thì phải hủy số tinh trùng, noãn, phôi của người đó, trừ trường hợp vợ hoặc chồng của người này có đơn đề nghị lưu giữ và vẫn duy trì đóng phí lưu giữ, bảo quản.[9] Như vậy, khi việc lưu giữ tinh trùng được thực hiện hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật và người vợ sau đó sử dụng số tinh trùng của người chồng đã chết để thụ tinh trong ống nghiệm thì có thể xác định người chồng đã chết là cha của con được sinh ra hay không? Điều khoản về gửi tinh trùng (gửi noãn, gửi phôi) có ý nghĩa gì và có tác động gì đến kết quả việc xác định cha mẹ, con hay không? Có thể thấy rằng việc một bên yêu cầu lưu giữ tinh trùng (hoặc noãn, phôi) của chồng (hoặc vợ) mình sẽ mất đi phần lớn ý nghĩa nếu như con sinh ra sau đó không được xác định cha. Nếu chỉ xem đây đơn thuần là trường hợp người phụ nữ độc thân áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và chỉ xác định mẹ cho con được sinh ra thì kết quả mà chúng ta nhận được chưa thật sự hợp lý. Quyền lợi về nhân thân hoặc tài sản của con vì thế có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu việc xác định mối quan hệ cha – con không được giải quyết một cách thấu đáo.
Như vậy, với quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành thì chúng ta không thể xác định cha cho con đối với trường hợp trẻ thành thai và sinh ra sau khi người chồng chết. Những trẻ được sinh ra trong hoàn cảnh này sẽ không được xác định là “con đẻ” của người chồng đã chết và vì vậy, cũng không thể thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người này.
Cách thức xác định cha mẹ cho con của pháp luật hôn nhân và gia đình hoàn toàn phù hợp với quy định của về người thừa kế của pháp luật dân sự. Vì không được xác định là con nên việc người thành thai sau thời điểm mở thừa kế không được xác định là người thừa kế cũng là điều tất yếu. Tuy nhiên, về mặt sinh học lẫn về mặt đạo lý, trẻ vẫn là con của người cha/mẹ đã chết đó. Do đó, tư cách thừa kế của trẻ phải được cân nhắc, tính đến. Và nếu thừa nhận tư cách thừa kế của trẻ trong trường hợp này thì trẻ phải được hưởng di sản thừa kế với tư cách là người thừa kế ở hàng thứ nhất của cha/mẹ đã chết.
1.2. Tư cách thừa kế thế vị của trẻ
Điều 677 BLDS năm 2005 quy định về thừa kế thế vị như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Tư cách thừa kế thế vị của trẻ được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sau khi cha/mẹ đã chết phụ thuộc vào điểm mấu chốt đó là trẻ có phải là con của người chết hay không. Trong trường hợp trẻ sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sau khi cha/mẹ đã chết được thừa nhận có mối quan hệ cha/mẹ con với người đã chết thì làm phát sinh tư cách thừa kế của trẻ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cha/mẹ như đã phân tích nêu trên. Trên cơ sở đó, trẻ sẽ có tư cách thừa kế thế vị tài sản của ông/bà mình do cha/mẹ đã chết như những trường hợp khác được quy định tại Điều 677 BLDS năm 2005 hoặc Điều 673 Dự thảo.
1.3. Thừa kế theo di chúc – không loại trừ khả năng hưởng di sản theo di chúc của trẻ
Ngay cả trong trường hợp pháp luật không thừa nhận tư cách thừa kế theo pháp luật của trẻ trong mục 1 nêu trên, thì với tính cách đặc biệt của di chúc, khả năng hưởng di sản thừa kế theo di chúc sẽ không bị loại trừ. Thông qua di chúc của mình, người để lại di sản có quyền dành ra một khoản tài sản nhất định để cho trẻ. Điều này chỉ xảy ra khi người để lại di sản có thỏa thuận với người vợ/chồng còn sống của mình về việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sau khi mình qua đời. Nếu đối chiếu với các quy định của BLDS năm 2005 và Dự thảo thì việc người chết thông qua di chúc của mình để dành một phần tài sản cho một hoặc nhiều trẻ sẽ được sinh ra trong tương lai không làm mất đi hiệu lực của di chúc.
Nói cách khác, trong trường hợp này, ý nguyện của người lập di chúc được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vậy, trong trường hợp ngược lại, nếu người để lại di sản có ý nguyện sẽ có con sau khi mình qua đời thông qua kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, nhưng sau đó người còn sống không thực hiện ý nguyện này thì di chúc liên quan đến phần tài sản đó của trẻ sẽ được sinh ra trong tương lai có hiệu lực không? Đây là một vấn đề phải cần xem xét một cách thấu đáo.
Đồng thời, nếu thừa nhận tư cách thừa kế theo di chúc của trẻ trong trường hợp này thì việc cần thiết đặt ra là phải thiết lập được một khoảng thời gian nhất định mà trong khoảng thời gian đó trẻ phải được sinh ra. Điều này xuất phát từ những vấn đề liên quan đến quyền lợi ích của người thừa kế khác. Bên cạnh đó, việc định ra một khoảng thời gian này còn phải phù hợp với các quy định pháp luật liên quan đến thời hiệu về thừa kế.[10] Trong trường hợp trẻ không được sinh ra trong một khoảng thời gian nhất định mà không có lý do chính đáng, thì phần di sản để dành chưa chia đó sẽ được đem chia như trường hợp khoản 1 Điều 685 BLDS năm 2005 hoặc khoản 1 Điều 681 của Dự thảo.
1.4. Quy định pháp luật của Hoa Kỳ
Vấn đề trẻ thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế nhờ vào kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là vấn đề pháp lý không chỉ Việt Nam phải đối mặt. Ở Hoa Kỳ, tư cách thừa kế của trẻ được thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế nhờ vào kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi về mặt đạo đức lẫn pháp lý. Trên thực tế có những vụ việc trẻ được thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế và người mẹ yêu cầu cơ quan An sinh xã hội căn cứ vào thâm niên đóng thuế an sinh xã hội của người chồng (đã chết) trước đó để cấp các quyền lợi an sinh xã hội (Social Security benefits)[11] cho người con đó. Cơ quan An sinh xã hội thường từ chối yêu cầu này. Do vụ việc không được giải quyết một cách cụ thể nên nhiều trường hợp Tòa án đã phải vào cuộc. Và kết quả giải quyết của các vụ việc này gồm hai xu hướng chính: (i) phán quyết có lợi cho người mẹ – buộc cơ quan An sinh xã hội chấp nhận yêu cầu của người mẹ và (ii) bác bỏ yêu cầu của người mẹ và ra phán quyết có lợi cho cơ quan An sinh xã hội. Vụ việc giữa cơ quan An sinh xã hội và gia đình Capato là một ví dụ điển hình.
Karen Capato và Robert Capato là hai vợ chồng. Khi biết mình mắc bệnh ung thư, Robert đã tiến hành gửi tinh trùng vào ngân hàng. 18 tháng sau khi Robert qua đời, Karen thực hiện việc thụ tinh trong ống nghiệm để sinh ra đời 2 bé gái từ tinh trùng của người chồng đã chết. Karen đã làm hồ sơ để 2 bé gái này được hưởng quyền lợi an sinh xã hội. Cơ quan An sinh xã hội đã bác bỏ đơn yêu cầu của Karen với lý do rằng trẻ không được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân, do đó, 2 đứa trẻ này không được hưởng các quyền lợi an sinh xã hội do Robert để lại. Các bên không thống nhất được ý kiến về vấn đề này nên vụ việc sau đó được giải quyết bằng Tòa án.
Theo luật của bang Florida, 2 người con của Karen không được thừa nhận là con của Robert, do đó không được hưởng quyền thừa kế đối với di sản do Robert để lại (bao gồm cả quyền lợi an sinh xã hội). Trên cơ sở đó, Tòa của bang Florida đã tuyên rằng quyết định của cơ quan an sinh xã hội là đúng.
Karen sau đó kháng cáo với lý do rằng, pháp luật quy định con phải được hưởng di sản của cha. Tranh luận xoay quanh vấn đề mấu chốt là 2 đứa trẻ này có được thừa nhận là con của Robert hay không? Tòa Thượng thẩm của Hoa Kỳ đã tuyên rằng, trẻ sinh ra từ tinh trùng đông lạnh sau khi người cha ruột đã qua đời, thì không nhất thiết được hưởng quyền lợi an sinh xã hội của người cha. Để được xem là con của người cha đã chết cho mục đích an sinh xã hội, Tòa Thượng thẩm đã phán quyết rằng, các con phải được hưởng thừa kế từ người cha/mẹ đã chết phù hợp với các quy định của pháp luật tiểu bang.[12]
Như vậy, do hôn nhân giữa Karen và Robert đã chấm dứt tại thời điểm Robert chết, nên theo quy định của pháp luật bang Florida thì không có quan hệ cha – con tồn tại. Do đó, hai đứa trẻ này không phải là người thừa kế của Robert và không được quyền thừa kế quyền lợi an sinh xã hội của Robert.
Tuy nhiên, một điều đáng lưu tâm khi nghiên cứu pháp luật của liên bang Hoa Kỳ đó là sự khác biệt trong quy định pháp luật giữa các bang. Theo luật của bang California, nếu một đứa trẻ thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế của cha/mẹ thì được hưởng di sản thừa kế nếu như người cha/mẹ đồng ý bằng văn bản về việc tinh trùng/trứng của mình sẽ được sử dụng để tạo ra đứa con trong thời hạn hai năm kể từ khi người cha qua đời. Sự đồng ý phải đáp ứng các điều kiện nghiêm ngặt như:[13]
– Phải được lập thành văn bản, và được ký bởi người này;
– Việc sửa đổi bổ sung văn bản cũng phải được lập thành văn bản;
– Phải chỉ định người thực hiện việc quản lý trứng/tinh trùng của người lập văn bản. Văn bản này sau đó phải được gửi đến người được chỉ định việc quản lý tinh trùng/trứng đó và gửi đến người quản lý di sản của người chết trong thời hạn 4 tháng kể từ ngày người đó chết, hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Đứa trẻ phải được sinh ra trong thời hạn hai năm kể từ ngày văn bản có hiệu lực.
Tuy nhiên quy định này không áp dụng trong trường hợp người hiến tặng mô bộ phận cơ thể để tránh tình trạng lợi dụng quy định này để tiến hành nhân bản vô tính đối với cơ thể người.[14]
Tương tự như luật của bang California, luật của bang Iowa cũng yêu cầu phải có sự đồng ý của người cha/mẹ và đứa trẻ phải được sinh ra trong thời hạn hai năm kể từ ngày cha/mẹ chết.[15] Trong khi đó, luật của bang Delaware chỉ yêu cầu có sự đồng ý bằng văn bản của người cha/mẹ đã chết đó mà thôi, không đặt ra thời hạn đứa trẻ phải sinh ra bao lâu sau khi người mẹ/cha đó qua đời.[16]
2. Kiến nghị sửa đổi quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về người thừa kế
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do đó, việc pháp luật không thể dự liệu một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể là điều khá phổ biến ở nhiều xã hội. Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung và kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nói riêng, việc pháp luật không bắt kịp tiến bộ của y học cũng là điều dễ hiểu. Do đó, cần phải có các quy định linh hoạt để có thể giải quyết những chỗ trống mà pháp luật để lại.
Các vấn đề pháp lý nêu trên về tư cách thừa kế di sản của trẻ được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sau thời điểm mở thừa kế cần phải được đặt vào mối liên hệ với các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Về nguyên tắc, khi một trong hai người mẹ/cha chết thì quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên chấm dứt. Và do đó, nếu người còn sống có con thông qua kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì vấn đề mấu chốt phải giải quyết đó là phải xác định con là con chung hay là con riêng của người còn sống với người đã chết. Để giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi BLDS năm 2005 sửa đổi nên thừa nhận tư cách thừa kế của trẻ được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sau thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên để tránh những tranh chấp về sau nên chia thành các trường hợp. Cụ thể như sau:
Trường hợp thứ nhất, bên vợ, chồng còn sống có con phù hợp với ý nguyện của người chết, tức là trước đó họ có thỏa thuận với nhau, và người chết thể hiện ý muốn thông qua di chúc hoặc một cách thức có thể xác định khác, thì trẻ được sinh ra được coi là con chung của hai người. Điều này đồng nghĩa với việc thừa nhận tư cách thừa kế của trẻ. Việc thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được thực hiện trong thời gian tối đa không quá ba năm. Việc đặt ra mốc thời gian này phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 682 về hạn chế phân chia di sản. Đồng thời quy định này hạn chế được số lượng trẻ được sinh ra. Trong trường hợp đó, Điều 682 của Dự thảo BLDS phải bổ sung thêm quy định mới này.
Trường hợp thứ hai, trẻ được sinh ra thông qua kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhưng chỉ với ý muốn của người còn sống và ý nguyện của người chết không thể xác định được, thì có thể xem là con riêng của người vợ hoặc chồng còn sống. Và tư cách thừa kế ở hàng thứ nhất của trẻ chỉ được thừa nhận khi đáp ứng toàn bộ các điều kiện sau:
– Trẻ được sinh ra trong một thời hạn nhất định là ba năm (lý do như ở trường hợp thứ nhất);
– Có kết luận của tổ chức giám định xác định trẻ là con về mặt sinh học của người đã chết; và
– Không có tranh chấp từ phía những người đồng thừa kế khác.
Kết luận
Việc xác định tư cách được hưởng thừa kế của người thành thai sau thời điểm mở thừa kế là điều khá mới mẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên, một khi chúng ta đã thừa nhận các quy định về biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, thì trường hợp trẻ sinh ra sau thời điểm mở thừa kế sẽ nảy sinh. Theo quy định của Dự thảo thì Tòa án không được từ chối khi có yêu cầu của đương sự. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử của Tòa án, việc quy định về việc chấp nhận hoặc bác bỏ quyền thừa kế của trẻ thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế là điều hết sức cần thiết.
Trong trường hợp không có các quy định trực tiếp, các quy định về tương tự pháp luật hoặc tập quán có thể được áp dụng để giải quyết trong trường hợp này. Đặc biệt, các quy phạm đạo đức có thể áp dụng để giải quyết nếu có tranh chấp về thừa kế giữa những người đồng thừa kế về tư cách thừa kế của đứa trẻ nói trên./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Dân sự 2005”
- Hướng sửa đổi quy định về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong Bộ luật Dân sự 2005 – ThS. Vũ Hùng Đức
- Bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự của CHLB Đức và một số liên hệ với bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Bàn về đổi mới chế định pháp nhân trong Bộ luật Dân sự 2005 – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Ba vấn đề về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005: Kinh nghiệm nhìn từ Nhật Bản – TS. Nguyễn Quốc Vinh
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, giảng viên Khoa Luật Dân sự, trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
** Giảng viên Khoa Luật Dân sự, trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1]Nguyễn Đình Huy, “Quyền thừa kế trong luật La Mã cổ đại”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4, 2001.
[2] Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies – ART) bao gồm những kỹ thuật điều trị vô sinh trong đó có chọc hút trứng và đem trứng ra ngoài cơ thể.
Dương Khuê Tú, Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tại bệnh viện Từ Dũ, http://tudu.com.vn/vn/y-hoc-thuong-thuc/hiem-muon/cac-ky-thuat-ho-tro-sinh-san-tai-benh-vien-tu-du/ (truy cập lần cuối ngày 27/4/2015).
[3] Khoản 1 Điều 685 BLDS năm 2005.
[4] Khoản 1 Điều 687 BLDS năm 2005.
[5] Khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005.
[6] Điều 3, Điều 5 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về Sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
[7] Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra”.
[8] Khoản 1, Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[9] Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ có những quy định khác biệt so với Điều 18 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP: “Trong trường hợp người gửi tinh trùng bị chết, cơ sở lưu giữ tinh trùng phải hủy số tinh trùng của người đó”.
[10] Điều 641 Dự thảo, Phương án 1: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
[11] Để có thể được hưởng quyền lợi an sinh xã hội, trẻ phải đáp ứng các yêu cầu nhất định (hai trong các số đó là cha hay mẹ đã qua đời sau khi đã từng làm việc với đủ thâm niên mà đã phải đóng thuế an sinh xã hội cho công việc đó; và trẻ dưới 18 tuổi), xem thêm Benefits for children, http://www.ssa.gov/pubs/EN-05-10085.pdf, truy cập lần cuối ngày 27/4/2015.
[12] Xem thêm Astrue, Commissioner of Social security v. Capato, on behalf of b. N. C. Et al. No. 11–159. Argued March 19, 2012 – Decided May 21, 2012.
[13] Khoản 5 Điều 249 Luật về Chứng thực di chúc của bang California.
[14] Điểm c mục 3 khoản 5 Điều 249 Luật Chứng thực di chúc của bang California.
[15] Ia. Code Ann. § 633.220A.
[16] 13 Del. Code § 8-707.
- Tác giả: TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng & ThS. Ngô Thị Vân Anh
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2015 (90)/2015 – 2015, Trang 45-50
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời