Mục lục
Nguyên tắc độc lập của thư tín dụng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
TÓM TẮT
Nguyên tắc độc lập của thư tín dụng được áp dụng một cách tuyệt đối trong thanh toán quốc tế. Sự xuất hiện hành vi giả mạo, gian lận đã khiến pháp luật các nước thừa nhận ngoại lệ của nguyên tắc độc lập như giải pháp đảm bảo tính ưu thế, tính ổn định của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Đây cũng là vấn đề pháp luật cũng như thực tiễn xét xử mà Việt Nam cần có sự tham khảo.
Xem thêm:
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cá nhân khi ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng – ThS. Trần Thị Diệu Hà
- Một số kiến nghị sửa đổi quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng – ThS. Lê Thị Ngân Hà
- Xử lý tài sản thế chấp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng – ThS. Lê Minh Thành
- Quyền tiếp cận thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng – TS. Phan Thị Thành Dương
TỪ KHÓA: Ngoại lệ về gian dối nguyên tắc độc lập, UCP 600, Tín dụng chứng từ, Thư tín dụng.
Để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng thương mại quốc tế, các bên có thể lựa chọn các phương thức thanh toán khác nhau như nhờ thu hay tín dụng chứng từ. Mỗi phương thức có ưu, nhược điểm khác nhau. Nhìn từ góc độ khả năng hạn chế rủi ro khi người mua có thể không có khả năng hoặc không thực hiện nghĩa vụ thanh toán và người bán có thể không thực hiện nghĩa vụ giao hàng, thì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có thể xem là công cụ thanh toán phù hợp nhất. Tính bảo đảm cũng như tiện ích của phương thức thanh toán này được tạo nên từ hai nguyên tắc: tuân thủ chặt chẽ và độc lập[1] được ghi nhận tại Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ[2] (phiên bản hiện tại – UCP 600 2007 ICC). Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy tính khả thi của các lợi thế có được từ phương thức thanh toán này lại phụ thuộc rất nhiều vào sự trung thực, thiện chí của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng cơ bản. Hành vi gian lận, giả mạo của một bên, đặc biệt là người hưởng lợi (người bán hoặc nhà xuất khẩu) có thể dẫn đến việc ngân hàng phát hành tín dụng trên cơ sở nguyên tắc độc lập của thư tín dụng, thực hiện thanh toán ngay cả khi hàng hóa không được giao hoặc được giao không đúng với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng cơ bản.[3]
1. Nguyên tắc độc lập của thư tín dụng – nguyên tắc cơ bản của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Thư tíntín dụng theo Điều 2 UCP 600 “là bất cứ thỏa thuận nào, dù cho được mô tả hoặc đặt tên như thế nào, là không thể hủy bỏ và theo đó là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành để thanh toán khi xuất trình phù hợp”. Định nghĩa này cho thấy bản chất của thư tín dụng được xác định bằng chính chức năng, không phụ thuộc vào tên gọi cũng như hình thức thể hiện của thư tín dụng. Nội dung thư tín dụng phải cho thấy đây là thỏa thuận giữa người yêu cầu [4] (người mua, nhà nhập khẩu) với ngân hàng phát hành[5], theo đó trên cơ sở đơn yêu cầu của người yêu cầu, ngân hàng phát hành sẽ phát hành thư tín dụng[6] với cam kết thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu cho người thụ hưởng khi người này xuất trình chứng từ phù hợp với điều kiện và điều khoản của thư tín dụng. Điều này cho thấy việc chấp nhận thanh toán tín dụng của ngân hàng chỉ định[7] hoặc ngân hàng phát hành hoàn toàn không dựa trên hàng hóa, dịch vụ – đối tượng của hợp đồng cơ bản mà chỉ dựa trên việc kiểm tra chứng từ để xác định thể hiện trên bề mặt của chứng từ có tạo thành một xuất trình phù hợp hay không. Đây chính là nội dung của nguyên tắc tuân thủ chặt chẽ.
Thư tín dụng được phát hành trên cơ sở đơn yêu cầu của người yêu cầu. Cơ sở để ngân hàng phát hành thư tín dụng từ chối hay chấp nhận đơn yêu cầu là hợp đồng cơ bản. Tuy nhiên khi đã được phát hành,[8] theo khoản a Điều 4 UCP 600 thư tín dụng là “một giao dịch riêng biệt với các hợp đồng mua bán hoặc các hợp đồng khác mà các hợp đồng này có thể làm cơ sở của thư tín dụng”. Quy định này là nền tảng hình thành nguyên tắc độc lập của thư tín dụng trong giao dịch tín dụng chứng từ. Bản chất của nguyên tắc này được nhận diện từ chính các hậu quả của việc áp dụng, cụ thể như sau:[9]
(1) Cam kết của ngân hàng theo thư tín dụng không phụ thuộc vào những yêu cầu hoặc khiếu nại của người yêu cầu (người bán) trên cơ sở quan hệ giữa người yêu cầu và ngân hàng phát hành (Điều 4 UCP 600), cũng như yêu cầu và khiếu nại của người hưởng lợi trên cơ sở quan hệ phát sinh giữa người hưởng lợi với người yêu cầu. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự không phù hợp của hàng hóa, dịch vụ theo hợp đồng cơ bản; ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm về mô tả hàng hóa, số lượng hàng hóa trong hóa đơn thương mại (Điều 34 UCP 600). Trong phạm vi trách nhiệm của mình, ngân hàng phát hành thư tín dụng không có nghĩa vụ đối với tranh chấp phát sinh giữa người yêu cầu và người hưởng lợi. Về nguyên tắc, người yêu cầu có thể khẳng định hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng cơ bản, tuy nhiên ngân hàng phát hành thư tín dụng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán đã được xác lập theo thư tín dụng nếu xuất trình của người hưởng lợi là phù hợp. Ngân hàng cũng không có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ thanh toán với lý do có sự không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ của người thụ hưởng, người yêu cầu từ hợp đồng cơ bản. Nghĩa vụ này của ngân hàng phát hành không được trực tiếp quy định trong các phiên bản khác nhau của UCP nhưng là nghĩa vụ suy đoán từ quy định của điểm a Điều 15 UCP 600, theo đó “khi một ngân hàng phát hành quyết định việc xuất trình là phù hợp, thì nó phải thanh toán”.
(2) Người hưởng lợi không chịu ràng buộc bởi các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ giữa các ngân hàng, giữa ngân hàng phát hành và người yêu cầu. Mặt khác, người hưởng lợi cũng không thể đưa ra các yêu cầu dựa trên quan hệ phát sinh giữa các ngân hàng[10] trong quan hệ tín dụng, giữa ngân hàng với người yêu cầu.
(3) Thư tín dụng tồn tại không phụ thuộc vào sự tồn tại, thay đổi hay chấm dứt nghĩa vụ giữa người yêu cầu và người hưởng lợi. Sự vô hiệu, thay đổi hợp đồng cơ bản không kéo theo sự vô hiệu hay thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ của ngân hàng nếu không có sự đóng (chấm dứt hiệu lực thư tín dụng) hay sửa đổi thư tín dụng. Cơ sở pháp lý giải thích cho vấn đề này ở chỗ: ngân hàng không phải là các bên của hợp đồng cơ bản nên sự vô hiệu hay chấm dứt hợp đồng cơ bản không phát sinh hậu quả pháp lý đối với ngân hàng.
Với những tính chất nêu trên, thư tín dụng có thể được xem là công cụ phát triển thương mại quốc tế theo nguyên tắc “pay first, argue later”; tạm dịch “trả tiền trước – khiếu nại sau” và được công nhận trong thực tiễn pháp lý của các nước.[11]
Có thể nói nguyên tắc độc lập của thư tín dụng đã tạo ra sự cân bằng lợi ích cho các bên khi có sự bảo đảm để hàng hóa được giao bởi người thụ hưởng phải phù hợp với các điều khoản do người yêu cầu mở thư tín dụng (người mua) và người hưởng lợi (người bán) đã thỏa thuận theo hợp đồng cơ bản. Còn về phía người hưởng lợi cũng được ngân hàng cam kết thanh toán ngay sau khi giao hàng và xuất trình chứng từ phù hợp mà không phụ thuộc vào các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ giao hàng của bên bán, bên mua theo hợp đồng cơ bản.
Một cách cụ thể hơn, đối với người hưởng lợi, việc áp dụng nguyên tắc độc lập của thư tín dụng khi xuất trình là phù hợp có thể dẫn đến các khả năng sau:
Thứ nhất, người hưởng lợi nhận thanh toán sau khi thực hiện đúng và đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng cơ bản và có sự xuất trình phù hợp chứng từ tại ngân hàng phát hành. Trường hợp sự xuất trình chứng từ không phù hợp với điều khoản và điều kiện của thư tín dụng, hậu quả có thể là việc sửa chữa, bổ sung chứng từ hoặc từ chối thanh toán (Điều 16 UCP 600).
Thứ hai, người hưởng lợi nhận thanh toán khi có xuất trình phù hợp tại ngân hàng phát hành nhưng lại không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng cơ bản. Tình huống này cho thấy việc tuân thủ nguyên tắc độc lập của thư tín dụng cũng có thể tạo ra những bất lợi cho người yêu cầu, đặc biệt khi không có sự thiện chí, trung thực của người hưởng lợi trong việc thực hiện hợp đồng cơ bản.
Như vậy có thể khẳng định, đối với người yêu cầu, phương thức thanh toán này chỉ sự đảm bảo có việc giao hàng của người hưởng lợi (người bán) chứ không đảm bảo việc thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng cơ bản. Các điều khoản của UCP 600 với các quy định về các nguyên tắc cơ bản, bao gồm nguyên tắc độc lập của thư tín dụng cũng để ngỏ thực tế khi chứng từ do người hưởng lợi xuất trình phù hợp với điều kiện và điều khoản của thư tín dụng nhưng lại không phù hợp với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng cơ bản hoặc không gắn với việc thực tế thực hiện hợp đồng.[12]
2. Ngoại lệ của nguyên tắc độc lập
Trong thương mại quốc tế, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ với lợi thế dung hòa sự xung đột lợi ích các bên, như đã phân tích, đã được xem như công cụ thúc đẩy giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, với quy định về miễn trách đối với hiệu lực của chứng từ và giới hạn trách nhiệm của ngân hàng trong việc kiểm tra chứng từ,[13] vì mục đích lợi nhuận, người hưởng lợi bằng hành vi gian lận hoặc giả mạo chứng từ hoàn toàn có thể được ngân hàng phát hành thư tín dụng thanh toán nếu như chứng từ xuất trình được ngân hàng kết luận là phù hợp.
Trong một thời gian dài, sự bất lợi của người yêu cầu phát hành thư tín dụng trước hành vi không trung thực của người hưởng lợi chưa nhận được sự quan tâm thích đáng trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng hoạt động thanh toán trong lĩnh vực ngân hàng.[14] “Hơn 170 nước trong đó có Việt Nam sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đều không có luật riêng bàn về vấn đề này”[15] mặc dù sự hiện hữu của hành vi này đã được nhận diện từ rất sớm.
Vấn đề gian lận của người hưởng lợi lần đầu tiên được nhận diện dưới dạng hành vi giả mạo trên vận đơn trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa tại nước Anh vào năm 1765[16] nhưng mới chỉ dừng ở mức độ thừa nhận quan điểm xét xử của ngài Mansfield: gian lận không thể được dung thứ trong luật lệ về tín dụng chứng từ, mà chưa có sự giải thích cụ thể như thế nào được hiểu là gian lận và cũng chưa có sự đề cập đến ngoại lệ gian lận.[17]
Tại Hoa Kỳ gian lận trong thanh toán tín dụng chứng từ dưới dạng gian lận về vận đơn gửi hàng cũng được đề cập trong vụ việc Higgins v. Steinhardter vào năm 1919.[18] Theo quan điểm của Tòa án vào thời điểm này vẫn đứng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập của tín dụng chứng từ, không can thiệp vào hoạt động thanh toán này ngay cả khi có sự hiển diện hành vi gian lận, giả mạo chứng từ của người hưởng lợi.[19]
Tuy nhiên sự gia tăng số lượng vụ việc có hành vi gian lận, giả mạo chứng từ trong thanh toán tín dụng chứng từ vào những năm đầu thế kỷ XX dẫn đến việc thực tiễn xét xử Hoa Kỳ đã thừa nhận “fraud exception” (tạm dịch ngoại lệ gian lận) và sau đó là “fraud rule”(tạm dịch quy tắc gian lận)[20] như phương thức hạn chế gian lận và duy trì tiện ích của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Sự thừa nhận quy tắc gian lận vẫn đặt trên sự tôn trọng nguyên tắc độc lập của thư tín dụng. Cụ thể, một thư tín dụng không phụ thuộc vào hợp đồng cơ bản giữa người mua và người bán, ngân hàng phát hành đồng ý thanh toán khi xuất trình tài liệu chứ không phải hàng hóa. Sự thừa nhận quy tắc này đã được cho là cần thiết để duy trì hiệu quả của thư tín dụng như một công cụ hỗ trợ cho thương mại và cung cấp cho người bán phương tiện sẵn sàng để được thanh toán kịp thời cho hàng hóa của mình. Trong vụ việc này, thực tiễn xét xử Hoa Kỳ cũng thừa nhận rằng, sẽ là một sự can thiệp đáng tiếc nhất đối với các giao dịch kinh doanh nếu như nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng phải đặt sau các yêu cầu của người mua và tranh cãi giữa người mua và người bán liên quan đến chất lượng của hàng hóa được vận chuyển. Tuy nhiên việc áp dụng nguyên tắc độc lập cũng phải được đặt trên giả định rằng các chứng từ xuất trình là chính xác và phù hợp với các yêu cầu của thư tín dụng. Cụ thể, trong vụ việc mà quy tắc gian lận đã được thừa nhận, hành vi của người hưởng lợi thể hiện ở việc chủ ý, cố tình không vận chuyển bất kỳ hàng hóa nào do người mua đặt hàng, hành vi này xảy ra trước khi người thụ hưởng thực hiện xuất trình thanh toán và như vậy thì không nên mở rộng nguyên tắc độc lập về nghĩa vụ của ngân hàng trong thư tín dụng để bảo vệ người bán không có đạo đức. Có nghĩa là trong trường hợp này ngân hàng có thể từ chối thanh toán hoặc từ chối đề nghị của người yêu cầu. Mặc dù có sự thừa nhận quy tắc gian lận nhưng thực tiễn xét xử Hoa Kỳ ở giai đoạn này cũng chưa có sự xác định gian lận được hiểu là bao gồm giả mạo chứng từ và gian lận hợp đồng cơ bản hay chỉ là giả mạo chứng từ. Các yếu tố để xác định gian lận cũng chưa được minh thị.
Đứng trước nhu cầu lấp kẽ hở của pháp luật về tín dụng chứng từ, hạn chế gian lận và duy trì, đảm bảo những tiện ích của tín dụng chứng từ trong giao dịch thương mại, khi Bộ Luật thương mại thống nhất của Hoa Kỳ được ban hành vào năm 1952, ngoại lệ gian lận đã được ghi nhận tại Điều 5 phần 5-114(2).[21] Điều khoản này xác định: quy tắc gian lận giữ vai trò căn cứ pháp lý độc lập cho phép người yêu cầu có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà không cần phải có sự vận dụng các quy định khác, bao gồm quy định về hợp đồng. Khi có yêu cầu của người yêu cầu, Tòa án có thể ra lệnh ngân hàng phát hành dừng nghĩa vụ thanh toán khi xuất trình bề mặt phù hợp với tín dụng nhưng là giả mạo (“forged”) hoặc gian lận hợp đồng cơ bản (“fraud is the transtion”). Về phía ngân hàng, ngân hàng có thể căn cứ trên quy tắc gian lận để từ chối thanh toán nếu như giả mạo, gian lận được ngân hàng nhận thức rõ ràng. Nội dung của điều khoản này cũng chưa đưa ra giải nghĩa cho hai khái niệm gian lận và giả mạo.
Khắc phục nhược điểm của UCC năm 1952, trong phiên bản UCC 1995 (Điều 5, phần 5-109),[22] quy tắc gian lận được quy định đầy đủ hơn.
Nếu một chứng từ khi xuất trình, trên bề mặt phù hợp một cách hoàn toàn, nghiêm ngặt với các điều khoản và điều kiện của Thư tín dụng, nhưng chứng từ là giả mạo hoặc là gian lận đáng kể hoặc việc trả tiền cho bộ chứng từ này sẽ tạo điều kiện cho người thụ hưởng lừa dối ngân hàng phát hành hoặc người mở tín dụng thư thì ngân hàng phát hành có thể có các ứng xử như sau:
Thứ nhất, ngân hàng sẽ thanh toán khi bộ chứng từ được xuất trình nếu việc thanh toán được yêu cầu bởi (i) ngân hàng được chỉ định thanh toán hoàn toàn ngay tình và không biết về sự gian lận nói trên hoặc (ii) ngân hàng xác nhận thực hiện việc xác nhận một cách ngay tình hoặc (iii) người giữ hối phiếu chi theo tín dụng thư được chấp nhận bởi ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận hoặc (iv) người nhận chuyển nhượng nghĩa vụ bị trì hoãn của ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận mà không biết về sự gian lận sau khi nghĩa vụ phát sinh;
Thứ hai, ngân hàng phát hành, hoàn toàn ngay tình, có thể thực hiện thanh toán hoặc từ chối thanh toán trong bất kỳ trường hợp nào khác.
Về phía người yêu cầu, khi chứng từ có giả mạo hoặc gian lận đáng kể hoặc việc thanh toán tạo điều kiện cho bên thụ hưởng lừa dối ngân hàng phát hành hoặc người mở tín dụng thư, người yêu cầu có thể khiếu nại để tòa án có thẩm quyền có thể ra lệnh tạm thời hoặc chính thức yêu cầu ngân hàng phát hành không thanh toán bộ chứng từ hoặc ra lệnh tương tự chỉ khi tòa nhận thấy có đủ căn cứ thực hiện việc này.[23]
Như vậy với phiên bản hiện hành của UCC, quy tắc gian lận đã được đề cập với các nội dung: dấu hiệu nhận diện gian lận, giá trị pháp lý, điều kiện và các phương thức áp dụng. Gian lận được xác định dưới dạng giả mạo văn bản, chứng từ và gian lận đáng kể liên quan đến nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng cơ bản.
3. Thực tiễn thanh toán tín dụng tại Việt Nam
Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ là văn bản có tính chất pháp lý tùy nghi, theo đó văn bản này chỉ được áp dụng khi “nội dung của tín dụng chỉ ra một cách rõ ràng có sự dẫn chiếu đến các quy tắc này”.[24] Khi các bên đã dẫn chiếu đến quy tắc này, quy định trong quy tắc này sẽ ràng buộc tất cả các bên, trừ khi thư tín dụng loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ ràng. Có nghĩa, ngay cả khi thư tín dụng dẫn chiếu đến UCP, các bên cũng có thể sửa đổi trong nội dung thư tín dụng với những quy định không được quy định trong quy tắc này. Một đặc điểm nữa của tính tùy nghi là hiệu lực độc lập của các phiên bản UCP. Trong quan hệ thang bậc pháp lý với pháp luật quốc gia, tính tùy nghi dẫn đến hiệu lực pháp lý của UCP thấp hơn pháp luật quốc gia. Điều này đặt ra câu hỏi: lệnh của Tòa án theo đề nghị của người yêu cầu về việc dừng hoặc chấm dứt thanh toán thư tín dụng khi có giả mạo, gian lận của người hưởng lợi có hiệu lực bắt buộc với ngân hàng phát hành hay không và nếu có thì điều này có mâu thuẫn với nguyên tắc độc lập hay không?[25]
Thực tiễn thanh toán tín dụng tại Việt Nam cho thấy, Tòa án theo yêu cầu của các bên đã đưa ra các quyết định khác nhau như: thừa nhận tính độc lập của L/C với hợp đồng cơ bản và buộc ngân hàng phát hành thực hiện thanh toán hoặc ngưng thanh toán L/C hoặc giải phóng ngân hàng phát hành L/C khỏi nghĩa vụ thanh toán nhưng không căn cứ trên lý do gian lận mà dưới dạng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc dựa trên lập luận L/C là một phần không tách rời của điều khoản thanh toán trong hợp đồng. Theo logic này, khi Tòa án tuyên hủy hợp đồng thì đồng thời L/C phát hành theo hợp đồng cũng chấm dứt hiệu lực. Cụ thể một số tình huống như sau:
Trường hợp thứ nhất là Bản án số 16/2008/KDTM-PT ngày 14/1/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội từ chối chấp nhận kháng cáo bản án sơ thẩm buộc ngân hàng Đông Á phải thanh toán tiền trong hóa đơn thương mại theo L/C mặc dù hành vi gian lận của người hưởng lợi (người bán) thể hiện ở việc lô hàng người mua nhận được không đạt tiêu chuẩn theo hợp đồng cơ bản – hợp đồng mua bán hàng hóa đã ký giữa hai bên. Bản án của Tòa án sơ thẩm được đưa ra trên sự viện dẫn Điều 3 UCP 500. Căn cứ theo Điều này, Tòa án đã cho rằng cam kết của một ngân hàng để trả tiền, chấp nhận và trả tiền các hối phiếu hoặc chiết khấu hoặc thực hiện bất cứ một nghĩa vụ nào khác của mình quy định trong thư tín dụng không bị ràng buộc bởi các khiếu nại hoặc sự bảo vệ nào đó của người yêu cẩu mở tín dụng phát sinh từ quan hệ của họ với ngân hàng phát hành hoặc với người hưởng lợi. Tại bản án này, Tòa án thừa nhận tính độc lập tuyệt đối của L/C mà không có ngoại lệ.
Trường hợp thứ hai là Quyết định số 03/2013/QĐ-BPKCTT ngày 22/2/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời – dừng thanh toán L/C theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Tố tụng dân sự với mục đích đảm bảo thi hành án.
Trường hợp thứ ba là Quyết định số 621/2014/QĐ-BPKCTT ngày 29/05/2014 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh khi áp dụng Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về việc phong tỏa và tạm ngưng thanh toán số tiền 19.360 USD theo L/C số 900101400156 do Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh phát hành cho người thụ hưởng là Công ty Shijiazhuang, thời hạn 12 tháng kể từ ngày 29/5/2014 để chờ kết quả giải quyết tranh chấp của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.
Trường hợp thứ tư là Quyết định số 17/2016/KDTM – GĐT ngày 10/11/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 356/2014/KDTM-ST ngày 07/4/2014 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Đây là trường hợp các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C) trả chậm trong thời han 90 ngày kể từ ngày giao hàng dựa theo vận đơn. Thực hiện theo thỏa thuận, bên mua mở L/C và bên bán giao hàng. Tuy nhiên, hàng hóa được giao không đúng với thỏa thuận của các bên và điều này đã được ghi nhận trong Chứng thư giám định phẩm chất và chất lượng của cơ quan giám định (Vinacontrol). Bên mua đã khiếu nại bên bán nhưng bên bán không hợp tác với bên mua. Bên mua đã kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán giữa các bên, trả lại toàn bộ lô hàng cho bên bán và hủy bỏ nghĩa vụ thanh toán theo L/C, đồng thời yêu cầu ngân hàng phát hành hoàn trả lại số tiền ký quỹ để đảm bảo thanh toán L/C. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ theo khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại để tuyên hủy bỏ hợp đồng. Đối với yêu cầu trả lại số tiền ký quỹ, Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc ngân hàng phát hành L/C phải trả cho bên mua vì theo quan điểm của Tòa án phương thức thanh toán bằng L/C là một phần không thể tách rời của hợp đồng mua bán hàng hóa. Khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng và vì vậy L/C cũng không còn hiệu lực thanh toán, đồng nghĩa ngân hàng phát hành không có nghĩa vụ thanh toán L/C. Trong vụ việc này quan điểm xét xử của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo hướng áp dụng tuyệt đối nguyên tắc độc lập của thư tín dụng, ngay cả khi có hành vi gian lận của người người lợi – giao hàng không đúng chất lượng theo thoả thuận của các bên. Bản án này cũng đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao công bố thành án lệ.[26]
Nội dung án lệ dừng ở mức độ thừa nhận thư tín dụng không bị mất hiệu lực thanh toán vì lý do hợp đồng mua bán hành hóa quốc tế (hợp đồng cơ bản) bị hủy bỏ. Án lệ không giải quyết được câu hỏi đã đặt ra về mối quan hệ giữa lệnh tạm ngừng thanh toán L/C của Tòa án khi có hành vi giả mạo, gian lận với quy định về tính độc lập của UCP. Đây mới là vấn đề cần có án lệ bởi lẽ như đã phân tích, UCP để ngỏ vấn đề này và pháp luật các nước cũng có cách giải quyết khác nhau. Nếu đi theo hướng của UCC của Hoa Kỳ, tính độc lập của L/C vẫn là sự tuân thủ số một và ngoại lệ chỉ xảy ra khi có giả mạo hoặc gian lận đáng kể. Bằng kỹ thuật loại trừ này có thể thấy ngoài quy tắc gian lận, tính độc lập của L/C trong pháp luật Hoa Kỳ không có ngoại lệ nào khác. Thực tiễn xét xử của Hoa Kỳ và nước Anh như đã phân tích, đã không đi theo hướng ban hành án lệ để thừa nhận tính độc lập của L/C mà ngày từ buổi đầu sơ khai của sự hình thành phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã nhìn thấy lỗ hổng có thể phá vỡ tính đảm bảo, tính ưu thế của phương thức này và xác lập giải pháp pháp lý hạn chế lỗ hổng này bằng quy tắc gian lận, giả mạo với nội dung bao gồm: dấu hiệu nhận diện, điều kiện và phương thức áp dụng. Thực tiễn áp dụng quy tắc này trong pháp luật Hoa Kỳ vẫn đứng trên sự tuân thủ nguyên tắc độc lập của tín dụng chứng từ nhưng với ngoại lệ, đã ghi nhận trách nhiệm của ngân hàng phát hành trong việc cân nhắc để thực hiện quyền lựa chọn chấp nhận hay từ chối thanh toán khi ngân hàng phát hành có sự nhận biết rõ ràng về hành vi giả mạo, gian lận. Về phía người yêu cầu, quy tắc này cũng trao cho chủ thể này quyền khiếu nại với Tòa án và về phía Tòa án, theo quy tắc này, Tòa án có thẩm quyền ra lệnh tạm thời hoặc chính thức yêu cầu ngân hàng phát hành không thanh toán nếu Tòa án nhận thấy có đủ căn cứ cho việc này. Như vậy lỗ hổng của UCP về gian lận, giả mạo trong thanh toán tín dụng chứng từ đã được điều chỉnh bởi pháp luật Hoa Kỳ. Thiết nghĩ đây là kinh nghiệm mà thực tiễn xét xử của Việt Nam có thể tham khảo khi ban hành án lệ về nguyên tắc độc lập của thư tín dụng..
CHÚ THÍCH
[1] Quy định trong các phiên bản UCP không đặt tên cũng như trực tiếp định nghĩa về hai nguyên tắc này mà chỉ xác định bản chất, hậu quả pháp lý của các nguyên tắc này thông qua quy định về giới hạn trách nhiệm của ngân hàng khi kiểm tra chứng từ, hậu quả pháp lý khi xuất trình là phù hợp và miễn trách của ngân hàng về hiệu lực chứng từ (Xem UCP 600 Điều 2; khoản a Điều 7; khoản a, c Điều 8; Điều 14; Điều 15 và Điều 34).
[2] Phiên bản tiếng Anh “The Uniform Customs and Practices for Documentary Letters of Credit, 2007 revision, ICC Publication No.600 (UCP 600 2007 ICC, trong bài viết sẽ sử dụng “UCP 600”). Kê từ phiên bản phát hành lần đầu năm 1933, UCP đã có 06 lần sửa đổi vào các năm 1951,1962 (UCP 222), 1974 (UCP 290), 1983 (UCP 400), 1993 (UCP 500) và lần gần đây nhất là năm 2007 (UCP 600).
[3] Hợp đồng cơ bản là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa bên bán (nhà xuất khẩu) và bên mua (nhà nhập khẩu). Tính chất cơ bản của hợp đồng được hiểu theo nghĩa đây là cơ sở hình thành tín dụng. Nếu không có hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các bên, không phát sinh quan hệ tín dụng chứng từ mà người mua là người yêu cầu phát hành tín dụng cho người hưởng lợi là người bán.
[4] Người yêu cầu là bên mà theo yêu cầu của bên đó, một Thư tín dụng được phát hành (Điều 2 UCP 600)
[5] “Ngân hàng phát hành” – “Issuing bank” là ngân hàng theo yêu cầu của người yêu cầu hoặc nhân danh chính mình phát hành một tín dụng” (Xem Điều 2 UCP 600). Ngân hàng phát hành có thể ở nước nhà xuất khẩu hoặc nhà xuất khẩu hoặc một nước thứ 3 nhưng thường ở nước nhà nhập khẩu do có quan hệ tín dụng trực tiếp giữa ngân hàng với nhà nhập khẩu.
[6] Như đã nhận định tên gọi của phương thức thanh toán này có tính tùy nghi, không bắt buộc nên trong thực tế có thể gặp nhiều thuật ngữ về phương thức này: Documentary Credit (UCP 600) viết tắt là DC hoặc D/C hoặc Letter of Credit (L/C). Trong ngôn ngữ Việt, phương thức này có tên gọi tín dụng thư; thư tín dụng; tín dụng chứng từ hoặc các từ viết tắt của tên gọi này bằng tiếng Anh như L/C, DC.
[7] Điều 2 UCP “Ngân hàng chỉ định là ngân hàng mà tín dụng quy định có giá trị thanh toán tại ngân hàng đó hoặc là tại bất cứ ngân hàng nào trong trường hợp tín dụng có giá trị tại bất cứ ngân hàng nào”
[8] UCP chưa có điều khoản nào định nghĩa về phát hành Thư tín dụng và cách xác định thời điểm phát hành Thư tín dụng cũng khác nhau trong thực tiễn vận hành Thư tín dụng. Có thể dựa vào Ngày phát hành ghi trong Thư tín dụng hoặc dựa vào ngày phát bức điện Thư tín dụng (Xem thêm vấn đề này tại “Cẩm nang sử dụng thư tín dụng –L/C- tuân thủ UCP 600 và ISBP 681 2007 ICC” của Đinh Xuân Trình, Nxb. Lao Động – Xã hội, 2008, tr. 182 – 183.
[9] Các hậu quả trên xác định từ hợp đồng được xác lập trong quan hệ thanh toán tín dụng chứng từ. Hợp đồng thứ nhất là hợp đồng cơ bản giữa người bán (nhà xuất khẩu) và người mua (nhà nhập khẩu). Tính chất cơ bản của hợp đồng này thể hiện ở giá trị pháp lý của chính hợp đồng này – là cơ sở cho việc hình thành quan hệ tín dụng chứng từ. Việc hình thành thư tín dụng không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng cơ bản. Các bên của hợp đồng cơ bản này chỉ bao gồm người bán và người mua và không bao gồm các ngân hàng tham gia hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Hợp đồng thứ hai là hợp đồng tín dụng làm phát sinh quan hệ thanh toán tín dụng chứng từ giữa người mua (người yêu cầu phát hành tín dụng) với ngân hàng phát hành. Mặc dù người hưởng lợi là người bán nhưng hợp đồng này ràng buộc người mua phải thực hiện nghĩa vụ ký quỹ và ngân hàng phát hành thư tín dụng không được phép sử dụng số tiền ký quỹ cho bất kỳ mục đích nào khác, bao gồm cả các khoản nợ khác từ nghĩa vụ của người mua. Ngân hàng phát hành khi đồng ý phát hành thư tín dụng đồng nghĩa với cam kết tự mình hoặc thông qua ngân hàng xác nhận thông báo đến người bán cam kết thanh toán của ngân hàng và người mua cũng cam kết trả lại ngân hàng phát hành số tiền ngân hàng phát hành sẽ thanh toán cho người bán. Bản chất hợp đồng này được xác định trên cơ sở định nghĩa về tín dụng tại Điều 2 UCP 600 2007 ICC. Theo đó tín dụng không phụ thuộc vào tên gọi, là một thỏa thuận không hủy ngang thể hiện cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành thanh toán khi xuất trình phù hợp. Hợp đồng này với tính chất không hủy ngang của thư tín dụng cũng là cơ sở phát sinh quan hệ thanh toán giữa ngân hàng phát hành với người hưởng lợi (người bán). Nội dung quan hệ này theo Điều 2 CP 600 2007 ICC bao gồm trả ngay khi xuất trình hoặc cam kết thanh toán về sau hoặc chấp nhận hối phiếu. Sự hưởng lợi của người bán trong quan hệ này cũng luôn song hành với rủi ro. Theo đó, cho dù đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng những nếu xuất trình của người hưởng lợi không phù hợp với các điều kiện và điều khoản của thư tín dụng, ngân hàng có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
[10] Trong quy trình nghiệp vụ L/C có sự tham gia của các ngân hàng như: Ngân hàng phát hành; ngân hàng thông báo về L/C cho người thụ hưởng; ngân hàng xác nhận bổ sung đối với L/C; ngân hàng được chỉ định thanh toán hoặc chiết khấu.
[11] Nguyên tắc độc lập của tín dụng chứng từ đã được ghi nhận trong các vụ việc: Hamzeh Malas & Sons vs. British Imex Industries Ltd, United City merchants (Investment) Ltd vs. Royal Bank of Canada, Trans Trust SPRL vs. Danubian Co Ltd vàUnited City merchants (Investment) Ltd vs. Royal Bank of Canada, Xem: H.Alavi, “Exceptions to principle of autonomy in documentary letters of credit: A Compatative view”, Actual Problems of Economics and Law, 2016, Vol. 10, No. 3, p. 138.
[12] Về vấn đề này cũng như các loại hình tranh chấp thường phát sinh từ thực tiễn áp dụng tín dụng chứng từ có thể xem: Phan Thị Hồng Hải và Đặng Thị Nhàn, “Gian lận và giả mạo chứng từ trong hoạt động thanh toán và tài trợ thương mại quốc tế tại các ngân hàng thương mại”, Tạp chí Ngân hàng, số 5/2017, https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/apph/tcnh/tcnh_chitiet?justifyWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV287775&rightWidth=0%25¢erWidth=80%25&_afrLoop=425176941891000#%40%3F_afrLoop%3D425176941891000%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBV287775%26justifyWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dkc7u4pegu_9, truy cập ngày 31/12/2017.
[13] Theo Điều 34 UCP, ngân hàng phát hành được giải phóng trách nhiệm đối với “hình thức, sự hoàn bị, tính chính xác, tính chân thực, sự giả mạo hoặc hiệu lực pháp lý của bất kỳ chứng từ nào” và theo Điều 14 UCP 600 trách nhiệm của ngân hàng trong việc kiểm tra chứng từ chỉ giới hạn ở việc “kiểm tra sự thể hiện trên bề mặt của chứng từ”.
[14] H Alavi, sđd, p.138.
[15] Xem bài viết “Gian lận và giả mạo chứng từ trong hoạt động thanh toán và tài trợ thương mại quốc tế tại các ngân hàng thương mại”của các tác giả Phan Thị Hồng Hải và Đặng Thị Nhàn, sđd.
[16] Pillans v Van Mierop (1765) 97 ER 1035 (dẫn từ Ross P. Buckley and Xiang Gao, “Development of the Fraud Rule in Letter of Credit Law: The Journey So Far and the Road Ahead”, 23 U. PA. J. INT’L L.668, 2002, http://scholarship.law.upenn.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1285&context=jil, truy cập ngày 29/12/2017.
[17] Ross P. Buckley and Xiang Gao, “Fraududent conduct would be to lerated by the law of letters of credit”, p. 669.
[18] 175 N.Y.S. 279 (Sup Ct 1919) (Ross P. Buckley and Xiang Gao, p. 669)
[19] Batt J in OlexFocas Pty Ltd v Skoda Export Co (1996) 134 FLR 331, 354
[20] Sztejn v J. Henry Schroder Banking Corporation 177 Misc. 719, 31 NYS (2d) 631 (1941). Trong vụ việc Sztejn v J. Henry Schroder Banking Corporation, ngoại lệ gian lận chính thức được thừa nhận với nguyên tắc pháp lý “The letter of credit should not be extended to protect unscrupulous sellers” tạm dịch “Thư tín dụng không nên tiến tới bảo vệ người hưởng lợi không trung thực”. Điều kiện duy nhất để loại trừ tính tuyệt đối của nguyên tắc độc lập trong tín dụng chứng từ là hành vi gian lận chứng từ của người hưởng lợi trên cơ sở minh chứng của người yêu cầu và trước khi ngân hàng thực hiện thanh toán.
[21] Điều 5 Phần 114 (Đạo luật Thương mại Thống nhất của Hoa kỳ( United Commercial Code in the United States of America):
“Unless otherwise agreed when documents appear on their face to comply with the terms of a credit but a required document does not in fact conform to the warranties made on negotiation or transfer of a document of title (Section 7-507) or of a certicated security (Section 8-108) or is forged or fraudulent or there is fraud in the transaction:
(a) the issuer must honor the draft or demand for payment if honor is demanded by a negotiating bank or other holder of the draft or demand which has taken the draft or demand under the credit and under circumstances which would make it a holder in due course (Section 3-302) and in an appropriate case would make it a person to whom a document of title has been duly negotiated (Section 7-502) or a bona de purchaser of a certicated security (Section 8-302); and
(b) in all other cases as against its customer, an issuer acting in good faith may honor the draft or demand for payment despite noti cation from the customer of fraud, forgery or other defect not apparent on the face of the documents but a court of appropriate jurisdiction may enjoin such honor”.
[22] Điều 5 (phần 5-109) Đạo luật Thương mại Thống nhất của Hoa Kỳ 1995
“(a) If a presentation is made that appears on its face strictly to comply with the terms and conditions of the letter of credit, but a required document is forged or materially fraudulent, or honor of the presentation would facilitate a material fraud by the beneficiary on the issuer or applicant:
(1) the issuer shall honor the presentation, if honor is demanded by (i) a nominated person who has given value in good faith and without notice of forgery or material fraud, (ii) a confirmer who has honored its confirmation in good faith, (iii) a holder in due course of draft drawn under the letter of credit which was taken after acceptance by the issuer or nominated person, or (iv) an assignee of the issuer’s or nominated person’s deferred obligation that was taken for value and without notice of forgery of material fraud after the obligation was incurred by the issuer or nominated person; and
(2) the issuer, acting in good faith, may honor or dishonor the presentation in any other case.
(b) If an applicant claims that a required document is forged or materially fraudulent or that honor of the presentation would facilitate a material fraud by the beneficiary on the issuer or applicant, a court or competent jurisdiction may temporarily or permanently enjoin the issuer from honoring a presentation or grant similar relief against the issuer or other persons only if the court finds that:
(1) the relief is not prohibited under the law applicable to an accepted draft or deferred obligation incurred by the issuer;
(2) a beneficiary, issuer, or nominated person who may be adversely affected is adequately protected against loss that it may suffer because the relief is granted;
(3) all of the conditions to entitle a person to the relief under the law of this State have been met; and
(4) on the basis of the information submitted to the court, the applicant is more likely than not to succeed under its claim of forgery or material fraud and the person demanding honor does not qualify for protection under subsection (a) (1”.
[23] Căn cứ để Tòa án đưa ra lệnh tạm dừng hoặc ngăn cấm ngân hàng phát hành thanh toán tín dụng bao gồm (tạm dịch): (1) lệnh cấm không bị cấm bởi luật áp dụng cho hối phiếu chi theo tín dụng thư hoặc nghĩa vụ trì hoãn của ngân hàng phát hành; (2) người thụ hưởng, ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng chỉ định có liên quan hoàn toàn không bị thiệt hại phát sinh từ lệnh cấm nói trên; (3) đáp ứng tất cả các điều kiện cho phép ban hành lệnh cấm tại bang đó và (4) trên cơ sở các thông tin đệ trình lên tòa, người mở tín dụng thư có thể chứng minh sự gian lận và người yêu cầu thanh toán không thể thỏa mãn các quy định bảo vệ họ theo điểm (a) (1).
[24] Điều 1 UCP 600 2007 ICC.
[25] Theo quan điểm của một số học giả chính tính tùy nghi của UCP dẫn đến UCP sẽ có hiệu lực thấp hơn lệnh của Toà án (Xem: Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Thanh toán quốc tế, Nxb Thống kê, 2007, tr. 300 – 303).
[26]Án lệ số 13/2017/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14/12/2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Nội dung án lệ:
“[34] Như vậy, theo đơn đề nghị mở L/C của Bên mua và nội dung L/C đã phát hành thì L/C số 1801 là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; được chi phối và áp dụng theo UCP 600. Theo quy định của UCP 600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát hành phải thanh toán khi xác định bộ chứng từ xuất trình là phù hợp tại Ngân hàng…
[36]… Tòa án cấp sơ thẩm lại cho rằng phương thức thanh toán bằng L/C số 1801 là một phần không thể tách rời của Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; do vậy, khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; từ đó quyết định L/C số 1801 không còn hiệu lực thanh toán và Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N theo L/C nêu trên; đồng thời buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phải trả cho bên mua số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD là chưa đủ cơ sở và chưa đúng với các quy định tại UCP 600”.
Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc – Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03(115)/2018 – 2018, Trang 62-67