Mục lục
Thu hút doanh nghiệp nước ngoài niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam – Nhìn từ các quy định về điều kiện niêm yết
TÓM TẮT
Nền kinh tế Việt Nam mặc dù đã có những dấu hiệu khởi sắc nhưng vẫn còn khá nhiều khó khăn như: nợ công tăng cao, nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn chưa được xử lý hiệu quả, việc tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp… đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán. Trong bối cảnh đó, vấn đề đa dạng hóa hàng hóa giao dịch thông qua việc thu hút các doanh nghiệp nước ngoài, trước hết là các doanh nghiệp trong khối ASEAN niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam là rất cần thiết. Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về điều kiện niêm yết và trình tự, thủ tục mà doanh nghiệp nước ngoài có thể niêm yết cổ phiếu trên các Sở giao dịch chứng khóan Việt Nam. Tuy nhiên, theo đánh giá của chúng tôi, các quy định này vẫn chưa được hoàn thiện và còn khá nhiều bất cập và cần có sự nghiên cứu, khảo sát và phân tích thấu đáo để hình thành nên những kiến nghị nhằm hoàn thiện chúng và đó cũng chính là mong muốn của chúng tôi khi thực hiện bài viết này.
Xem thêm:
- Nhận diện tổ chức nước ngoài là đối tượng nộp thuế nhà thầu tại Việt Nam – ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu
- Cần luật hóa hoạt động bán khống trên thị trường chứng khoán – TS. Lê Vũ Nam
- Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam nhìn từ yêu cầu phát triển bền vững thị trường chứng khoán – ThS. Nguyễn Thị Lan Anh
TỪ KHÓA: Doanh nghiệp nước ngoài, Niêm yết, Cổ phiếu, Thị trường Chứng khoán, Tạp chí Khoa học pháp lý.
1. Dẫn nhập
Trong bối cảnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang điễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì sự liên thông và kết nối thị trường vốn, trong đó có thị trường chứng khoán (TTCK) giữa các nước nói chung và các nước là thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nói riêng là một xu hướng tất yếu. Điều này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết khi lãnh đạo các nước này đặt mục tiêu hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community) vào năm 2015. Khởi đầu cho quá trình liên kết TTCK trong khu vực là quyết định của Hội nghị Tổng giám đốc các Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) các nước ASEAN được đưa ra trong phiên họp chính thức ngày 02/12/2011 tại Hà Nội về lộ trình liên kết các SGDCK của các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines và Việt Nam. Đây được xem là những TTCK có quy mô lớn trong khu vực với lượng hàng hóa giao dịch là cổ phiếu của hơn 3.600 doanh nghiệp niêm yết, trong đó có nhiều công ty rất lớn trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, năng lượng, viễn thông, với tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt khoảng 2.100 tỉ đô la Mỹ[1]. Quyết định trên đã tạo ra cơ hội hình thành một sân chơi chung cho các nhà đầu tư tài chính trong khu vực. Việc liên kết các SGDCK không những mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư, các công ty chứng khoán (CTCK) có thể thực hiện các giao dịch chứng khoán xuyên biên giới một cách nhanh chóng, an toànvà hiệu quả mà còn tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp của các nước ASEAN có thể niêm yết cổ phiếu trên các SGDCK của nhau để huy động vốn và tăng cường tính thanh khoản. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài và nhất là các doanh nghiệp đến từ các quốc gia thành viên ASEAN có thể niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về điều kiện niêm yết và trình tự, thủ tục mà doanh nghiệp nước ngoài có thể niêm yết cổ phiếu trên các SGDCK của Việt Nam. Thế nhưng, các quy định này vẫn còn khá nhiều bất cập và cần được nghiên cứu, khảo sát và phân tích thấu đáo để hình thành nên những kiến nghị nhằm được hoàn thiện .
2. Đánh giá các quy định pháp luật về điều kiện niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Cơ sở pháp lý quan trọng để doanh nghiệp nước ngoài được niêm yết chứng khoán, trong đó có cổ phiếu trên TTCK Việt Nam là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2010 (Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2010). Khoản 13, Điều 1 của Luật này quy định: “Chính phủ quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục niêm yết chứng khoán của tổ chức phát hành Việt Nam, tổ chức phát hành nước ngoài tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán của Việt Nam; quy định điều kiện,hồ sơ,thủ tục niêm yết chứng khoán của tổ chức phát hành Việt Nam tại Sở giao dịch chứng khoán nước ngoài”. Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán đã có những quy định cụ thể về việc niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp nước ngoài trên TTCK Việt Nam (các Điều 61, 62 và 63). Đây là lần đầu tiên vấn đề niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài được đề cập trong các văn bản pháp quy của Việt Nam về chứng khoán và TTCK được xem là một bước đi đúng hướng nhằm thu hút các doanh nghiệp nước ngoài niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 61, Nghị định số 58/2012/NĐ-CP thì một doanh nghiệp nước ngoài muốn niêm yết cổ phiếu của mình trên TTCK Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện: một là, cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài trước khi niêm yết phải chào bán ra công chúng tại Việt Nam; hai là, doanh nghiệp nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện niêm yết cổ phiếu theo quy định của pháp luật Việt Nam và ba là, doanh nghiệp nước ngoài phải tuân thủ các quy định về hồ sơ, trình tự và thủ tục mà pháp luật Việt Nam quy định riêng đối với doanh nghiệp nước ngoài khi niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam.
Điều kiện thứ nhất: Cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài trước khi niêm yết phải chào bán ra công chúng tại Việt Nam.
Khái niệm chào bán chứng khoán ra công chúng, bao gồm cả chào bán cổ phiếu được quy định tại khoản 12, Điều 6, Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua ngày 29/6 /2006 (Luật Chứng khoán năm 2006). Theo đó, chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức:(a) Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet; (b) Chào bán chứng khoán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; (c) Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.
Từ quy định nêu trên, có thể nhận thấy rằng, theo pháp luật Việt Nam, một đợt chào bán cổ phiếu được xem là ra công chúng nếu đợt chào bán đó có sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để quảng cáo, mời chào các nhà đầu tư tham gia mua mà không phụ thuộc vào kết quả của đợt chào bán đó sẽ có bao nhiêu nhà đầu tư mua được cổ phiếu; hoặc là, đợt chào bán cổ phiếu đó có kết quả bán được cho từ 100 nhà đầu tư trở lên không bao gồm các nhà đầu tư chuyên nghiệp[2] và không phụ thuộc vào việc có sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hay không; hoặc đợt chào bán có phạm vi và đối tượng phân phối cổ phiếu không giới hạn bất luận việc chào bán có sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hay không và có bao nhiêu nhà đầu tư mua được cổ phiếu. Theo quy định tại khoản 1, Điều 13 Luật Chứng khoán năm 2006, thì việc chào bán ra công chúng phải được đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).
Theo quy định của pháp luật hiện hành, doanh nghiệp nước ngoài muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng tại Việt Nam, ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1, Điều 12 Luật Chứng khoán năm 2006[3] và khoản 7, Điều 1 Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2010[4] còn phải đáp ứng điều kiện riêng dành cho doanh nghiệp nước ngoài được quy định tại Điều 19, Nghị định số 58/2012/NĐ-CP. Theo quy định này, các doanh nghiệp doanh nghiệp nước ngoài phải hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi được xác định theo chuẩn mực kế toán quốc tế trong năm liền kề trước năm đăng ký chào bán, đồng thời việc chào bán cổ phiếu ra công chúng phải gắn với một dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt tại Việt Nam, phải có phương án sử dụng vốn khả thi và tổng số vốn thu được từ đợt chào bán không vượt quá 30% tổng vốn đầu tư của dự án. Ngoài ra, việc chào bán cổ phiếu ra công chúng bắt buộc phải đựợc một CTCK thực hiện bảo lãnh phát hành với cam kết chắc chắn và phải có ngân hàng giám sát việc sử dụng vốn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nước ngoài phải cam kết không chuyển nhượng vốn huy động được ra nước ngoài, không rút vốn tự có đối ứng trong thời hạn dự án được cấp phép và phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý ngoại hối. Trường hợp chào bán cổ phiếu phải có cam kết của Đại hội đồng cổ đông về việc đưa cổ phiếu vào giao dịch trên thị trường tập trung trong thời hạn 01 năm từ ngày kết thúc đợt chào bán.
Phân tích các điều kiện đã dẫn chiếu trên cho thấy, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép doanh nghiệp nước ngoài chào bán cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn tại Việt Nam nếu việc huy động vốn đó dùng để sử dụng đầu tư vào dự án đã được phê duyệt tại Việt Nam và không cho phép doanh nghiệp nước ngoài chuyển vốn đã huy động ra nước ngoài. Điều này mặc dù đã tạo nên một “hành lang” khá an toàn cho nền kinh tế Việt Nam trước nguy cơ “chảy máu vốn” cũng như góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích của nhà đầu tư trong nước nhưng đã làm giảm đáng kể tính hấp dẫn của thị trường vốn Việt Nam. Thiết nghĩ, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đặt ra yêu cầu tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng và không phân biệt đối xử. Vì thế, các nhà làm luật Việt Nam cần cân nhắc chỉnh sửa các điều kiện chào bán cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam sát với các điều kiện dành cho các doanh nghiệp Việt Nam hơn mà vẫn không ảnh hưởng đến nhu cầu quản lý hiệu quả hoạt động này. Trước hết, chúng tôi cho rằng cần bãi bỏ quy định yêu cầu “việc chào bán chứng khoán ra công chúng bắt buộc phải đựợc một công ty chứng khoán thực hiện bảo lãnh phát hành với cam kết chắc chắn và phải có ngân hàng giám sát việc sử dụng vốn” vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, quan hệ bảo lãnh phát hành là một quan hệ dựa trên cơ sở tự do ý chí của doanh nghiệp phát hành cổ phiếu và CTCK có chức năng bảo lãnh phát hành, được xác lập bằng hợp đồng bảo lãnh phát hành. Mặt khác, mục đích của việc ký kết hợp đồng bảo lãnh phát hành không nhằm đảm bảo chất lượng của cổ phiếu mà nhằm giúp cho cổ phiếu được chào bán tốt nhất, qua đó doanh nghiệp có thể đạt được mục tiêu huy động được số vốn cần thiết để phục vụ sản xuất, kinh doanh. Thông thường, việc có ký kết hợp đồng bảo lãnh phát hành hay không và với những điều kiện cụ thể nào không chỉ phụ thuộc vào chất lượng cổ phiếu mà còn chịu sự chi phối bởi các yếu tố khác như: tình hình thị trường, tâm lý của nhà đầu tư… và sẽ do chính doanh nghiệp quyết định. Sự can thiệp từ phía cơ quan quản lý thông qua việc áp đặt các doanh nghiệp nước ngoài phải ký kết hợp đồng bảo lãnh phát hành với điều kiện cam kết chắc chắn là không phù hợp với nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và trên cơ sở tự do thỏa thuận giữa các chủ thể để thực hiện những hoạt động mà pháp luật không cấm. Đồng thời, sự can thiệp này có thể tạo nên sự bất bình đẳng trong hoạt động huy động vốn giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ hai, chúng tôi cho rằng, chỉ nên quy định điều kiện “phải có ngân hàng giám sát việc sử dụng vốn” đối với trường hợp doanh nghiệp nước ngoài chào bán cổ phiếu để huy động vốn cho những dự án trong các lĩnh vực đặc thù, có thời hạn triển khai dài và dễ phát sinh tiêu cực hoặc có nguy cơ biến động lớn như: các dự án cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư kinh doanh bất động sản… Song song đó, pháp luật cũng cần quy định rõ cơ chế giám sát và nghĩa vụ báo cáo, công khai thông tin của các doanh nghiệp nước ngoài để đảm bảo tính minh bạch và hạn chế tối đa nguy cơ “lạm quyền” và can thiệp quá sâu, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ phía ngân hàng. Để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động giám sát, pháp luật cũng cần quy định các điều kiện để một ngân hàng có thể tiến hành giám sát việc sử dụng vốn huy động được từ đợt chào bán cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài. Theo chúng tôi, đó là những điều kiện về vốn, về tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh và điều kiện về tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an toàntrong hoạt động ngân hàng…
Điều kiện thứ hai: Doanh nghiệp nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện niêm yết cổ phiếu theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Nghiên cứu cho thấy, điều kiện niêm yết cổ phiếu ở các quốc gia được quy định khác nhau phụ thuộc vào sự phát triển TTCK của mỗi nước. Tại các nước có TTCK phát triển, pháp luật chỉ quy định điều kiện niêm yết tối thiểu để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Các SGDCK được quyền ban hành những điều kiện niêm yết bằng hoặc cao hơn mức đó nhằm tạo ra sự chủ động trong hoạt động của mình[5].
Tại Việt Nam, việc niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nói chung và cổ phiếu của các doanh nghiệp nước ngoài nói riêng phải tuân thủ các điều kiện và quy định của pháp luật Việt Nam, SGDCK không có quyền ban hành các điều kiện niêm yết riêng. Về mặt pháp luật, Luật Chứng khoán năm 2006 và Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2010 thiết lập những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài, trong khi Nghị định số 58/2012/NĐ-CP quy định các điều kiện, trình tự, thủ tục niêm yết. Các SGDCK được quyền ban hành các Quy chế về niêm yết chứng khoán, việc chấp thuận, hủybỏ niêm yết chứng khoán và tiến hành giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết chứng khoán của các tổ chức niêm yết và giám sát hoạt động công bố thông tin của các tổ chức niêm yết.
Theo chúng tôi, Nghị định số 58/2012/NĐ-CP có những quy định về điều kiện niêm yết cổ phiếu tương đối phù hợp với đặc thù của TTCK Việt Nam. Đó là, chúng ta có hai SGDCK song song tồn tại và tương ứng có hai nhóm điều kiện niêm yết, bao gồm: nhóm điều kiện niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh (HOSE) và nhóm điều kiện niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX). Điều này khuyến khích các doanh nghiệp có quy mô và tình hình tài chính khác nhau cũng có thể niêm yết cổ phiếu, qua đó tạo ra nhiều loại hàng hóa với chất lượng khác nhau nhằm đa dạng hóa sự lựa chọn cho nhà đầu tư, nâng cao tính thanh khoản của thị trường đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tận dụng kênh TTCK để huy động vốn.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 53, Nghị định số 58/2012/NĐ-CP thì một doanh nghiệp muốn niêm yết cổ phiếu tại HOSE phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
– Về quy mô vốn: Doanh nghiệp phải là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 120 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Quy định này nhằm chọn lọc ra các doanh nghiệp phải đạt quy mô nhất định về vốn mới được niêm yết cổ phiếu nhằm đảm bảo tính đại chúng của doanh nghiệp và đảm bảo có số lượng cổ phiếu đủ để đáp ứng nhu cầu mua bán của các nhà đầu tư.
– Về tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh và tình hình tài chính: Doanh nghiệp phải có ít nhất 02 năm hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần tính đến thời điểm đăng ký niêm yết (ngoại trừ doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa gắn với niêm yết); tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm gần nhất tối thiểu là 5% và hoạt động kinh doanh của 2 năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi; không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 01 năm[6]; không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký niêm yết; tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán báo cáo tài chính. Ngoài ra, doanh nghiệp phải công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc), Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan. Đây là những điều kiện đảm bảo tính hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và chất lượng của cổ phiếu niêm yết.
– Về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu tối thiểu của cổ đông: Doanh nghiệp phải có tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 300 cổ đông không phải cổ đông lớn[7] nắm giữ, trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Những quy định này nhằm mục đích đảm bảo tính thanh khoản của cổ phiếu sau khi niêm yết. Bởi lẽ, mục tiêu quan trọng hàng đầu khi một doanh nghiệp tiến hành niêm yết cổ phiếu đặt ra là tạo ra tính thanh khoản[8] cho cổ phiếu của mình để đễ dành huy động vốn. Thực tế đã cho thấy, chính hoạt động giao dịch cổ phiếu của các nhà đầu tư nhỏ mới tạo ra sự sôi động và tính thanh khoản cho TTCK.
– Về hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu: Cổ đông là cá nhân, tổ chức có đại diện sở hữu là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) và Kế toán trưởng của công ty; cổ đông lớn là người có liên quan với thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) và Kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 06 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 06 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại điện nắm giữ. Những điều kiện này là để đảm bảo sự gắn bó của các cổ đông chủ chốt, cổ đông lớn là người có liên quan với cổ đông chủ chốt với doanh nghiệp sau khi niêm yết và qua đó là để bảo vệ quyền lợi của cổ đông công chúng, đặc biệt là cổ đông nhỏ đồng thời giúp ngăn chặn những giao dịch tư lợi liên quan đến giao dịch cổ phiếu có thể diễn ra trong giai đoạn sau khi niêm yết, gây ảnh hưởng không tốt đến thị trường.
So với các điều kiện niêm yết tại HOSE thì điều kiện niêm yết cổ phiếu tại HNX thấp hơn nhiều. Ngoài các điều kiện mang tính chất nguyên tắc áp dụng chung cho cả hai Sở như: việc hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu của cổ đông chủ chốt và người có liên quan với họ là cổ đông lớn và phải có hồ sơ hợp lệ thì pháp luật chỉ đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu tại HNX là: có vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng tính trên giá trị ghi trên sổ kế toán, có ít nhất 01 năm hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần tính đến thời điểm đăng ký niêm yết (ngoại trừ doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa gắn với niêm yết) đồng thời tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm liền trước năm đăng ký niêm yết tối thiểu là 5% và không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 01 năm, không có lỗ lũy kế tính đến thời điểm đăng ký niêm yết; tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán báo cáo tài chính (điểm a và điểm b khoản1, Điều 54, Nghị định số 58/2012/NĐ-CP). Bên cạnh đó doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu tại HNX chỉ cần có tối thiểu 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 cổ đông không phải cổ đông lớn nắm giữ, trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Nhìn chung, các điều kiện niêm yết cổ phiếu ở HOSE và HNX so với nhiều SGDCK trong khu vực còn khá thấp nhưng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam là quy mô các doanh nghiệp chưa lớn, tính đại chúng chưa cao. Một số điều kiện mang tính định tính và định lượng nhằm bổ sung tiêu chí đánh giá chất lượng cổ phiếu niêm yết nhưng vẫn chưa được các nhà làm luật Việt Nam quan tâm. Đó là điều kiện về mức vốn hóa của doanh nghiệp niêm yết và yêu cầu về quản trị công ty.
Khác với các nhà làm luật Việt Nam, các nhà làm luật Singapore không căn cứ vào mức vốn điều lệ mà căn cứ vào mức vốn hóa để xác định quy mô vốn của doanh nghiệp với tư cách là một điều kiện niêm yết cổ phiếu quan trọng. Ví dụ, các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên sàn Main Board của Sở giao dịch chứng khoán Singapore (SGX) phải đáp ứng một trong ba tiêu chí: a) Lợi nhuận trước thuế hợp nhất tích lũy trong 3 năm liền kề trước năm niêm yết đạt tối thiểu 7,5 triệu đô la Singapore (SGD), trong đó, lợi nhuận hợp nhất mỗi năm không dưới 1 triệu SGD; hoặc b) Lợi nhuận trước thuế hợp nhất tích lũy trong 1 hoặc 2 năm liền kề trước năm niêm yết ít nhất là 10 triệu SGD; hoặc c) Mức vốn hóa tối thiểu là 80 triệu SGD tại thời điểm chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng dựa vào giá phát hành và vốn cổ phần sau khi phát hành. Chúng tôi cho rằng, cách tiếp cận này rất thực tế và hoàn toàn hợp lý. Theo các nhà nghiên cứu về tài chính, “mức vốn hóa thị trường là một khái niệm chỉ giá trị thị trường của toàn bộ số lượng cổ phiếu của một công ty cổ phần, được tính bằng cách nhân giá trị thị trường một cổ phiếu với tổng khối lượng cổ phiếu đang lưu hành của công ty đó”[9]. Giá trị thực của một công ty cổ phần (khả năng sinh lợi, vốn chủ sở hữu thể hiện trong bảng cân đối kế toán…) có thể khác xa mức vốn hóa của công ty do giá trị thị trường của công ty cổ phần được tính toán căn cứ vào thị giá cổ phiếu. Các yếu tố tác động đến thị giá cổ phiếu rất đa dạng, bao gồm cả tình hình cung cầu, tâm ý nhà đầu tư, các thông tin công bố. Do mức vốn hóa của doanh nghiệp thể hiện quan điểm chung của thị trường về giá trị của một doanh nghiệp nên khái niệm này thường được sử dụng như một trong những thước đo về quy mô của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Trong khi đó vốn điều lệ của một doanh nghiệp tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá số cổ phần đã bán các loại[10]. Như vậy, có thể thấy rằng cách xác định mức vốn hóa luôn gắn với thị trường, còn cách xác định vốn điều lệ là không phụ thuộc vào yếu tố thị trường và chỉ mang giá trị danh nghĩa làm cơ sở xác định tỷ lệ sở hữu của các cổ đông. Do vậy, trách nhiệm tài sản và nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp phải được dựa trên tổng số tài sản của nó tính theo giá trị thị trường (mức vốn hóa) chứ không thể căn cứ vào các giá trị mang tính chất quy ước và mang tính danh nghĩa như vốn điều lệ. Xét về bản chất, vốn điều lệ chỉ là một yếu tố để xác định mức vốn hóa mà thôi.
Song song đó, theo quy định của Quy chế niêm yết tại SGX, doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên SGX phải đảm bảo một cấu trúc quản trị rõ ràng, minh bạch để kiểm sóat các giao dịch với người có liên quan. Trong ban giám đốc phải có ít nhất 2 giám đốc không trực tiếp điều hành, độc lập về quan hệ tài chính và kinh doanh với công ty xin niêm yết. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, phải có ít nhất 2 giám đốc độc lập, và một trong 2 người này phải là công dân Singapore. Ngoài ra, trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp phải có ủy ban kiểm tóan[11]. Trong khi đó, các nhà làm luật Việt Nam chưa xem việc áp dụng các nguyên tắc về quản trị công ty như một điều kiện niêm yết như ở Singapore mặc dù theo quy định hiện hành, các công ty đại chúng có nghĩa vụ phải áp dụng các nguyên tắc về quản trị công ty theo Thông tư số 121/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về quản trị công ty áp dụng cho các công ty đại chúng ngày 26/07/2012. Theo Thông tư này, thì đối tượng áp dụng quản trị công ty cũng bao gồm các doanh nghiệp đã niêm yết cổ phiếu trên các SGDCK. Như vậy, chỉ sau khi thực hiện niêm yết thì doanh nghiệp mới phát sinh nghĩa vụ này. Điều này là chưa thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì quản trị công ty giúp việc quản trị, điều hành minh bạch hơn, ngăn ngừa xung đột lợi ích, bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông…sẽ góp phần làm nâng cao chất lượng của cổ phiếu. Việc chưa quy định việc áp dụng các nguyên tắc về quản trị công ty như một trong những điều kiện cơ bản mà một doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu phải đáp ứng cho thấy các nhà làm luật Việt Nam vẫn chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này.
Thiết nghĩ, đã đến lúc các nhà làm luật Việt Nam nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm của các nước có TTCK phát triển, trong đó có Singapore để hoàn thiện các điều kiện, tiêu chí niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam.
Điều kiện thứ ba: Doanh nghiệp nước ngoài phải tuân thủ các quy định về hồ sơ, trình tự và thủ tục mà pháp luật Việt Nam quy định riêng đối với doanh nghiệp nước ngoài khi niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Bên cạnh việc phải đáp ứng các điều kiện về hồ sơ, trình tự và thủ tục mà pháp luật Việt Nam quy định cho các doanh nghiệp trong nước được quy định tại khoản, 2 Điều 57 của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP, doanh nghiệp nước ngoài niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam còn phải đáp ứng các điều kiện riêng mang tính đặc thù mà các nhà làm luật Việt Nam đã “sáng tạo” riêng cho họ. Các điều kiện này được quy định tại khoản 1, Điều 2 của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP bao gồm: a) Cam kết của tổ chức nước ngoài thực hiện dự án tại Việt Nam; b) Cam kết không chuyển vốn ra nước ngoài và không rút vốn tự có đối ứng trong thời hạn dự án được cấp phép; c) Cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của tổ chức niêm yết theo quy định của pháp luật Việt Nam; d) Hợp đồng tư vấn niêm yết. Về thủ tục đăng ký niêm yết, khoản 2, Điều 2 của Nghị định này quy định: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận hoặc từ chối cho tổ chức phát hành nước ngoài làm thủ tục đăng ký niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam. Trường hợp từ chối chấp thuận, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do”(điểm a) và “Sở giao dịch chứng khoán hướng dẫn cụ thể giao dịch chứng khoán tại Việt Nam sau khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận” (điểm b).
Phân tích các quy định vừa nêu trên chúng ta có thể nhận thấy rằng, nhìn chung các điều kiện về hồ sơ niêm yết cổ phiếu trong pháp luật Việt Nam dành cho các doanh nghiệp trong nước cũng khá tương đồng với các yêu cầu về hồ sơ niêm yết ở SGDCK của các nước. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong hồ sơ niêm yết cổ phiếu tại SGDCK Việt Nam, pháp luật còn yêu cầu phải có “Giấy cam kết hạn chế tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài theo quy định của pháp luật đối với lĩnh vực kinh doanh đặc thù (nếu có)”. Bởi lẽ, tại Việt Nam theo Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/04/2009 thì tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu tối đa của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam là 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại chúng. Các điều kiện về hồ sơ quy định dành riêng cho doanh nghiệp nước ngoài niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam theo chúng tôi là khá chặt chẽ. Sự chặt chẽ này nhằm kiểm soát việc sử dụng vốn của nhà đầu tư nước ngoài sau khi huy động tại Việt Nam và ngăn chặn việc chuyển số vốn đó ra nước ngoài. Tuy nhiên, điều này làm giảm đi rất nhiều tính hấp dẫn của thị trường vốn Việt Nam và không khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài niêm yết cổ phiếu tại các Sở giao dịch chứng khoán của Việt Nam. Riêng về thủ tục đăng ký niêm yết cổ phiếu thì pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Nghị định 58/2012/NĐ-CP đã có những quy định trái với thông lệ quốc tế là đã trao quyền cho UBCKNN Việt Nam được chấp thuận hoặc từ chối niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài, tức là UBCKNN đã thực hiện chức năng quản lý niêm yết thay cho các SGDCK. Điều này không những làm cho thủ tục đăng ký niêm yết trở nên phức tạp và bị hành chính hóa mà còn tạo ra những rào cản nhất định trong việc tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp nước ngoài đi ngược lại với xu hướng hội nhập và những cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Dưới góc độ này, chúng tôi đề nghị cần sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục đăng ký niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài theo hướng chuyển chức năng chấp thuận hoặc từ chối niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài từ UBCKNN cho các SGDCK. Có như vậy, chúng ta mới ngăn chặn được nguy cơ hành chính hóa hoạt động niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngoài trên TTCK Việt Nam và góp phần tạo ra môi trường kinh doanh và cơ hội tiếp cận thị trường vốn một cách công bằng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài thu hút các doanh ngiệp nước ngoài niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam.
Tóm lại, về cơ bản pháp luật Việt Nam đã có những quy định về điều kiện niêm yết cổ phiếu khá chi tiết và tương đối bao quát những khía cạnh hoạt động của doanh nghiệp, là cơ sở để đánh giá chất lượng cổ phiếu niêm yết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Điều này, góp phần phát triển TTCK Việt Nam theo hướng lành mạnh, minh bạch và đúng pháp luật. Các điều kiện niêm yết cổ phiếu theo quy định của pháp luật hiện hành không những tương đối phù hợp với thực lực của các doanh nghiệp Việt Nam mà còn tạo điều kiện, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, các điều kiện niêm yết cổ phiếu trên HOSE và HNX của Việt Nam vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, cần được tiếp tục rà soát, điều chỉnh theo hướng chi tiết, linh hoạt và hợp lý hơn trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, trong đó có Singapore. Cần đặt mục tiêu hoàn thiện các điều kiện niêm yết cổ phiếu nói chung và điều kiện niêm yết chứng khoán nói riêng như một chiến lược và bước đi quan trọng để thu hút các doanh nghiệp nước ngoài niêm yết tại Việt Nam và xa hơn là để TTCK Việt Nam hội nhập với khu vực và quốc tế.
CHÚ THÍCH
* PGS-TS Luật học, Khoa Luật, Trường ĐH Kinh tế Luật, Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Xem: Thanh Thương, “Kết nối ASEAN: Chứng khoán Việt Nam cần chuẩn bị nhiều”. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2014.
[2] Theo khoản 1, Điều 6, Luật Chứng khoán năm 2006 thì, “nhà đầu tư chứng khóan chuyên nghiệp là ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán”.
[3] Khoản 1, Điều 12 Luật Chứng khoán năm 2006 quy định các điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng gốm: a)Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán; b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán; c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
[4] Khoản 7, Điều 1 Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2010 quy định: “Công ty đại chúng đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng phải cam kết đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức trong thời hạn một năm, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua”.
[5] Lê Vũ Nam, Lê Hà Diễm Châu (2012), “Hoàn thiện pháp luật về điều kiện niêm yết chứng khoán tại Việt Nam”, Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 12, tr. 14-21.
[6] Pháp luật Việt Nam hiện hành định nghĩa nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn thanh toán theo cam kết tại khế ước cho vay/hợp đồng tín dụng (Xem điểm (jj), Mục 1, Công văn số 12919 /NHNN-KTTC về việc tính lãi chậm trả đối với nợ gốc quá hạn và/hoặc lãi nợ quá hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 06/ 12/ 2007 gửi Ngân hàng Thương mại cổ phần Nam Á).
[7] Theo quy định tại khoản 9, Điều 6 của Luật Chứng khoán năm 2006 thì cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành.
[8] Tính thanh khoản của cổ phiếu được hiểu là khả năng chuyển đổi cổ phiếu thành tiền và ngược lại hay còn gọi là tính dễ mua, dễ bán của cổ phiếu. Để biết thêm chi tiết về tính thanh khoản của cổ phiếu xem: Lê Vũ Nam, Phan Thị Tường Tâm, “Nâng cao tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 06, 200, 2005, tr. 25-28.
[9] Nguyễn Đức Hải, “Hiểu thế nào về vốn hoá thị trường của VCB?”, Đầu tư chứng khoán, (125), 2009, tr. 21.
[10] Khoản 1, Điều 111 Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015.
[11] Về điều kiện niêm yết trên SGX, xem: Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Singapore, tại:.http://luatminhkhue.vn/chinh-sach/niem-yet-co-phieu-tren-thi-truong-chung-khoan-singapore.aspx. Truy cập ngày 24//10/ 2014. Xem thêm: Trần Việt Dũng, Vũ Trí Đăng, “Những tồn tại pháp lý và thách thức trong niêm yết chứng khoán ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam: tiếp cận từ thưc tiễn niêm yết tại thị trướng chứng khoán Singapore”,Tạp chí Khoa học pháp lý, số 05, 2012, tr. 49-57./.
- Tác giả: TS. Lê Vũ Nam*
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03 (88)/2015 – 2015, Trang 26-33
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời