Mục lục
Tên doanh nghiệp và khả năng xâm phạm quyền đối với tên doanh nghiệp từ góc độ pháp luật sở hữu công nghiệp
Tác giả: ThS. Ngô Phương Trà
TÓM TẮT
Hiện nay, cơ quan đăng ký doanh nghiệp sẽ cấp tên doanh nghiệp nếu nó không vi phạm những quy định cấm như trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp đã đăng ký; sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị… hay vi phạm đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục… mà không xem xét đến việc tên doanh nghiệp đó có khả năng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) hay không. Vì vậy, khả năng tên doanh nghiệp xâm phạm quyền SHCN rất dễ xảy ra. Bài viết đề cập các vấn đề: (i) Quy định của pháp luật về tên doanh nghiệp; (ii) Các đối tượng SHCN có khả năng bị xâm phạm bởi tên doanh nghiệp; (iii) Thực trạng xâm phạm quyền SHCN của tên doanh nghiệp; (iv) Kinh nghiệm của một số nước về vấn đề tên doanh nghiệp; (v) Một số kiến nghị cho Việt Nam về vần đề tên doanh nghiệp.
Xem thêm bài viết về “Quyền sở hữu công nghiệp”
- Về một số vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo luật định – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu sáng chế và cộng đồng trong bảo hộ sáng chế – ThS. Nguyễn Phương Thảo & ThS. Lê Khả Luận
- Về một số vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về tên doanh nghiệp
1.1. Quy định của pháp luật về tên doanh nghiệp trước Luật Doanh nghiệp năm 2014
Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 1999[1] chỉ có một quy định duy nhất về tên doanh nghiệp tại khoản 1 Điều 24. Theo đó, việc đặt tên doanh nghiệp tương đối dễ dàng, không bắt buộc phải có thành tố tên riêng trong tên doanh nghiệp, phạm vi xem xét về khả năng trùng hoặc gây nhầm lẫn của tên doanh nghiệp cũng chỉ giới hạn trong một đơn vị hành chính cấp tỉnh.
LDN năm 2005[2] quy định chi tiết hơn về vấn đề này từ Điều 31 đến Điều 34. Đã có một số thay đổi trong LDN năm 2005 so với LDN năm 1999, đặc biệt là quy định bắt buộc tên doanh nghiệp phải có thành tố tên riêng,[3] quy định chi tiết về tên doanh nghiệpviết bằng tiếng nước ngoài[4] và quy định chi tiết các trường hợp bị coi là tên trùng hoặc gây nhầm lẫn.[5]
Vấn đề tên doanh nghiệp trong LDN năm 2005 được hướng dẫn thi hành chi tiết tại Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về Đăng ký kinh doanh (viết tắt là Nghị định số 88/2006/NĐ-CP)(Điều 10 đến Điều 13) và Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng ký doanh nghiệp (viết tắt là Nghị định số 43/2010/NĐ-CP)(Điều 13 đến Điều 17).
Điểm đáng lưu ý nhất trong Nghị định số 88/2006/NĐ-CP là quy định tại khoản 4 Điều 11. Theo đó, lần đầu tiên vấn đề tên doanh nghiệp có khả năng xâm phạm quyền SHCN, cụ thể là tên thương mại (TTM), được pháp luật quy định. Tuy nhiên, quy định này còn chưa thực sự tương đồng với Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) và chưa đưa ra được căn cứ để xử lý trong trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quyền SHCN.
Để hướng dẫn thi hành LDN, về tên doanh nghiệp, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP có các yêu cầu chi tiết: (i) tên doanh nghiệp không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký trong phạm vi toàn quốc; việc mở rộng phạm vi xem xét về tên trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp khác trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam sẽ giảm bớt khả năng xâm phạm quyền SHCN khi mà các đối tượng SHCN được bảo hộ trên toàn lãnh thổ Việt Nam; (ii) mở rộng các đối tượng quyền SHCN có thể bị vi phạm bởi tên doanh nghiệp đến nhãn hiệu (NH) và chỉ dẫn địa lý (CDĐL). Ngoài ra, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP có riêng một điều (Điều 17) quy định về cách xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quy định về SHCN, cụ thể là: khuyến nghị chủ đầu tư tham khảo các NH và CDĐL đã đăng ký tại Cơ sở dữ liệu của Cục Sở hữu trí tuệ trước khi đăng ký tên doanh nghiệp; căn cứ để xác định tên doanh nghiệpvi phạm quyền SHCN được thực hiện theo các quy định của pháp luật SHTT. Trường hợp tên doanh nghiệpvi phạm các quy định về bảo hộ quyền SHCN thì doanh nghiệp có tên vi phạm phải đăng ký đổi tên; chủ sở hữu quyền SHCN có quyền đề nghị cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp có tên xâm phạm phải thay đổi tên, nếu doanh nghiệp đó không đổi tên theo thông báo của cơ quan đăng ký kinh doanh thì cơ quan này thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật về SHTT. Có thể nói, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP đã đưa ra được khung pháp lý cho việc ngăn chặn và xử lý các trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quyền SHCN.
1.2. Quy định về tên doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014
Vấn đề về tên doanh nghiệp được quy định trong 5 điều của LDN năm 2014 (Điều 38 đến Điều 42). Về cơ bản, LDN năm 2014 không có nhiều khác biệt so với LDN năm 2005 ngoài việc có quy định thêm về tên chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh đồng thời cụ thể hóa hơn nữa quy định về tên gây trùng hoặc nhầm lẫn.
Nghị định số 78/2015/NĐ-CP[6] về đăng ký doanh nghiệp kế thừa gần như toàn bộ các nội dung liên quan đến vấn đề tên doanh nghiệp tại Nghị định số 88/2006/NĐ-CP và Nghị định số 43/2010/NĐ-CP. Ngoài ra, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP có một số điểm khác biệt như sau: (i) Một số thuật ngữ được sử dụng chính xác hơn như “người thành lập doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp”thay cho từ “doanh nghiệp”(khi đặt tên doanh nghiệp thì doanh nghiệp có thể chưa hình thành),“xâm phạm quyền SHCN”thay cho “vi phạm quyền SHCN”…; (ii) Mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu xử lý trong trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền SHCN từ “chủ SHCN”thành “chủ thể quyền SHCN”[7] ; (iii) Phòng Đăng ký kinh doanh chỉ ra thông báo yêu cầu doanh nghiệp xâm phạm đổi tên doanh nghiệp theo yêu cầu của chủ thể quyền SHCN trong trường hợp xâm phạm quyền đối với NH và CDĐL (không xử lý trong trường hợp xâm phạm quyền đối với TTM như trước đây); (iv) Điểm khác biệt quan trọng nhất là tại khoản 6 Điều 19 quy định cho phép Phòng Đăng ký kinh doanh chủ động thực hiện việc thu hồi Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, trong trường hợp doanh nghiệp đã bị xử lý vi phạm hành chính mà quyết định xử phạt có áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc thay đổi tên doanh nghiệp hoặc buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp vi phạm không thực hiện trong thời hạn luật định thì cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm có thể thông báo cho Phòng Đăng ký kinh doanh; Phòng Đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp vi phạm báo cáo giải trình nhưng doanh nghiệp này tiếp tục không báo cáothì sẽ bị thu hồi Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Quy định tại khoản 6 Điều 19 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP đã thể hiện một sự tiến bộ nhất định khi cho phép Phòng đăng ký kinh doanh chủ động thực hiện việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định này chưa thực sự đầy đủ, nếu doanh nghiệp có báo cáo giải trình thì sẽ xử lý tiếp như thế nào (báo cáo giải trình hợp lý hoặc không hợp lý). Hơn nữa, việc cho doanh nghiệp báo cáo, giải trình trong trường hợp này có thực sự cần thiết không khi mà doanh nghiệp không thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì cũng đã đủ căn cứ để ra quyết định thu hồi Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ngay. Giả sử cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm ra quyết định xử phạt không đúng thì doanh nghiệp có thể khiếu nại lại quyết định đó theo đúng quy định, hoặc ngay cả khi Phòng Đăng ký kinh doanh ra quyết định thu hồi Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì doanh nghiệp vẫn còn cơ hội khiếu nại lại quyết định này.
2. Các đối tượng sở hữu công nghiệp có khả năng bị xâm phạm bởi tên doanh nghiệp
2.1. Nhãn hiệu
Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2009 quy định: NH là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Để được bảo hộ, NH phải đáp ứng các điều kiện: (i) Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó; (ii) Dấu hiệu làm NH phải có khả năng phân biệt, đó là nó phải được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể mà tổng thể đó dễ nhận biết và dễ ghi nhớ; (iii) Không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 73 Luật SHTT 2009;[8] (iv) Không bị coi là không có khả năng phân biệt theo quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật SHTT 2009.[9] Quyền SHCN đối với NH được xác lập trên cơ sở quyết định cấp băn bằng bảo hộ của Cục SHTT theo thủ tục đăng ký NH hoặc công nhận đăng ký quốc tế NH.
Như vậy, khác với tên doanh nghiệp, NH không có chức năng cá thể hóa hay định danh cho một doanh nghiệp mà chức năng của NH là nhằm phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác nhau. Có thể thấy rằng sự khác biệt giữa NH và tên doanh nghiệplà khá rõ ràng.
Trên thực tế, rất nhiều trường hợp doanh nghiệp sử dụng phần tên riêng trong tên doanh nghiệpcủa mình làm NH hoặc dấu hiệu chính trong NH. Ví dụ: Công ty cổ phần Dầu thực vật Tường An sở hữu NH “Tường An, hình”;[10] Công ty trách nhiệm hữu hạn Ba Huân sở hữu NH “BA HUÂN”;[11] hay Công ty TNHH Minh Long I sở hữu NH “Minh Long, hình”.[12]
Ngược lại, cũng có nhiều trường hợp mà tên doanh nghiệpvà các NH là những dấu hiệu hoàn toàn khác nhau. Ví dụ NH hoàn toàn khác với tên doanh nghiệp: Công ty cổ phần vàng bạc đá quý Phú Nhuận sở hữu NH “PNJ, hình”;[13] Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhật Linh sở hữu NH “LIOA”;[14] hay Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam sở hữu NH “EXIMBANK, hình”.[15]
Để thấy được phần nào bức tranh toàn cảnh thực trạng xâm phạm quyền NH của tên doanh nghiệp, xin đưa ra một ví dụ tiễn điển hình dưới đây:
Công ty Intel Corporation (Hoa Kỳ) là chủ sở hữu khoảng 70 NH có chứa chữ “INTEL” tại Việt Nam, trong đó chủ yếu là độc quyền cho các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến phần cứng và phần mềm máy tính, thông tin liên lạc. Năm 2013, Intel Corporation phát hiện Công ty cổ phần Giải pháp công nghệ và truyền thông Intellsoft (Công ty Intellsoft) sử dụng dấu hiệu có chứa chữ “INTEL” thuộc độc quyền NH của mình trong tên doanh nghiệpvà trên biển hiệu. Intel Corporation đã có đơn đề nghị Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ xử lý hành vi xâm phạm NH trên.
Qua thanh tra cho thấy: Công ty Intellsoft đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (số 0103024262) với nhiều lĩnh vực, trong đó có: sản xuất, buôn bán, cài đặt, cho thuê, tư vấn thiết kế phần mềm tin học và các dịch vụ máy tính… Công ty Intellsoft đang sử dụng dấu hiệu chữ “INTELLSOFT” là thành phần tên riêng trong tên và biển hiệu của doanh nghiệp. Thanh tra Bộ KH&CN cho rằng: (i) Dấu hiệu “INTELLSOFT” trên tên doanh nghiệp, biển hiệu của Công ty Intellsoft tương tự với NH “INTEL” đang được bảo hộ tại Việt Nam cho Công ty Intel Corporation; (ii) Các sản phẩm/ dịch vụ do Công ty Intellsoft cung cấp là tương tự với sản phẩm/dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo NH “INTEL” của Intel Coporation.
Kết luận của Thanh tra Bộ KH&CN là: Việc Công ty Intellsoft sử dụng dấu hiệu “INTELLSOFT” cho các sản phẩm/ dịch vụ sản xuất, buôn bán, cài đặt, cho thuê, tư vấn thiết kế phần mềm tin học và các dịch vụ máy tính mà không được phép của Intel Coporation là có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và là hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với NH được quy định tại Điều 129 Luật SHTT và khoản 13, Điều 11 của Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định Xử phạt vi phạm hành chính về SHCN (nay là Nghị định số 99/2013/NĐ-CP).
2.2. Tên thương mại
Khoản 21 Điều 4 Luật SHTT năm 2009 quy định: TTM là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh (khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng). Để được bảo hộ TTM phải đáp ứng điều kiện là có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh; khả năng phân biệt của TTM bao gồm (i) chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi do sử dụng và (ii) không vi phạm quyền đối với TTM, NH và CDĐL của người khác.
Quyền SHCN đối với TTM được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp TTM đó, vì vậy mà pháp luật SHTT hiện nay không quy định thủ tục đăng ký cho đối tượng này. Việc quy định quyền sở hữu TTM tự động phát sinh khi đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ là phù hợp với thông lệ và các điều ước quốc tế về bảo hộ SHCN. Tuy nhiên, không tiến hành thủ tục đăng ký TTM sẽ làm tăng nguy cơ TTM bị xâm phạm quyền, vì không có một cơ sở dữ liệu nào về các TTM đã được bảo hộ nên chủ đầu tư không thể tra cứu để tránh chọn tên cho doanh nghiệp trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với TTM. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp đến Cục SHTT để được tư vấn hoặc nộp đơn cũng bày tỏ nguyện vọng được đăng ký TTM của mình như một “tuyên bố” về quyền sở hữu đối với TTM.
TTM khác với tên doanh nghiệpở chỗ nó là tên gọi không chỉ của tổ chức mà còn của cá nhân; tên gọi này có thể được ghi nhận hoặc không được ghi nhận trong giấy chứng nhận thành lập của tổ chức nhưng nó phải được dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh với chức năng là để phân biệt các chủ thể kinh doanh khác nhau.
Trên thực tế, TTM và tên doanh nghiệpcó thể là hai dấu hiệu hoàn toàn độc lập nhau. Ví dụ: “Công ty cổ phần xây dựng số 1” là tên doanh nghiệpđược ghi nhận trong giấy đăng ký doanh nghiệp nhưng trong hoạt động kinh doanh của mình công ty này sử dụng tên “Công ty COFICO”là chủ yếu,[16] như vậy, “Công ty COFICO”không phải là tên doanh nghiệpnhưng nó chính là TTM củaCông ty cổ phần xây dựng số 1. Tương tự như vậy, “Công ty cổ phần sản xuất hàng gia dụng quốc tế” có TTM là “Công ty ICP”
Ngược lại, cũng tồn tại rất nhiều trường hợp cùng một dấu hiệu được sử dụng làm cả hai chức năng là TTM và tên doanh nghiệp. Có lẽ vì vậy mà có nhiều người nhầm lẫn TTM chính là tên doanh nghiệp hoặc nghĩ rằng đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là được bảo hộ độc quyền tên doanh nghiệp của mình. Một vài ví dụ cho trường hợp sử dụng cùng một dấu hiệu làm cả hai chức năng là TTM và tên doanh nghiệp là: Công ty CP Kinh Đô,[17] Công ty CP may Việt Tiến,[18] Công ty CP dầu thực vật Tường An[19] , Công ty TNHH Ba Huân,[20] Công ty CP sản xuất nhựa Duy Tân[21]
Dưới đây là một ví dụ thực tiễn điển hình về thực trạng xâm phạm quyền TTM của tên doanh nghiệp:
Công ty liên doanh SECOM Việt Nam đăng ký thành lập doanh nghiệp vào 1/2006, đến tháng 7/2008 chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn SECOM Việt Nam (Công ty SECOM). Công ty SECOM phát hiện Công ty trách nhiệm hữu hạn SE COM (Công ty SE COM) thành lập năm 2007 đã sử dụng tên doanh nghiệptương tự gây nhầm lẫn với TTM (đồng thời là tên doanh nghiệp) của công ty mình. Tháng 8/2011 Công ty SECOM nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh yêu cầu Công ty SE COM chấm dứt sử dụng tên doanh nghiệpvà bồi thường thiệt hại vì đã có hành vi xâm phạm quyền SHCN đối vối TTM.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử nhận định rằng: (i) TTM của nguyên đơn được sử dụng trước khi bị đơn đăng ký và sử dụng tên doanh nghiệp; (ii) Tên doanh nghiệpcủa bị đơn bị xem là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với TTM của nguyên đơn; (iii) Tuy nhiên, nguyên đơn kinh doanh dịch vụ tư vấn các giải pháp về an toàn phòng cháy chữa cháy, dịch vụ điện… còn bị đơn thì kinh doanh dịch vụ lắp đặt, sửa chữa, bảo trì và mua bán về lĩnh vực này, hai dịch vụ khác nhau. Từ những nhận định đó tòa sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn vì cho rằng những yêu cầu này là không có căn cứ.
Nguyên đơn đã kháng cáo bản án sơ thẩm. Tòa phúc thẩm trưng cầu giám định tại Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ, kết luận giám định cho rằng hai ngành nghề kinh doanh trên là tương tự nhau và việc bị đơn sử dụng tên doanh nghiệplà xâm phạm quyền SHCN đối với TTM của nguyên đơn. Vì vậy, tòa phúc thẩm tuyên tên doanh nghiệpcủa Công ty SE COM vi phạm TTM của Công ty SE COM Việt Nam, buộc Công ty SE COM phải chấm dứt việc sử dụng tên “Công ty TNHH SE COM” và tên viết tắt “SE COM Co., Ltd.”, đồng thời bồi thường cho Công ty SE COM Việt Nam số tiền là 100.000 triệu đồng.[22]
2.3. Chỉ dẫn địa lý
Khoản 22 Điều 4 Luật SHTT năm 2009 quy định: CDĐL là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Để được bảo hộ, CDĐL phải đáp ứng các điều kiện: (i) Sản phẩm mang CDĐL có nguồn gốc địa lý tương ứng với CDĐL; (ii) Sản phẩm đó phải có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý tương ứng với vùng CDĐL đó quyết định. Quyền SHCN đối với CDĐL được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của Cục SHTT theo thủ tục đăng ký CDĐL.
CDĐL khác với tên doanh nghiệp, nó là dấu hiệu để chỉ nguồn gốc địa lý của những sản phẩm có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính đặc thù do điều kiện địa lý đó quyết định, không liên quan gì đến việc định danh cho một doanh nghiệp. Một sự khác biệt quan trọng nữa đó là CDĐL không thuộc quyền sở hữu của một doanh nghiệp nào, nó là tài sản của nhà nước và chỉ các cá nhân, tổ chức đáp ứng điều kiện nhất định mới được quyền sử dụng đối với CDĐL.
Thực tế vẫn có những trường hợp mà trong tên doanh nghiệp có chứa tên địa danh, điều này ẩn chứa nguy cơ tên doanh nghiệp có thể xâm phạm quyền SHCN đối với CDĐL, nhất là khi tên địa danh của những vùng có các loại đặc sản địa phương lại được dùng để đặt tên cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chính loại sản phẩm đó. Ví dụ: “Doanh nghiệp tư nhân Quê Hương Tân Triều”[23] là tên một doanh nghiệp chuyên cung cấp quả bưởi và các sản phẩm làm từ bưởi như nem bưởi, rượu bưởi… trong khi hiện nay “Bưởi Tân Triều” cũng đã được bảo hộ CDĐL.[24] Trường hợp khác là “Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Bến Tre”[25] là tên một công ty chuyên cung cấp sản phẩm từ quả và cây dừa như cơm dừa, dầu dừa, hàng thủ công mỹ nghệ từ gỗ dừa… trong khi có lẽ người Việt Nam ai cũng biết rằng Bến Tre là nơi nổi tiếng lâu đời vì có nhiều dừa và dừa ở đây chất lượng rất cao.
Xem thêm bài viết về “Tên doanh nghiệp”
3. Kinh nghiệm của một số nước về vấn đề tên doanh nghiệp
Hầu hết các nước đều có quy định riêng về vấn đề đặt tên doanh nghiệp trong các đạo luật liên quan. Không chỉ tại Việt Nam mà phần lớn các cơ quan đăng ký doanh nghiệp tại các nước khác, ví dụ Anh (Luật Công ty năm 2009 của Anh[26] ) hay New Zealand (Luật Công ty năm 1993 của New Zealand[27] ), đều không xem xét đến việc tên doanh nghiệp có khả năng xâm phạm quyền SHCN hay không, họ sẽ chấp thuận cấp tên doanh nghiệp miễn là tên đó chưa được cấp (tạm cấp) cho doanh nghiệp nào khác và nó không vi phạm các điều cấm như vấn đề vào đạo đức, văn hóa… Như vậy, chủ đầu tư chính là người tự chịu trách nhiệm về khả năng xâm phạm quyền SHCN của tên doanh nghiệp. Điều đó cũng cho thấy là khả năng xâm phạm quyền SHCN của tên doanh nghiệp không chỉ là vần đề của Việt Nam mà cũng là vấn đề của nhiều nước. Tuy nhiên, một số nước đã có cơ chế nhằm hạn chế tối đa vấn đề này bằng các quy định của pháp luật hoặc bằng việc cung cấp các điều kiện kỹ thuật giúp chủ đầu tư thuận lợi hơn trong việc chọn tên doanh nghiệp. Theo, chúng tôi thì có hai kinh nghiệm có thể xem xét áp dụng tại Việt Nam như sau:
3.1. Cung cấp cơ sở dữ liệu tra cứu tên doanh nghiệp tích hợp với cơ sở dữ liệu quyền sở hữu công nghiệp
Tại Việt Nam, chỉ có thể kiểm tra được tên doanh nghiệp đã đăng ký tại cổng thông tin doanh nghiệp quốc gia, nếu chủ đầu tư am hiểu hơn thì có thể kiểm tra thêm các thông tin về NH và CDĐL tại cơ sở dữ liệu của Cục SHTT. Riêng đối với TTM thì vì Luật SHTT của ta không có quy định nào về việc đăng ký nên không có cơ sở dữ liệu nào để kiểm tra trước khi chọn tên doanh nghiệp.
Trong khi đó, cơ sở dữ liệu tại cổng thông tin điện tử của một số cơ quan đăng ký thành lập doanh nghiệpcòn có thể được tích hợp thêm các thông tin khác về SHCN. Ví dụ tại Thái Lan, Cục Phát triển doanh nghiệp của Thái Lan (Department of Business Development)[28] , và Cơ quan quản lý Doanh nghiệp và Kế toán ACRAcủa Singapore[29] ngoài dữ liệu về tên doanh nghiệp còn có dữ liệu về TTM; Ủy ban Chứng khoán và Đầu tư của Úc[30] thì không chỉ tích hợp dữ liệu về tên doanh nghiệpvà TTM mà còn tích hợp thêm cả dữ liệu về NH.
3.2. Cho phép đăng ký lưu giữ tên doanh nghiệp
Việt Nam chưa có quy định nào cho phép chủ đầu tư có thể đăng ký lưu giữ tên doanh nghiệp trước khi chính thức đăng ký doanh nghiệp. Trong khi đó, một số nước có cho phép chủ đầu tư đăng ký lưu giữ (bảo lưu) tên doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định bằng một thủ tục đơn giản và trong thời gian lưu giữ đó không ai có thể đăng ký hoặc đăng ký lưu giữ tên doanh nghiệp đó. Ví dụ: Pháp luật Thái Lan quy định các thành viên sáng lập côngty buộc phải tra cứu tên doanh nghiệp và TTM có sẵn, sau khi chọn được một tên phù hợp phải đăngký giữ tên doanh nghiệp trên trang web của Cục Phát triển doanh nghiệp; tên doanh nghiệp sẽ được giữ miễn phí nhưng chỉ trong vòng 30 ngày và không được gia hạn, các thành viên sáng lập công ty phải hoàn thành việc đăng ký thành lập công ty trong vòng 30 ngày.[31] Tại Singapore, đăng ký giữ tên doanh nghiệp được quy định như một điều kiện bắt buộc để tiến hành hoạt động kinh doanh tại Singapore trừ trường hợp doanh nghiệp là cá nhân kinh doanh dưới tên riêng của mình;[32] tên doanh nghiệp được lưu giữ trong vòng 2 tháng và phải trả phí lưu giữ, có thể gia hạn thời hạn này thêm 1 lần duy nhất và phải đóng phí gia hạn. Quy định của Úc tương tự với Singapore, có thể đăng ký lưu giữ tên doanh nghiệp trong thời hạn 2 tháng và phải trả phí lưu giữ, tuy nhiên Úc lại cho phép gia hạn việc lưu giữ tên doanh nghiệp nhiều lần miễn là phải đóng thêm phí gia hạn và có văn bản giải thích về lý do cần gia hạn.
4. Kiến nghị cho Việt Nam về vấn đề tên doanh nghiệp
Không thể loại bỏ 100% khả năng xâm phạm quyền SHCN của tên doanh nghiệp, tuy nhiên hạn chế được càng nhiều nguy cơ này càng tốt. Sau đây là một vài kiến nghị nhằm hạn chế nguy cơ xâm phạm quyền SHCN của tên doanh nghiệp.
4.1. Về phía nhà nước
Thứ nhất,hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp, cụ thể là: (i) Cho phép đăng ký lưu giữ tên doanh nghiệp để các nhà đầu tư được “giành quyền ưu tiên” tên doanh nghiệp cho mình trong thời gian chuẩn bị đăng ký doanh nghiệp; (ii) Sửa đổi lại khoản 6 Điều 19 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP theo hướng cho phép Phòng Đăng ký kinh doanh chủ động thực hiện việc thu hồi Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà không cần chờ doanh nghiệp báo cáo, giải trình.
Thứ hai,hoàn thiện pháp luật SHTT, cụ thể là: quy định thêm thủ tục đăng ký TTM và khuyến khích doanh nghiệp đăng ký thông tin TTM (cơ chế tương tự như đối với việc đăng ký bản quyền tác giả, không làm thay đổi căn cứ phát sinh quyền đối với TTM).
Thứ ba, xây dựng một cơ sở dữ liệu về TTM đang được bảo hộ. Việc này chỉ có thể thực hiện được nếu kiến nghị thứ hai được thực hiện
Thứ tư,cung cấp một cơ sở dữ liệu trong đó tích hợp dữ liệu của cả tên doanh nghiệp đã đăng ký và các quyền SHCN có liên quan đang được bảo hộ nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư trong vấn đề đặt tên doanh nghiệp, tránh tình trạng xâm phạm quyền SHCN do thiếu thông tin.
4.2. Về phía doanh nghiệp
Thứ nhất,hạn chế tối đa khả năng xâm phạm quyền SHCN của người khác trong việc đặt tên doanh nghiệpbằng cách tra cứu đầy đủ các kho dữ liệu về tên doanh nghiệptại cổng thông tin doanh nghiệp quốc gia và về quyền SHCN tại website của Cục SHTT, đồng thời có thể tìm thêm thông tin về TTM thông qua các nguồn khác như thông tin về tên miền của VNIC hoặc tra cứu thông qua các công cụ tìm kiếm khác trên internet.
Thứ hai,xác lập quyền NH đối với tên doanh nghiệp, sử dụng thường xuyên tên doanh nghiệpvới tư cách là TTM nhằm bảo hộ được tên doanh nghiệpcủa mình với tư cách là các đối tượng quyền SHCN.
Thứ ba,theo dõi việc thành lập doanh nghiệp, sử dụng tên doanh nghiệpcủa các doanh nghiệp khác để có thể bảo vệ quyền đối với tên doanh nghiệpcủa mình một cách kịp thời khi có hành vi xâm phạm xảy ra.
Như vậy, mặc dù tên doanh nghiệp và các đối tượng quyền SHCN là NH, TTM và CDĐL hoàn toàn khác biệt nhau nhưng chúng đều là những dấu hiệu mang tính chất chỉ dẫn thương mại. Trên thực tế cùng một dấu hiệu có thể thực hiện chức năng của đồng thời cả tên doanh nghiệp và một hoặc một số trong các đối tượng quyền SHCN này. Vì vậy, khả năng tên doanh nghiệp xâm phạm quyền SHCN đối với NH hay TTM hay CDĐL trên thực tế là rất dễ xảy ra.
Trong những vụ kiện tụng, tranh chấp liên quan đến vấn đề tên doanh nghiệp, bên bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHCN thường có đăng ký doanh nghiệp hoàn toàn hợp pháp, cơ quan đăng ký doanh nghiệp tuân thủ đúng quy định của pháp luật doanh nghiệp khi cấp tên cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, tên doanh nghiệp đó lại có dấu hiệu/ khả năng xâm phạm quyền SHCN. Điều này cho thấy thực trạng về khả năng xâm phạm quyền SHCN của tên doanh nghiệp đã trở thành vấn đề cần quan tâm giải quyết. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này không chỉ ở phía doanh nghiệp mà còn xuất phát từ những quy định của pháp luật, vì vậy, cần phải có sự nỗ lực từ cả hai phía là nhà nước và doanh nghiệp.
CHÚ THÍCH
*Chuyên viên Văn phòng đại diện tại Tp. Hồ Chí Minh của Cục Sở hữu trí tuệ.
[1] Luật số 13/1999/QH10 ban hành ngày 12/6/1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000 (viết tắt là LDN năm 1999)
[2] Luật số 60/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2006 (viết tắt là LDN năm 2005).
[3] Khoản 1 Điều 31 LDN năm 2005.
[4] Điều 33 LDN năm 2005.
[5] Điều 34 LDN năm 2005.
[6] Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về Đăng ký doanh nghiệp, ban hành ngày 14/9/2015 (viết tắt là Nghị định 78/2015/NĐ-CP).
[7] Theo khoản 6 Điều 4 Luật SHTT năm 2009 thì chủ thể quyền SHCNbao gồm chủ sở hữu và tổ chức cá nhân được nhận chuyển giao quyền SHCN.
[8] Điều 73 Luật SHTT năm 2009 quy định các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa là NH.
[9] Điều 74 Luật SHTT năm 2009 quy định các trường hợp bị coi là không có khả năng phân biệt của NH. Có thể chia thành hai nhóm là các dấu hiệu không bảo hộ cho bất kỳ ai và các dấu hiệu xâm phạm quyền của người khác.
[10] GCNĐKNH số 61625 (http://iplib.noip.gov.vn/WebUI/WDetail.php?intRecNum=5&HitListViewMode=Text&ref=).
[11] GCNĐKNH số 178936 (http://iplib.noip.gov.vn/WebUI/WDetail.php?intRecNum=12&HitListViewMode=Text&ref=).
[12] GCNĐKNH số 61558 (http://iplib.noip.gov.vn/WebUI/WDetail.php?intRecNum=7&HitListViewMode=Text&ref=).
[13] GCNĐKNH số 231470 (http://iplib.noip.gov.vn/WebUI/WDetail.php?intRecNum=16&HitListViewMode=Text&ref=).
[14] GCNĐKNH số 229867 (http://iplib.noip.gov.vn/WebUI/WDetail.php?intRecNum=15&HitListViewMode=Text&ref=).
[15] GCNĐKNH số 220396 (http://iplib.noip.gov.vn/WebUI/WDetail.php?intRecNum=6&HitListViewMode=Text&ref=).
[16] http://www.cofico.com.vn/lien-he/.
[17] http://www.kinhdo.vn/contact.html.
[18] http://www.viettien.com.vn/modules.php?name=Content&opcase=viewcontent&mcid=149.
[19] http://tuongan.com.vn/vn/Home.aspx.
[20] .http://bahuan.vn/home/cong-ty-tnhh-ba-huan.htm.
[21] .http://www.duytan.com/gioi-thieu/tong-quan-cong-ty.
[22] http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/tranh-chap/4022/doanh-nghiep-xai-ten-trung-phai-doi-ten-khac.
[23] http://buoitantrieu.com/.
[24] Giấychứng nhận đăng ký CDĐL số 31 theo quyết định số 2837/QĐ-SHTT ngày 14/11/2012.
[25] .http://www.betrimex.com.vn/vi/gioi-thieu/lich-su-phat-trien.
[26] Companies House, Incorporation and name(Chapter 8: Objection to Company names P.21-22), 3/2015 (http://www.gov.uk/goverment/publications/incorporation-and-names).
[27] Companies Office, A guide to Company Names (P.4), 6/2010 ((http://www.business.govt.nz/companies/pdf-library/pamphlets-publications/publication-company-names-pdf).
[28] www.dbd.go.th.
[29] www.acra.gov.sg.
[30] http://asic.gov.au/.
[31] Company limited and Parntnership registration according to the Civil and Commercial Code http://www.dbd.go.th/dbdweb_en/ewt_news.php?nid=3966&filename=index.
http://www.dbd.go.th/dbdweb_en/ewt_news.php?nid=3973&filename=index.
[32] Part 1.4 Business Name Registration Act 2014.
- Tác giả: ThS. Ngô Phương Trà
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04(98)/2016 – 2016, Trang 10-17
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời